intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nợ công và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Đông Nam Á (Asean 5)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:40

26
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm nghiên cứu về ảnh hưởng của nợ công lên tăng trưởng kinh tế, từ đó đưa ra những bằng chứng khoa học, đáng tin cậy để xây dựng những chính sách kinh tế hợp lý nhằm khai thác tối đa ưu thế của nợ công cũng như hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực của nợ lên thành quả tăng trưởng

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nợ công và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Đông Nam Á (Asean 5)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH --------- QUÁCH DOANH NGHIỆP NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á (ASEAN 5) LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH --------- QUÁCH DOANH NGHIỆP NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á (ASEAN 5) Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
  3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp này, tôi cũng xin cảm ơn Quý Thầy Cô đã giảng dạy, trang bị kiến thức bổ ích cho tôi trong suốt khóa học. Tôi xin cảm ơn các tác giả, các nhà nghiên cứu mà tôi đã tham khảo bài viết, công trình nghiên cứu của họ để thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Tài chính doanh nghiệp cùng Quý Thầy Cô thuộc bộ môn Tài chính quốc tế đã tạo điều kiện, hỗ trợ và đóng góp những ý kiến quý giá giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc nhất đến Cha Mẹ và gia đình của tôi, những người đã hết lòng quan tâm, động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này ./. Quách Doanh Nghiệp
  4. MỤC LỤC Tóm lược ..................................................................................................................Trang 1 Mở đầu .....................................................................................................................Trang 2 1. Tính mới và những đóng góp của đề tài ..........................................................Trang 2 2. Mục tiêu đề tài ....................................................................................................Trang 4 3. Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế - từ lý thuyết đến bằng chứng thực nghiệm ........................................................................................................Trang 4 3.1 Khái niệm nợ công ..............................................................................................Trang 4 3.2 Mối quan hệ giữa nợ công lên tăng trưởng kinh tế .............................................Trang 6 3.2.1 Nợ công thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .......................................................Trang 6 3.2.2 Nợ công kiềm hãm tăng trưởng kinh tế .....................................................Trang 6 3.2.3 Mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và tăng trưởng .................................Trang 9 4. Mô hình, dữ liệu, phương pháp nghiên cứu ..................................................Trang 12 4.1 Mô hình .............................................................................................................Trang 12 4.2 Dữ liệu ...............................................................................................................Trang 15 4.3 Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................Trang 15 5. Kết quả thực nghiệm và thảo luận .................................................................Trang 16 5.1 Tác động của Nợ công đến tăng trưởng kinh tế ................................................Trang 16 5.2 Tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế qua kênh nợ công .Trang 21 6. Kết luận ............................................................................................................Trang 25 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ Trang 27 PHỤ LỤC SỐ LIỆU .............................................................................................Trang 30
