Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển Khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai hiện nay
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu của Luận văn này nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển Khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai. trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển Khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển Khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai hiện nay
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ THU HÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
- 2 BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ THU HÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN ĐĂNG BỘ HÀ NỘI - 2014
- 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI 9 1.1. Quan niệm về khoa học và công nghệ; phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp 9 1.2. Quan niệm, sự cần thiết và nội dung phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai 16 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI 32 2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội chi phối sự phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai 32 2.2 Thực trạng phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai và những vấn đề đặt ra hiện nay 39 Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI 68 3.1. Quan điểm phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới 68 3.2. Giải pháp phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới 75 KẾT LUẬN 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97 PHỤ LỤC 101
- 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Về vai trò KHCN, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI khẳng định “Phát triển và ứng dụng KHCN là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển KTXH và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp”. Vì vậy, phát triển KHCN không chỉ là chủ trương chiến lược của Đảng, Nhà nước ta, mà còn là sự lựa chọn nhằm mục tiêu phát triển bền vững của nhiều địa phương, trong đó Đồng Nai không phải là ngoại lệ. Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương Bảy khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhấn mạnh: Phát triển KHCN phải trở thành khâu đột phá để phát triển nông nghiệp hiện đại và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Phát triển nhanh việc ứng dụng công nghệ sinh học và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; tập trung vào việc phát triển giống cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thuỷ sản. Nâng cao năng lực và đổi mới cơ chế, chính sách quản lý KHCN để nâng cao hiệu quả nghiên cứu và chuyển giao nhanh tiến bộ KHCN vào sản xuất. Đồng Nai là một tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đất đai rộng, có nhiều tiềm năng, điều kiện thuận lợi về tự nhiên, xã hội để thu hút nguồn lực cho phát triển KTXH, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp. Sau gần 30 năm đối đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương Bảy khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tình hình nông nghiệp, nông dân, nông thôn Đồng Nai liên tục phát triển và đạt được thành tựu khá toàn diện, góp phần quan trọng ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực. Theo đó, đang xuất hiện nhiều thách thức mới trong
- 5 nông nghiệp, nông thôn và nông dân ảnh hưởng tới CNH,HĐH ở Đồng Nai. Có nhiều nguyên nhân, trong đó sự phát triển của KHCN chưa đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh. Có thể nói, đứng trước yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay, sự phát triển KHCN ở tỉnh Đồng Nai còn nhiều bất cập. Để khắc phục bất cập trên, cần có sự nghiên cứu toàn diện, hệ thống về phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp “làm cho KHCN thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển LLSX hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[28; tr.66] cũng như phục vụ ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai. Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn “Phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Trước sự phát triển nhanh, với nhiều đột phá của KHCN đã thu hút nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều cấp độ khác nhau về phát triển KHCN nhằm những mục đích khác nhau liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của luận văn. Ngoài các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật, quy định của Nhà nước về KHCN còn có nhiều nghiên cứu về phát triển KHCN như: - Nguyễn Chí Hải (2001), “Một số vấn đề về việc phát triển KHCN trong quá trình CNH,HĐH nền kinh tế ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Là công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ và có hệ thống về sự phát triển của KHCN ở Việt Nam trong sự nghiệp CNH,HĐH. Tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của KHCN đối với tăng trưởng kinh tế, thực hiện CNH,HĐH ở các nước và ở Việt Nam. Sau khi đánh giá thực trạng, rút ra bài học ở các nước Châu Á, tác giả đã đưa ra định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển KHCN phục vụ CNH,HĐH.