  5. DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1: Mô tả biến và nguồn dữ liệu .....................................................................Trang 14 Bảng 2: Kết quả hồi quy với phương pháp pooled-OLS .........................................Trang18 Bảng 3: Kết quả Hausman test ...............................................................................Trang 18 Bảng 4: Kết quả hồi quy với mô hình FEM ............................................................Trang 19 Bảng 5: Kết quả hồi quy với mô hình FEM có hiệu chỉnh phương sai thay đổi ....Trang 20 Bảng 6: Kết quả hồi quy với phương pháp GMM...................................................Trang 21 Bảng 7: Thống kê mô tả tổng nợ chính phủ của các quốc gia trong mẫu ..............Trang 22 Bảng 8: Kết quả hồi quy sử dụng biến giả dum44 và dum44_exp ........................Trang 23 DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1: Đồ thị biểu diễn dữ liệu nợ chính phủ của mẫu nghiên cứu ......................Trang 22 Hình 2: Thâm hụt ngân sách của các quốc gia Đông Nam Á (Asean 5) Giai đoạn 2003 – 2011.............................................................................................Trang 24
  6. Tóm lược Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm kiếm bằng chứng về mối quan hệ phi tuyến của Tổng Nợ chính phủ lên tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở các quốc gia Đông Nam Á (Asean 5), giai đoạn từ 2000 – 2012. Theo kết quả nghiên cứu, tác giả tìm thấy bằng chứng đáng tin cậy về mối quan hệ phi tuyến giữa Tổng Nợ chính phủ/GDP và tăng trưởng GDP bình quân đầu người, nghĩa là tồn tại hiệu ứng chữ U ngược, nợ tác động cùng chiều lên tăng trưởng GDP trong giai đoạn đầu nhưng sẽ ngược lại khi tỷ lệ nợ gia tăng vượt quá một mức ngưỡng. Tác giả cũng tìm thấy bằng chứng tồn tại một mức ngưỡng nợ công cụ thể đối với các quốc gia trong mẫu này là 86%, điểm mà tại đó nợ sẽ tác động ngược chiều lên tăng trưởng. Bên cạnh đó, kết quả thực nghiệm của tác giả cho biết với tỷ lệ nợ chính phủ/GDP từ mức 44%/GDP trở lên việc gia tăng 10% tỷ lệ nợ chính phủ/GDP sẽ làm tăng trưởng GDP thấp hơn bình quân 0,1% so với thời kỳ tỷ lệ nợ/GDP thấp hơn 44%. Ngoài ra, tác giả còn tìm thấy bằng chứng ảnh hưởng ngược chiều của chi tiêu chính phủ đến tăng trưởng kinh tế, trong mẫu nghiên cứu này, cụ thể 10% gia tăng trong tỷ lệ chi tiêu chính phủ/GDP sẽ làm tăng trưởng GDP bình quân giảm từ 2,3% đến 2,7%. Tác giả cũng phát hiện được bằng chứng việc gia tăng chi tiêu chính phủ trong thời kỳ nợ chính phủ/GDP ở mức cao sẽ gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế. Trong nghiên cứu này tác giả áp dụng mô hình hồi quy GMM (Generalized method of moments) trên dữ liệu bảng để gia tăng tính chính xác của kết quả nghiên cứu so với phương pháp bình phương bé nhất (OLS) truyền thống khi nghiên cứu mẫu số liệu theo thời gian. Từ khóa: Tổng Nợ chính phủ (General government gross debt); Tăng trưởng kinh tế; Nợ công Trang 1
  7. Mở đầu Trong phát triển kinh tế - xã hội, nguồn vốn vay nợ luôn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, thị trường vốn ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho hoạt động vay nợ diễn ra dễ dàng và thuận lợi hơn từ đó góp phần gia tăng nợ công của các quốc gia trong quá trình phát triển. Vấn đề nợ công gần đây đã thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận thế giới, các nhà làm chính sách và các nhà nghiên cứu với tâm điểm là cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp và một số quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Khu vực Đông Nam Á gần đây nổi lên như một trung tâm kinh tế năng động và giàu tiềm năng của thế giới, cùng với đà tăng trưởng kinh tế đang đi vào ổn định kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997, tỷ lệ nợ chính phủ/GDP của các quốc gia Đông Nam Á cũng không ngừng gia tăng. Nợ công đã tạo ra một động lực giúp duy trì tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao nhưng đồng thời cũng gây ra nhiều rủi ro không lường trước được. Bài học về khủng hoảng nợ công ở Mỹ và Liên minh Châu Âu đang là hồi chuông báo động về tình trạng nợ công chung trên toàn thế giới. Do đó, tác giả thực hiện đề tài “Nợ công và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Đông Nam Á (Asean 5)” làm đề tài luận văn của mình nhằm nghiên cứu về ảnh hưởng của nợ công lên tăng trưởng kinh tế, từ đó đưa ra những bằng chứng khoa học, đáng tin cậy để xây dựng những chính sách kinh tế hợp lý nhằm khai thác tối đa ưu thế của nợ công cũng như hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực của nợ lên thành quả tăng trưởng. 1. Tính mới và những đóng góp của đề tài: Vấn đề nợ công trong thời gian gần đây đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của dư luận từ các nước phát triển đến những nước đang phát triển. Tác động của nợ công đến đời sống kinh tế xã hội ngày càng to lớn, đe dọa đến sự tồn tại hoặc phá sản của một quốc gia, làm gia tăng rủi ro quốc gia và bất ổn kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Trong bối cảnh đó, hiểu biết một cách thấu đáo về nợ công và tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế là một điều cần thiết đối với các nhà làm chính sách. Trang 2