- 6 - Phạm Văn Quý (2005), “Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực KHCN phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Viện Kinh tế Việt Nam, Hà Nội. Đây là một công trình nghiên cứu tiêu biểu về phát triển KHCN. Trong luận án của mình, tác giả Phạm Văn Quý đưa ra khái niệm và làm rõ vai trò của nguồn nhân lực KHCN; khảo sát thực trạng nguồn nhân lực KHCN ở Việt Nam; nêu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực KHCN ở một số nước, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển KHCN đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH. - Vũ Năng Dũng (chủ biên), Đỗ ánh, Chu Hoài Hạnh (2005), KHCN nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới, Nxb CTQG. Đây là công trình mang tính tổng kết những thành tựu trong việc phát triển KHCN 20 năm đổi mới ở nước ta (1986-2005) trên các lĩnh vực cụ thể như: trồng trọt và bảo vệ thực vật; chăn nuôi, thú y; đất đai và phân bón; cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch; lâm nghiệp; thủy lợi; chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời các tác giả đề xuất nhiều giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn ở các lĩnh vực trên. - Trần Hồng Lưu (2011), Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp CNH,HĐH ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả của cuốn sách này đề cập nhiều nội dung, trong đó những vấn đề có liên quan trực tiếp đến luận văn mà tác giả có thể khai thác như: Vai trò của tri thức khoa học kỹ thuật, công nghệ trong quá trình CNH,HĐH ở nước; nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp không muốn đầu tư vào phát triển KHCN; quan điểm của Đảng ta về phát triển KHCN; giải pháp tạo động lực nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng các thành tựu KHCN vào sản xuất và đời sống. - Phan Xuân Dũng (2008), Công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với tiến trình CNH,HĐH ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đã trình bày xu hướng phát triển KHCN trên thế giới trong thời gian tới;
- 7 quan điểm và một số giải pháp phát triển, ứng dụng công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với tiến trình CNH,HĐH ở Việt Nam như: Giải pháp về vai trò chủ đạo của nhà nước trong phát triển công nghệ cao; giải pháp phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển KHCN; giải pháp về cơ chế quản lý đối với cơ quan nghiên cứu phát triển KHCN. Ngoài những công trình trên còn có một số bài viết về phát triển KHCN đã đăng trên các tạp chí như: Nguyễn Hải Bằng, “Thúc đẩy sự phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu - trao đổi, (số 169/2010); Hoàng Bắc, “Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để xóa đói giảm nghèo”, Tạp chí Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, (số 13/2011); Xuân Hoài, “Thay đổi công nghệ sản xuất lúa gạo”, Tạp chí Nông thôn mới, (kỳ 1, số 5/2011); Hải Quỳnh, “Hội nông dân Việt Nam và Bộ KHCN phối hợp đưa khoa học đến nhà nông”, Tạp chí Nông thôn mới, (kỳ 2 số 2/2011); Thanh Tùng, “Tập trung xây dựng tiềm lực KHCN vì một nền nông nghiệp bền vững”, Tạp chí Đông Nam á, (số 12/2005); Vũ Xuân Chính, “Chính sách sử dụng cán bộ KHCN, trọng dụng nhân tài - Một vài suy nghĩ”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (số 1/2006); Trần Văn Chử, “Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển thị trường KHCN”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 6/2006)... Tuy khác nhau về góc độ tiếp cận, nội dung và phạm vi đề cập nhưng các bài viết đều tập trung giải quyết các vấn đề sau: Một là, cơ sở lý luận và thực tiễn chứng minh cho tính tất yếu phải phát triển KHCN trong quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Hai là, khuyến nghị liên quan chính sách quản lý đối với KHCN; đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cán bộ KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ba là, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, coi KHCN là động lực chủ yếu để phát triển nông nghiệp bền vững trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