  8. Cho đến thời điểm hiện tại, giới học thuật vẫn còn tranh luận về tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế chủ yếu là tính chất tuyến tính và phi tuyến của nợ công. Hiện tồn tại hai trường phái chính: nợ công có tác động tuyến tính lên tăng trưởng và nợ công tác động phi tuyến lên tăng trưởng kinh tế. Các công trình nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và một vài nghiên cứu tại Việt Nam cũng đã xác nhận các tranh luận trên của các nhà kinh tế. Các công trình nghiên cứu trên thế giới gần đây đã sử dụng rất nhiều các phương pháp kinh tế lượng hiện đại để gia tăng tính chính xác trong kết quả nghiên cứu và khắc phục các nhược điểm vốn có của bộ dữ liệu thời gian. Tuy nhiên ở Việt Nam cũng như các quốc gia Đông Nam Á, các nghiên cứu hiện tại chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế dựa theo phương pháp OLS, điều này thôi thúc tác giả mạnh dạn áp dụng các phương pháp kinh tế lượng hiện đại hơn để nghiên cứu tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế ở mẫu đại diện các quốc gia Đông Nam Á (Asean 5) nhằm xác nhận các kết quả nghiên cứu đã có trước đó. Dựa theo tình hình và kết quả nghiên cứu, đề tài có những đóng góp sau: Về phương diện học thuật:  Hệ thống hóa những lý luận chung về nợ công, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế.  Ứng dụng mô hình GMM trên dữ liệu bảng nhằm khắc phục các nhược điểm của bộ dữ liệu thời gian và gia tăng chính xác cho kết quả nghiên cứu.  Tìm thấy mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế trong mẫu nghiên cứu, qua đó xác định được ngưỡng nợ công phù hợp.  Tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ chính sách tài khóa với nợ công và tăng trưởng kinh tế. Trang 3
  9. Về phương diện thực tiễn:  Các bằng chứng tìm thấy trong đề tài là cơ sở khoa học để các nhà hoạch định chính sách có thể tham khảo từ đó xây dựng các chính sách và chương trình hành động cần thiết nhằm sử dụng hiệu quả nợ công trong phát triển kinh tế đất nước.  Công trình là một thử nghiệm mới về phương pháp kinh tế lượng GMM kết hợp với dữ liệu bảng nên sẽ có giá trị tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề nợ công và tăng trưởng kinh tế nói chung cũng như các vấn đề liên quan tới phương pháp GMM và dữ liệu bảng nói riêng. 2. Mục tiêu đề tài: Với định hướng nghiên cứu của mình, tác giả mong muốn có thể đưa ra những luận cứ khoa học đáng tin cậy về tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế các quốc gia Đông Nam Á (Asean 5). Cụ thể đề tài tập trung trả lời câu hỏi nghiên cứu:  Câu hỏi thứ nhất, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế của các nước trong mẫu nghiên cứu là mối quan hệ tuyến tính hay phi tuyến? Ngưỡng nợ công phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của các nước này là bao nhiêu?  Câu hỏi thứ hai, tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế qua kênh nợ công? 3. Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế - từ lý thuyết đến bằng chứng thực nghiệm: 3.1 Khái niệm về nợ công Theo IMF (2003), nợ công theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách Nhà nước quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của chính phủ trung Trang 4
  10. ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh thanh toán. Tùy thuộc thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…). Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.  Theo đó, nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật.  Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.  Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.  Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành. Mặc dù định nghĩa nợ công của Việt Nam gần giống khái niệm nợ công theo nghĩa hẹp của các tổ chức quốc tế, tuy nhiên giữa các khái niệm này cũng còn khác biệt, điều này giải thích vì sao số liệu công bố của Việt Nam thường lệch so với tổ chức quốc tế. Theo Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, nợ công phù hợp với thông lệ quốc tế phải bao gồm các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước tự vay tự trả, trong khi đó, Việt Nam chỉ tính nợ của doanh nghiệp nhà nước là nợ công khi món nợ đó được chính phủ bảo lãnh. Trong dự toán thâm hụt ngân sách hàng năm, Việt Nam tính cả các khoản chi trả nợ gốc vào Trang 5