- 8 Như vậy, các công trình nghiên cứu trên tuy công bố gần đây và được tiếp cận từ nhiều chuyên ngành kinh tế khác nhau, với nhiều phạm trù và không gian khác nhau, song chưa có đề tài nào về phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, nghiên cứu về “Phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai hiện nay” là nội dung mới, không trùng lặp với các công trình đã công bố gần đây. Đây là vấn đề mới, có ý nghĩa thực tiễn, trực tiếp phục vụ nghiệp CNH,HĐH ở tỉnh Đồng Nai hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích Luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. * Nhiệm vụ - Luận giải những vấn đề lý luận về phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai. - Phân tích đánh giá thực trạng phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp. - Đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu: Phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp. * Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp chủ yếu là lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi ở tỉnh Đồng Nai. - Phạm vi không gian và thời gian: Nghiên cứu sự phát triển của KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2008-2013. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận:
- 9 Cơ sở lý luận là lý luận Kinh tế chính trị Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chủ trương của tỉnh Đồng Nai về phát triển KHCN phục vụ CNH,HĐH nói chung, phục vụ nông nghiệp nói riêng. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp lôgic kết hợp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh; các phương pháp nghiên cứu của khoa học Kinh tế chính trị, trong đó chủ yếu là phương pháp trìu tượng hóa khoa học. 6. Ý nghĩa của đề tài - Luận văn góp phần cụ thể hóa các chủ trương của Đảng về phát triển KHCN, trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ở tỉnh Đồng Nai. - Lý luận và thực tiễn về phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp là căn cứ khoa học để cấp ủy đảng, chính quyền tỉnh Đồng Nai đề ra chủ trương, chính sách phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp. - Quan điểm và giải pháp phát triển KHCN sẽ là đóng góp quan trọng để đẩy mạnh CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn Đồng Nai thời gian tới. 7. Kết cấu của đề tài Luận văn gồm có phần mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 10 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH ĐỒNG NAI 1.1. Quan niệm về khoa học và công nghệ; phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp 1.1.1. Quan niệm về khoa học và công nghệ Để đưa ra quan niệm đúng, khách quan về KHCN, trước hết cần tìm hiểu thế nào là khoa học, công nghệ. Từ khảo sát kết quả một số công trình khoa học cho thấy, tuy cách tiếp cận khác nhau song đều có chung kết luận: Thứ nhất, khoa học là khái niệm liên quan đến nhiều lĩnh vực: khoa học là một hình thái ý thức xã hội, một công cụ của nhận thức; khoa học là một hoạt động xã hội của con người; khoa học là hệ thống tri thức của nhân loại được thể hiện bằng những khái niệm, phạm trù, học thuyết… Ngoài ra, khoa học còn được hiểu là quá trình hoạt động của con người để có hệ thống tri thức về thế giới tự nhiên và xã hội nhằm làm cho con người nắm được bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy, trên cơ sở đó làm chủ điều kiện sống và cải tạo thế giới tự nhiên. Thứ hai, công nghệ là hệ thống tri thức gắn liền và tương ứng với một tập hợp kỹ thuật như máy móc, thiết bị… bao gồm hệ thống tri thức về kỹ năng, bí quyết, kinh nghiệm… được sử dụng theo một quy trình hợp lý để vận hành, tập hợp kỹ thuật đó, tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Nếu trước đây công nghệ dùng trong lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, thì hiện nay khái niệm đó được sử dụng với nghĩa rộng hơn, không chỉ trong sản xuất, mà được sử dụng ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nhiều thế kỷ, khoa học phát triển độc lập, nhưng từ đầu thế kỷ 20 đến nay, mối quan hệ giữa KHCN với đời sống càng chặt chẽ. Chính sự gắn kết đó đã tạo ra cách mạng khoa học, trong đó
- 11 cách mạng KHCN đang diễn ra là cuộc cách mạng đột phá, làm cho KHCN trở thành LLSX trực tiếp, đưa LLSX lên một bước phát triển mới. Ở nước ta, trong các loại từ điển tiếng Việt hay hệ thống luật và các văn bản về KHCN, hoặc liên quan đến KHCN đều chưa có khái niệm KHCN. Ngay cả Luâ ̣t Khoa học và Công nghê ̣ là bộ luâ ̣t luâ ̣t gốc về lĩnh vực KHCN ban hành năm 2013, cũng chưa có khái niệm KHCN mà chỉ có một số khái niệm liên quan đến KHCN như: Khoa học; Công nghệ; Hoạt động KHCN... Theo Luật KHCN năm 2013 thì: “Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy”; “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”; “Hoạt động KHCN là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ KHCN, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển KHCN”[40]; “Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn”[40]. Ngoài ra còn có một số khái niệm khác liên quan đến hoạt động khoa học, theo đó hoạt động khoa học được hiểu là “tất cả các hoạt động có hệ thống liên quan đến việc sản xuất, nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức khoa học. Nội dung chủ yếu của hoạt động khoa học bao gồm: Hoạt động nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học và kỹ thuật”[36; tr.144]. Theo tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của LHQ, hoạt động KHCN là hoạt động có liên quan tới sự ra đời, phát triển, truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển KTXH và chất lượng cuộc sống. Từ các quan niệm trên cho thấy, dù diễn đạt hay không diễn đạt là một hoạt động, thì khoa học, công nghệ, hay hoạt động KHCN vừa là hoạt động
- 12 của xã hội, mà trực tiếp là hoạt động có mục đích của con người, đồng thời là sản phẩm do con người sáng tạo ra nhằm phát triển KTXH, nâng cao chất lượng cuộc sống. Với cách tiếp cận này, thì khái niệm hoạt động KHCN trong Luật KHCN cũng là khái niệm KHCN; theo đó, Khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ KHCN, phát huy sáng kiến và hoạt động đổi mới, sáng tạo khác nhằm nâng cao hiệu quả phát triển KTXH, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. 1.1.2. Quan niệm về khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp Cho đến nay, tuy chưa có quan niệm về KHCN phục vụ nông nghiệp; song thực tế đang sử dụng một số thuật ngữ phản ánh nội hàm quan niệm này như: KHCN nông nghiệp, phát triển KHCN nông nghiệp. Vì vậy, để có quan niệm đúng về phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp trước hết cần thống nhất nhận thức về nội hàm thuật ngữ KHCN phục vụ nông nghiệp và thuật ngữ KHCN nông nghiệp. Sở dĩ như vậy là bởi đang tồn tại hai thuật ngữ, theo đó sẽ là hai quan niệm khác nhau nếu không thống nhất sẽ gây hiểu lầm giữa hai thuật ngữ, đó là: KHCN nông nghiệp; KHCN phục vụ nông nghiệp. Thuật ngữ KHCN nông nghiệp được sử dụng trong hai văn kiện: Thứ nhất, Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011-2020 (Quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày 11/04/2012 của Thủ tướng Chính phủ) trong đó nêu: “KHCN nông nghiệp”[11]; Thứ hai, Nghị quyết Trung ương Sáu khóa XI về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, trong đó nêu: “Tiếp tục phát triển KHCN nông nghiệp…”[28; tr.91]. Hai văn kiện này tuy đề cập đến thuật ngữ KHCN nông nghiệp, nhưng chưa đề cập quan niệm KHCN nông nghiệp, hay phát triển KHCN nông nghiệp, song nội hàm thuật ngữ này đã được làm rõ. Trong Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011-2020 theo Quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày 11/04/2012 của Thủ tướng có 9 lĩnh vực KHCN,
- 13 bao gồm: KHCN nông nghiệp; KHCN y, dược; KHCN năng lượng; KHCN giao thông vận tải; KHCN xây dựng; KHCN biển; KHCN quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên; KHCN vũ trụ; KHCN ở các vùng, địa phương. Như vậy, thuật ngữ KHCN nông nghiệp là thuật ngữ phản ánh tính chuyên sâu, chuyên biệt của KHCN nông nghiệp. Đây là thuật ngữ phân biệt sự khác nhau giữa KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp với KHCN trong các lĩnh vực khác như: y, dược; năng lượng; giao thông vận tải; xây dựng; biển; quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên; vũ trụ; vùng, địa phương. Điều này có nghĩa, vì tính chuyên sâu mà KHCN nông nghiệp chỉ có thể phục vụ cho lĩnh vực nông nghiệp, không sử dụng được cho lĩnh vực khác. Ngược lại, thuật ngữ KHCN phục vụ nông nghiệp mà tác giả luận văn sử dụng sẽ có ý nghĩa rộng hơn; nó không chỉ có KHCN nông nghiệp, mà còn bao gồm một số lĩnh vực KHCN đa tác dụng, hay công nghệ lưỡng dụng vừa có thể sử dụng cho các lĩnh vực khác, vừa phục vụ lĩnh vực nông nghiệp. Ví dụ: KHCN biển; KHCN quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên; công nghệ môi trường; công nghệ sinh học… là những lĩnh vực KHCN lưỡng dụng có thể sử dụng cả trong lĩnh vực nông nghiệp và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Từ những vấn đề trên có thể đưa