  11. tổng chi nhưng nhiều khoản chi từ nguồn trái phiếu chính phủ cho các dự án y tế, giáo dục, … lại không được tính vào thâm hụt ngân sách hàng năm và tổng nợ công như theo cách tính của IMF. Ngoài ra, những công trình đầu tư cần nhiều năm để hoàn thành lại được chia ra để tính theo quyết toán ngân sách mỗi năm mà không được tính vào năm phát hành trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho dự án. Một khoản nữa Việt Nam chưa tính vào nợ công là khoản nợ lương hưu tiềm ẩn trong khoản nợ của chính phủ. Do đó, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2011) đã đề nghị: “Nợ công = Nợ công (do Bộ tài chính công bố chưa bao gồm trái phiếu chính phủ) + Nợ DNNN tự vay tự trả + Nợ lương hưu”. Với cách tính này Nợ công mới thể hiện đầy đủ bản chất và quy mô của nó, chỉ trên cơ sở tính đủ và tính đúng thì các nhà làm chính sách mới có cơ hội nhìn nhận, đánh giá và đưa ra chính sách thích hợp trong vấn đề quản lý nợ công. 3.2 Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế Như đã đề cập, nợ công gia tăng là do chính phủ cần bù đắp cho thâm hụt ngân sách, khi nguồn thu không đủ tài trợ cho nhu cầu đầu tư và chi tiêu công; do đó nợ công tăng cũng không ngoài mục tiêu nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Nhưng trên thực tế có phải nợ công gia tăng luôn thúc đẩy tăng trưởng hay không thì lại là một câu hỏi còn gây nhiều tranh cãi. Đã có rất nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm xoay quanh mối quan hệ này, dưới đây tác giả trích dẫn một số nghiên cứu nổi bật xoay quanh ba trường phái: Nợ công thúc đẩy tăng trưởng, Nợ công kiềm hãm tăng trưởng, Nợ công vừa thúc đẩy lại vừa kiềm hãm tăng trưởng (tùy theo quy mô nợ) 3.2.1 Nợ công thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Các nghiên cứu lý thuyết về tác động của nợ công trong ngắn hạn hầu hết đều cho thấy có mối quan hệ cùng chiều giữa nợ công và tăng trưởng. Theo trường phái Keynes, trong điều kiện giá cả và tiền lương là cứng nhắc xét trong ngắn hạn thì việc tăng chi tiêu ngân sách (tức là sẽ làm tăng thâm hụt ngân sách và được tài trợ bằng nợ vay) sẽ kích thích tiêu dùng, giảm tiết kiệm và làm tăng tổng cầu. Do đó, sản lượng cân bằng có thể gia tăng. Một kết luận về vai trò của nợ công tương tự cũng Trang 6
  12. được Elmendorf và Mankiw (1999) đồng thuận, các nhà nghiên cứu này cho rằng, trong ngắn hạn, nợ có thể kích thích nhu cầu và sản lượng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 3.2.2 Nợ công kiềm hãm tăng trưởng kinh tế: Các nghiên cứu về nợ công và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn hầu hết cho thấy mối quan hệ nghịch biến, thông qua nhiều kênh truyền dẫn khác nhau, dưới đây là hai kênh truyền dẫn được đồng tình nhiều nhất Thứ nhất, tài trợ thâm hụt ngân sách bằng nợ công sẽ làm tăng gánh nặng trả nợ trong tương lai, chính phủ bắt buộc phải tăng thuế để có thể trả nợ. Nghiên cứu của Modigliani (1961) cho rằng nợ quốc gia là một gánh nặng cho những thế hệ kế tiếp, nợ quốc gia thể hiện như là một dòng thu nhập bị sụt giảm trong tương lai. Ông cũng chỉ ra rằng nợ quốc gia sẽ ảnh hưởng lên lãi suất dài hạn, có thể dưới dạng phi tuyến, theo lập luận của Modigliani nếu chính phủ đó vận hành với quy mô khá lớn, điều này có thể làm gia tăng đáng kể lãi suất dài hạn từ đó dẫn đến sự sụt giảm của vốn đầu tư tư nhân và có khuynh hướng làm giảm sản lượng biên của đầu tư tư nhân. Ông cũng cho rằng, ngay cả khi nợ quốc gia được tạo ra như là một chính sách kinh tế phản chu kỳ và chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ có thể nới lỏng mạnh nhất với toàn bộ cấu trúc của lãi suất đều giảm xuống mức thấp nhất có thể thì nợ tăng một cách tổng quát sẽ có lợi cho thế hệ hiện tại nhưng thế hệ tương lai sẽ gánh chịu chi phí trả nợ (bao gồm vốn gốc và lãi). Tương tự, Barro (1979), Dotsey và Mao (1994) cũng cho rằng nợ công cao tác động bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế thông qua hệ thống thuế tương lai cao hơn. Sau Modigliani, trong nghiên cứu của Diamond (1965), đã bổ sung thêm tác động của thuế lên tổng nguồn vốn và phân biệt giữa nợ công nước ngoài và nợ công trong nước. Ông kết luận rằng, thông qua tác động của thuế được chính phủ sử dụng để trả lãi vay, cả hai loại nợ công trên sẽ làm giảm mức tiêu dùng trong đời sống của những người đóng thuế, cũng như tiết kiệm của họ. Thêm vào đó, ông khẳng định rằng nợ trong nước có thể gây ra một sự sụt giảm nhiều hơn trong tổng nguồn vốn (capital stock) bởi vì có một Trang 7