ra quan niệm: KHCN phục vụ nông nghiệp là một bộ phận của KHCN, bao gồm KHCN nông nghiệp và KHCN ở một số lĩnh vực liên quan có thể sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp. 1.1.3. Quan niệm về phát triển khoa học và công nghệ Cho đến nay, thuật ngữ phát triển đã trở nên quen thuộc không chỉ ở nước ta, mà ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế, bởi thuật ngữ này được sử dụng rất phổ biến ở nhiều lĩnh vực, trong các văn kiện (quốc gia, quốc tế), các hội nghị (quốc gia, quốc tế), các hoạt động khoa học và đời sống sinh hoạt đời thường. Mặc dù thuật ngữ phát triển được sử dụng rất phổ biến như vậy, nhưng chưa có khái niệm phát triển đầy đủ, mà thuật ngữ này được sử dụng như một tiếp đầu từ. Vì vậy, cũng như khái niệm KHCN, trong hệ
- 14 thống luật và các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta về KHCN chưa có khái niệm phát triển KHCN, mà chỉ có một số khái niệm liên quan như: Phát triển công nghệ; Dịch vụ KHCN…; trong đó “Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới”[40]; “Dịch vụ KHCN là hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ thuật cho việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, an toàn bức xạ, hạt nhân và năng lượng nguyên tử; dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng thành tựu KHCN trong các lĩnh vực KTXH”[40]. Mặt khác, theo tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hiệp quốc, phát triển công nghệ là tác động vào công nghệ hiện có nhằm làm cho công nghệ ấy hoàn thiện hơn, trên cơ sở đó ứng dụng vào sản xuất và đời sống xã hội. Phát triển công nghệ bao gồm hai qúa trình: phát triển công nghệ theo chiều rộng và phát triển công nghệ theo chiều sâu. Theo đó, quá trình tiếp tục hoàn thiện công nghệ để ứng dụng rộng rãi trong sản xuất được gọi là phát triển công nghệ theo chiều rộng; hay còn gọi là phổ biến tri thức công nghệ trong sản xuất. Quá trình phát triển công nghệ theo chiều sâu là quá trình cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Để nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại như Nghị quyết Đại hội XI đề ra, cần có quan điểm và tư duy mới về phát triển KHCN theo hướng ưu tiên tập trung nguồn lực phát triển KHCN làm động lực phát triển LLSX hiện đại, đẩy nhanh CNH,HĐH. Với nhận thức đó, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta có quan điểm đúng về vai trò của KHCN. Tại Đại hội III, Đảng ta xác định, cách mạng khoa học kỹ thuật là một cuộc cách mạng then chốt. Các Đại hội IV, V, VI, VII xác định KHCN là nền tảng và động lực phát triển KTXH. Tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII,
- 15 Đảng ta đã ra Nghị quyết về Định hướng chiến lược phát triển KHCN trong thời kỳ CNH,HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đảng, KHCN cùng với giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu. Kiên trì và nhất quán quan điểm này, Đại hội IX, X, XI đã xác định, “KHCN giữ vai trò then chốt trong việc phát triển LLSX hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[27; tr.78]. Vì vậy, “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển KHCN là quốc sách hàng đầu”[27; tr.77] và “Phát triển KHCN nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”[27; tr.78]. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương Sáu khóa XI ra Nghị quyết về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, xác định, “Phát triển và ứng dụng KHCN là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển KTXH và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp”[28; tr.77-78]. Với nhiều chủ trương đúng, KHCN nước ta đã có bước phát triển quan trọng trong xây dựng và phát triển tiềm lực, đạt nhiều thành tựu to lớn, đóng góp thiết thực vào “thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” thời kỳ đổi mới, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần đưa nước ta từ nước kém phát triển thành nước có thu nhập trung bình. Cho đến nay, nước ta cơ bản hoàn thành xây dựng nền tảng pháp lý cho hoạt động KHCN với 8 đạo luật từ Luật KHCN năm 2000 đến Luật KHCN năm 2013 và “hơn 1.600 tổ chức KHCN thuộc mọi thành phần kinh tế, hơn 62.000 cán bộ nghiên cứu chuyên nghiệp, trong đó có hàng chục nghìn người có trình độ tiến sĩ và thạc sĩ”[38; tr.5]. Như vậy, mặc dù Đảng ta có nhiều chủ trương phát triển KHCN, song chưa có quan niệm đầy đủ về phát triển KHCN.
- 16 Từ các khái niệm về KHCN; về phát triển công nghệ và quan điểm của Đảng ta về phát triển KHCN, có thể đưa ra quan niệm: Phát triển KHCN là tổng thể cơ chế, chính sách và biện pháp đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, phổ biến và ứng dụng thành tựu KHCN vào sản xuất và đời sống nhằm khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực phục vụ cho phát triển KTXH. Ở phạm vi quốc gia, phát triển KHCN là phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học, gồm: khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ với mục tiêu “Đến năm 2020, KHCN Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới; tiềm lực KHCN đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[28; tr.80] nhằm “Bảo đảm cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Xây dựng được nền tảng khoa học tự nhiên hiện đại cho KHCN nói chung; phấn đấu đạt trình độ hàng đầu của khu vực và thứ hạng cao trên thế giới ở một số lĩnh vực; làm chủ, ứng dụng và phát triển các công nghệ có ảnh hưởng quyết định đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, tạo ra các sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao”[28; tr.80]; làm cho KHCN thực sự là động lực để phát triển LLSX, tạo tiền đề phát triển kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng một số sản phẩm thương hiệu Việt Nam; gắn phát triển KHCN với phát triển KTXH, bảo đảm quốc phòng, an ninh; làm cơ sở vững chắc cho phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển KTXH trong qúa trình CNH,HĐH, hội nhập quốc tế. Ở phạm vi địa phương, lĩnh vực, phát triển KHCN là nâng cao năng lực KHCN ở địa phương, lĩnh vực mình để làm chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới, giải pháp quản lý tiên tiến; đồng thời ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia
- 17 tăng của sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ, tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển KTXH. 1.2. Quan niệm, sự cần thiết và nội dung phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai 1.2.1. Quan niệm về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai Từ chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp; trên cơ sở kế thừa và phát triển kết quả nghiên cứu, nhất là các khái niệm về KHCN; về KHCN phục vụ nông nghiệp; về phát triển KHCN cũng như nội dung phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp thì Phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai là tổng thể cơ chế, chính sách và biện pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phổ biến và ứng dụng thành tựu KHCN vào nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững ở tỉnh Đồng Nai. Với quan niệm này cho thấy: Một là, chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở Đồng Nai là tổ chức đảng, chính quyền và cơ quan quản lý từ cấp tỉnh đến cơ sở. Trong đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và tổ chức đảng các cấp có vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp; chính quyền các cấp có vai trò quan trọng trong triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của tỉnh về phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp; đồng thời quản lý hoạt động này thông qua xây dựng các chiến lược, kế hoạch và ban hành các cơ chế, chính sách, tạo cơ sở pháp lý cho sự thống nhất và liên kết chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành trong các hoạt động phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Hai là, lực lượng tham gia phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở Đồng Nai bao gồm các tổ chức trong hệ thống chính trị. Mỗi lực lượng trong hệ thống chính trị có vai trò và trách nhiệm khác nhau; trong đó Sở KHCN, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các tổ chức KHCN; các chủ thể kinh
- 18 tế, các loại hình doanh nghiệp nông nghiệp, nhất là nông dân là các lực lượng trực tiếp. Đặc biệt, các tổ chức KHCN với nhiệm vụ “nghiên cứu khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ KHCN”[40] là cơ quan tiến hành hoạt động phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp. Vì vậy, chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức này quyết định sự phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng nai. Những người nông dân vừa là chủ thể của sự phát triển, vừa là đối tượng thụ hưởng thành tựu phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp; do đó vai trò của họ rất quan trọng trong tiếp thu, ứng dụng cũng như sáng tạo KHCN phục vụ nông nghiệp. Ba là, quy mô phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai tuy phụ thuộc vào yêu cầu phát triển nông nghiệp, nhưng nhìn chung sẽ nhỏ hơn quy mô phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp ở phạm vi quốc gia. 1.2.2. Sự cần thiết phải phát triển khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai Một là, xuất phát từ tác động của cách mạng KHCN đến lĩnh vực nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp nói chung. Ngày nay, KHCN là yếu tố quan trọng, không thể thiếu đối với sự phát triển bền vững ở mọi quốc gia. Theo quan điểm của Đảng ta thì, “KHCN là nền tảng và động lực cho phát triển bền vững đất nước”[9]. Thật vậy, thành tựu của KHCN đang xâm nhập sâu rộng vào quá trình sản xuất ở mọi lĩnh vực, trở thành LLSX trực tiếp. Có thể nói, cách mạng KHCN tác động toàn diện đến mọi quốc gia, mọi ngành, mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực tuy bị tác động muộn hơn, nhưng hiệu quả nhanh hơn, dễ nhận thấy. Điều đó thể hiện ở thời gian chuyển từ kết quả nghiên cứu đến ứng dụng thành tựu KHCN vào sản xuất nông nghiệp đã rút ngắn. Nói cách khác, quá trình nhất thể hoá giữa KHCN với sản xuất nông nghiệp ngày càng rõ hơn, trở thành xu thế tất yếu của sự phát triển. Vì vậy, để nông nghiệp Đồng Nai phát triển phải phát triển KHCN.