  13. lượng vốn hữu hình (physical capital) đã bị thay thế bởi nợ chính phủ trong danh mục đầu tư của cá nhân. Barro (1989) đã bổ sung thêm rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ sẽ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của công chúng mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Người dân dự tính rằng, nếu hiện tại chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm trong tương lai, chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người dân tiết kiệm ở hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc bù đắp cho mức tăng giá hàng hóa và dịch vụ, điều này sẽ gia tăng tiết kiệm, giảm tổng cầu từ đó làm giảm tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, nợ công cao sẽ làm tăng lãi suất tài trợ do các nhà đầu tư yêu cầu, để bù đắp cho rủi ro gia tăng. Thâm hụt ngân sách chính phủ được tài trợ bằng nợ nhiều hơn sẽ khiến cho các nhà đầu tư lo ngại về khả năng thanh toán của quốc gia. Nếu quốc gia đó muốn thuyết phục các nhà đầu tư này tiếp tục tài trợ cho mình thì buộc phải tăng lãi suất để bù đắp cho rủi ro vỡ nợ gia tăng, kết quả là lãi suất dài hạn sẽ trở nên cao hơn. Nghiên cứu của Ball và Mankiw (1995), Orszag, Rubin và Sinai (2004), đã xác nhận rằng việc tăng nợ có thể làm cho các nhà đầu tư cảnh giác rằng quốc gia sẽ không có khả năng thanh toán những khoản nợ cho các nhà cung cấp tín dụng, kết quả là những nhà đầu tư vào quốc gia có nợ cao sẽ đòi tăng lãi suất. Lãi suất cao sẽ làm giảm đầu tư của khu vực tư nhân, John Irons và Josh Bivens (2010) cho rằng một sự gia tăng trong thâm hụt ngân sách nghĩa là Chính phủ phải gia tăng nhu cầu với các quỹ tiết kiệm từ khu vực tư nhân, tìm kiếm những khoản vay từ dân chúng cũng như từ các nhà đầu tư nước ngoài. Hay nói cách khác là Chính phủ bắt đầu cuộc cạnh tranh với những nhà đầu tư tư nhân trong việc thu hút những khoản tiết kiệm cố định và do đó đẩy lãi suất tăng. Việc tăng lãi suất này có thể dẫn đến sự sụt giảm trong đầu tư tư nhân, khiến cho nền kinh tế sẽ có nguồn vốn ít hơn để vận hành, và vì vậy làm Trang 8
  14. giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Điều này được gọi là tình trạng chèn lấn đầu tư tư nhân, từ đó kiềm hãm tăng trưởng sản lượng tiềm năng. Mặt khác, khi vốn có xu hướng dịch chuyển từ khu vực tư sang khu vực công lại ngoài việc gây ra hiệu ứng gia tăng trong lãi suất tư nhân mà qua đó còn làm sụt giảm trong chi tiêu tư nhân và cả của hộ gia đình lẫn doanh nghiệp. Nghiên cứu của Elmendorf và Mankiw (1999) đã xác nhận một kênh truyền quan trọng mà qua đó sự tích lũy nợ công có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng là lãi suất dài hạn. Như vậy, việc lãi suất tăng cao sẽ dẫn đến sự xáo trộn thị trường tài chính, và tổn hại đến tăng trưởng thông qua kênh làm giảm vốn đầu tư vào khu vực tư nhân. Một kết quả nghiên cứu khác về mối quan hệ của tăng trưởng GDP liên quan đến tỷ số nợ cũng được tìm thấy bởi Kumar và Woo (2010) đã đưa ra hai kết luận quan trọng rằng: (i) Những khoản nợ lớn có thể làm cản trở quá trình tích lũy vốn và làm giảm tăng trưởng kinh tế, (ii) tính bình quân, một sự gia tăng 10% trong tỷ lệ nợ/GDP đầu kỳ đi kèm với một sự sụt giảm trong tăng trưởng GDP thực/ đầu người hàng năm: khoảng 0.2% mỗi năm đối với nhóm nước tiên tiến; khoảng 0.15 % mỗi năm đối với nhóm nước mới nổi. 3.2.3 Mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và tăng trưởng: Qua các nghiên cứu đã dẫn, các nhà kinh tế đều chấp nhận mối quan hệ tuyến tính giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, mặc dù họ vẫn còn tranh luận về tác động thuận chiều hoặc ngược chiều của nợ công lên tăng trưởng kinh tế. Mặc dù, có thể thấy đa số đều kết luận rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa nợ công và tăng trưởng, tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, rõ ràng không thể phủ nhận vai trò của nợ trong việc bổ sung nguồn vốn đầu tư quan trọng cho nền kinh tế cũng như bù đắp thiếu hụt trong chi tiêu chính phủ, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, nghĩa là nợ công góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Vậy phải chăng giữa nợ công và tăng trưởng đã không chỉ dừng lại ở mối quan hệ tuyến tính. Với lập luận này, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã tìm kiếm và phát hiện ra bằng chứng về mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế. Trang 9
  15. Kể từ nửa sau thập niên 90, các nhà làm chính sách trên thế giới đã nhận ra mối liên hệ giữa việc mắc nợ nước ngoài cao trong nhiều nền kinh tế đang phát triển với nguy cơ giới hạn sự tăng trưởng và phát triển ở các quốc gia này. Trong mô hình nghiên cứu về tăng trưởng được đề nghị bởi Aschauer (2000), đã cho thấy vốn đầu tư công có ảnh hưởng phi tuyến lên tăng trưởng kinh tế, có thể bao hàm trong đó tác động của nợ công. Giả định rằng nợ chính phủ được sử dụng ít nhất một phần để tài trợ cho nguồn vốn đầu tư công nếu chính phủ sử dụng hiệu quả thì một sự tăng lên trong nợ công sẽ có ảnh hưởng tích cực lên tăng trưởng kinh tế cho đến một ngưỡng nhất định nào đó và tác động tiêu cực khi vượt ngưỡng này. Trong nghiên cứu của Pattilo và cộng sự (2002), họ đã tìm thấy bằng chứng thực nghiệm ủng hộ tác động phi tuyến của nợ lên tăng trưởng: tại mức nợ thấp, nợ gần như có tác động cùng chiều lên tăng trưởng; nhưng khi trên một ngưỡng nào đó hay thường gọi là một điểm ngoặt (turning point), việc gia tăng thêm nợ bắt đầu gây ra tác động trái chiều lên tăng trưởng. Những bằng chứng thực nghiệm cho thấy mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế cũng đã được phát hiện trước đó bởi Smyth và Hsing (1995), cũng như Cohen (1997). Ngoài ra, Clements và cộng sự (2003) trong mẫu hình lý thuyết của mình đã khẳng định một ảnh hưởng phi tuyến của nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế thông qua kênh đầu tư. Theo đó, việc tích lũy nợ nước ngoài có thể thúc đẩy đầu tư cho đến khi nợ công đạt một ngưỡng nhất định nào đó, một khi nợ vượt một ngưỡng như thế, việc thừa nợ sẽ bắt đầu làm gia tăng áp lực tiêu cực lên sự sẵn lòng cung cấp vốn của nhà đầu tư dẫn đến sự thiếu hụt vốn và làm cho tăng trưởng kinh tế suy giảm. Nghiên cứu thực nghiệm được Clements và cộng sự (2003) thực hiện ở 55 quốc gia thu nhập thấp trong giai đoạn 1970- 1999 nhận thấy rằng điểm ngoặt trong hiện giá thuần của nợ nước ngoài ở quanh mức 20- 25% GDP Một số nghiên cứu khác đã xem xét tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế tại các nền kinh tế phát triển. Hầu hết các nghiên cứu này đã được thúc đẩy bởi giả thuyết “nợ dư thừa” - một tình huống mà khi gánh nặng nợ quốc gia trở nên quá lớn - sẽ có một Trang 10
  16. phần lớn sản lượng chỉ để dành chi trả cho cho các chủ nợ nước ngoài và do đó tạo ra tác động không khuyến khích đầu tư. Cụ thể, Imbs và Ranciere (2009) tìm thấy một hiệu ứng phi tuyến của nợ nước ngoài lên tăng trưởng, tác động tiêu cực và đáng kể vào tăng trưởng ở mức độ nợ cao (thông thường, trên 60% GDP), nhưng tác động không đáng kể ở mức độ nợ thấp. Ngược lại, Cordella, Ricci và Arranz (2005) tìm thấy bằng chứng của việc nợ dư thừa đối với mức nợ trung bình, nhưng không đáng kể trong mối quan hệ nợ và tăng trưởng ở mức rất thấp và rất cao của nợ. Với cùng mục tiêu nghiên cứu trên, nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đã phát hiện ra bằng chứng xác nhận ảnh hưởng phi tuyến của nợ nước ngoài lên tăng trưởng. Những ảnh hưởng tiêu cực của nợ chỉ xuất hiện sau khi mức nợ vượt qua một ngưỡng tỷ số nợ/GDP nhất định. Pattillo và cộng sự (2002) đã nghiên cứu trên một bộ dữ liệu bảng lớn của 93 nước đang phát triển trong giai đoạn 1969-1998 và nhận thấy rằng ảnh hưởng của nợ nước ngoài lên tăng trưởng GDP bình quân đầu người là tiêu cực với mức hiện giá thuần của nợ đạt trên 35-40% GDP. Checherita và Rother (2010) lại tiến hành điều tra mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP và tỷ lệ tăng trưởng GDP thực trên đầu người đối với mẫu 12 nước thuộc khu vực đồng tiền Euro, trong giai đoạn 1970-2011, qua đó tìm thấy bằng chứng về tác động phi tuyến của nợ chính phủ lên tỷ lệ tăng trưởng GDP thực trên đầu người trong mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ phi tuyến (hình chữ U ngược) giữa nợ công và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế với điểm ngoặt của nợ vào khoảng 90 – 100% GDP. Điều này có nghĩa là khi kết hợp một tỷ lệ nợ/GDP cao hơn, tính trung bình, tỷ lệ tăng trưởng dài hạn sẽ thấp hơn khi mức nợ vượt trên 90 – 100% GDP. Trong một nghiên cứu rất nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn trên thế giới được thực hiện bởi Reinhart and Rogoff (2010) về sự phát triển của nợ công và tốc độ tăng trưởng GDP thực dài hạn trong mẫu 44 quốc gia phát triển trải dài khoảng hai thế kỷ (1790 – 2009), các nhà nghiên cứu đã đưa ra 3 kết luận: (i) mối quan hệ giữa nợ chính phủ và tăng trưởng dài hạn là yếu đối với tỷ số nợ/GDP dưới ngưỡng 90% GDP, ở mức nợ trên 90% GDP tốc độ tăng trưởng trung vị giảm khoảng 1% và tốc độ tăng trưởng bình quân giảm 2,2%; (ii) nền kinh tế mới nổi đối mặt với ngưỡng nợ nước ngoài thấp hơn; khi nợ nước ngoài Trang 11
  17. đạt tới 60% GDP, tăng trưởng hằng năm giảm khoảng 2%; đối với mức nợ cao hơn, tốc độ tăng trưởng giảm gần như một nửa; (iii) không có mối liên hệ rõ ràng giữa nợ công và tăng trưởng ở nhóm các nước phát triển. Nghiên cứu của Chang, Chiang và cộng sự (2006) lại đưa ra một ngưỡng nợ phù hợp là 66,63% trong nghiên cứu về ngưỡng nợ đối với nhóm nước phát triển OECD. Còn Becker, Deuber và Stankiewicz (2010) thì đưa ra một tỷ lệ thấp hơn, nghiên cứu của các ông cho thấy ngưỡng giới hạn an toàn của tỷ lệ nợ trên GDP cho các quốc gia phát triển và các quốc gia mới nổi lần lượt là 60% và 40%. Trái với các nghiên cứu trên, Schclarek (2004) nhận thấy ảnh hưởng tuyến tính ngược chiều của nợ nước ngoài lên tăng trưởng bình quân đầu người và không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ chữ U ngược trong danh sách 59 nước đang phát triển giai đoạn 1970-2002. Tác giả cũng điều tra mối quan hệ giữa tổng nợ chính phủ và tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở các nước phát triển và cho thấy không có bằng chứng thuyết phục nào về mối quan hệ có ý nghĩa thống kê đối với 24 nước công nghiệp với dữ liệu trong giai đoạn giữa 1970 và 2002.1 Với khá nhiều quan điểm khác nhau còn tồn tại về ảnh hưởng của nợ công lên tăng trưởng kinh tế nên tác giả thực hiện đề tài này nhằm tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm để làm rõ về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia Đông Nam Á là như thế nào. 4. Mô hình, dữ liệu, phương pháp nghiên cứu 4.1 Mô hình Để tìm câu trả lời cho câu hỏi về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng cho mẫu nghiên cứu, tác giả dựa theo đề xuất của Bosworth và Collins (2003) cho thấy cần tập trung vào một tập hợp cốt lõi của các biến giải thích đã được chứng minh phù hợp với 1 Những nước công nghiệp được sử dụng trong bài nghiên cứu này là Úc, Áo, Bỉ, Canada, cộng hòa Síp, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Israel, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Anh và Mỹ. Trang 12
  18. tăng trưởng sau đó đánh giá lần lượt các biến số cần thiết khác được đưa thêm vào mô hình. Cụ thể, dựa theo nghiên cứu của Sala-i-Martin và cộng sự (2004) đã chỉ ra các lựa chọn trong việc thiết lập các tập hợp các yếu tố nền tảng quyết định sự tăng trưởng từ kết quả hồi quy tăng trưởng chéo giữa các quốc gia, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra và xác định 18 biến có ý nghĩa thống kê, trong đó chỉ có một vài biến số kinh tế, chẳng hạn như: giá trị đầu kỳ của GDP thực bình quân đầu người, số học sinh tiểu học, mức chi tiêu của chính phủ, độ mở thương mại. Ngoài ra, để xây dựng phương trình nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đặc biệt quan tâm đến phương trình ước lượng cơ bản được thiết kế bởi Checherita và Rother (2010), Kumar và Woo (2010), trong đó các nhà nghiên cứu này đã đề nghị thêm các biến giải thích cần thiết cho mô hình là biến tỷ lệ tiết kiệm/GDP. Mô hình thực nghiệm tác giả xây dựng dựa theo lý thuyết kinh tế học về tăng trưởng và kế thừa các nghiên cứu thực nghiệm trước đó. Trong đó biến phụ thuộc là tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người, các biến độc lập nền tảng được sử dụng trong nghiên cứu gồm: giá trị trễ một kỳ của tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người; độ mở thương mại để mở rộng mô hình truyền thống chỉ dựa trên nền kinh tế đóng; tỷ lệ gia tăng dân số như đề xuất của Sala-i-Martin và cộng sự (2004); tỷ lệ tiết kiệm/GDP làm đại diện cho yếu tố vốn trong mô hình tăng trưởng theo nghiên cứu của Checherita và Rother (2010), Kumar và Woo (2010). Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu của đề tài, mô hình được mở rộng bằng cách đưa vào mức tổng nợ chính phủ (tính bằng % GDP) làm đại diện cho tỷ lệ nợ công ở các quốc gia trong mẫu để nghiên cứu mức độ tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế. Mô hình ước lượng cũng sử dụng mức độ ban đầu của nợ (trễ một thời kỳ) để tránh các vấn đề quan hệ nhân quả đảo ngược đó là tăng trưởng kinh tế chậm hơn có thể dẫn đến sự tích tụ nợ cao, trong khi mục tiêu nghiên cứu của tác giả là nợ cao có thể làm giảm tăng trưởng. Trang 13
  19. Ngoài ra, để kiểm tra xem liệu có tồn tại hay không một tác động phi tuyến của nợ chính phủ lên sự tăng trưởng, tác giả đã sử dụng phương trình bậc hai của nợ để kiểm chứng. Mức chi tiêu của chính phủ cũng được đưa vào mô hình như một biến kiểm soát để cho phép đánh giá tác động chính sách tài khóa đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phương trình ước lượng cơ bản được viết dưới dạng như sau: g_gdpit=α+β1*g_gdpit-1+β2*sav+β3*pop+β4*trade+γ1*debtit-1+γ2*debt2it-1+λ*exp it + μi + εt + ωit (1) Trong đó: g_gdpit : tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hằng năm g_gdpit-1 : tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân đầu người năm trước sav : tỉ lệ tiết kiệm/GDP pop : tốc độ gia tăng dân số trade : mức độ mở cửa mậu dịch (%GDP) exp : chi tiêu ngân sách của chính phủ debtit-1 : tổng nợ chính phủ tính % theo GDP (General government gross debt) debt2it-1 : bình phương tổng nợ chính phủ μi : tác động cố định của mỗi quốc gia εt : tác động cố định của thời gian ωit : phần dư Bảng 1: Mô tả các biến và nguồn dữ liệu Ký hiệu biến Diễn giải Nguồn g_gdpit Tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người hàng năm WEO g_gdpit-1 Tăng trưởng GDP bình quân đầu người năm trước WEO sav Tỉ lệ tiết kiệm/GDP (%/GDP) WEO pop Quy mô dân số (logarit tự nhiên dân số hàng năm) WEO trade Độ mở mậu dịch (% tổng giá trị xuất, nhập khẩu trên GDP) WDI debtit-1 Tổng nợ chính phủ (General government gross debt) đầu kỳ WEO debt2it-1 Tổng nợ chính phủ bình phương đầu kỳ WEO exp Chi tiêu ngân sách của chính phủ (%/GDP) WDI Trang 14
  20. 4.2 Dữ liệu Dữ liệu trong bài nghiên cứu được thu thập trong giai đoạn từ 2000 đến 2012 từ cơ sở dữ liệu của International Monetary Fund: World Economic Outlook Database (WEO), October 2012 và cơ sở dữ liệu World Development Indicators (WDI – 2012) của World Bank. Các nước nghiên cứu trong mẫu (Asean 5) bao gồm: Việt Nam, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Indonesia. Dữ liệu được hình thành dưới dạng dữ liệu bảng (panel data). Trong bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng Tổng nợ chính phủ (được tính bằng tỷ lệ %/GDP thực bình quân đầu người) là chỉ tiêu đại diện cho nợ công của các quốc gia trong mẫu, điều này được kế thừa từ các nghiên cứu đo lường mức độ ảnh hưởng của nợ công đến tăng trưởng kinh tế của Checherita và Rother (2010), Kumar và Woo (2010) và vì sự tương thích với bộ dữ liệu mà tác giả thu thập. 4.3 Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp phân tích định tính bao gồm tổng hợp, so sánh, phân tích nhằm khái quát hóa các quan điểm của các nhà nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế để làm cơ sở nền tảng lý thuyết cho nghiên cứu của mình. Tác giả cũng sử dụng phân tích định lượng thông qua việc ước lượng mô hình nghiên cứu bằng nhiều phương pháp kinh tế lượng khác nhau: pooled OLS, REM, FEM và GMM để tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đã được đặt ra. Đầu tiên, trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng hồi quy với pooled OLS cho bảng dữ liệu thu thập được với mục tiêu kiểm định xu hướng tác động của tổng nợ chính phủ đầu kỳ lên mức độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người trong kỳ và tính chất phi tuyến của nợ. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp pooled OLS là kết quả hồi quy sẽ không hiệu quả và không đáng tin cậy do đánh đồng tác động của từng quốc gia (yếu tố chéo) vào biến phụ thuộc. Tác giả cũng sử dụng FEM (fixed effect) và REM (random effect) để ước lượng mô hình trên dữ liệu bảng. Tuy nhiên, khi gặp phải vấn đề nội sinh (endogeneity) Trang 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1