- 19 Do tác động bởi cách mạng KHCN từ giữa thế kỷ 20, nhất là tác động từ cơ giới hóa, điện khí hóa nông nghiệp và sự phát triển của công nghệ sinh học đã tạo ra sự thay đổi trong nông nghiệp. Ngày nay, “nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thủy sản”[1; tr.984]. Đây là ngành sản xuất vật chất chủ yếu dựa trên cơ sở là trồng trọt và chăn nuôi, bằng việc sử dụng tài nguyên đất đai và nguồn nước để trồng trọt, chăn nuôi, khai thác thủy hải sản nhằm tạo ra lương thực, thực phẩm và nhiều sản phẩm khác phục vụ nhu cầu xã hội. Vì vậy, sản phẩm nông nghiệp ngoài lương thực, thực phẩm phục vụ cho tiêu dùng của con người và thức ăn chăn nuôi, còn có một số loại sản phẩm làm nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và nhiều ngành sản xuất vật chất khác. Thực tế cho thấy, trong điều kiện KTTT và toàn cầu hoá, xét ở mọi cấp độ, nền kinh tế quốc dân, hay nền kinh tế của một địa phương, chỉ có thể tồn tại và phát triển khi các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế đó thường xuyên được đổi mới, có tính cạnh tranh cao. Những đòi hỏi đó chỉ được đáp ứng khi nền kinh tế có tiềm lực KHCN mạnh, và tiềm lực đó trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp. Hai là, xuất phát từ mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững với sự lạc hậu của KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai. Thực tiễn khẳng định, phát triển nông nghiệp có liên quan mật thiết đến tính phát triển bền vững. Nếu khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng, phân hóa xã hội quá mức thì dù đạt được sự tăng trưởng cao chưa thể coi là đã phát triển. Hơn nữa, nông nghiệp, nông dân và nông thôn tuy là ba vấn đề khác nhau, nhưng nếu không đồng thời giải quyết một cách đồng bộ thì không thể tiến hành thành công sự nghiệp CNH,HĐH. Thời gian gần đây, tuy tỷ trọng sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai trong sản phẩm quốc nội giảm dần, nhưng không có nghĩa là vai trò của nông
- 20 nghiệp giảm. Thực tế cho thấy, Mỹ và Pháp là hai quốc gia có công nghiệp phát triển cũng là hai nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới. Ngược lại, các nước Đông Á được coi là giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, thì hiện nay phải nhập khẩu lương thực, vì sản xuất nông nghiệp giảm nghiêm trọng. Điển hình như Philippin, là nước nông nghiệp, trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã dành nhiều diện tích canh tác phát triển đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, nhất là sân golf, vì thế thiếu lương thực trầm trọng, đe dọa an ninh lương thực và phát triển bền vững. Việc các nước phát triển trợ cấp cho nông nghiệp thông qua các ưu đãi, trong đó trọng tâm là phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp, đã làm cho các nước đang phát triển gặp khó khăn là cái giá mà các nước này phải trả cho việc không chú trọng phát triển nông nghiệp, nhất là phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp. Đây là bài học kinh nghiệm về giải quyết mâu thuẫn giữa vai trò của nông nghiệp trong phát triển bền vững với sự lạc hậu của KHCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai. Một vấn đề khác của nông nghiệp Đồng Nai đang đặt ra cần giải quyết là chất lượng nông sản thấp, vì chủ yếu xuất khẩu thô, quy mô sản xuất nhỏ nên giá thành cao, năng suất lao động thấp. Muốn tăng giá trị nông sản hàng hóa, cần cải tiến chất lượng sản phẩm bằng phát triển sản phẩm có xuất xứ địa lý, sản phẩm bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm quốc tế và sản phẩm hữu cơ. Để làm việc này, ngoài thể chế quản lý chất lượng nông sản, phải tiến hành phát triển công nghiệp chế biến. Như vậy, để phát triển công nghiệp chế biến, phải phát triển KHCN phục vụ nông nghiệp. Tuy nhiên, thể chế thị trường nông sản trong cả nước cũng như ở Đồng Nai, nếu chỉ dựa vào quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp sẽ dẫn đến độc quyền doanh nghiệp; nông dân là người sản xuất vẫn thiệt thòi. Muốn giải quyết tình trạng này, phải phát triển chế biến, lưu thông. Chính quyền không thể trợ giúp nông dân thông qua doanh nghiệp nhà nước, vì lợi nhuận là mục tiêu chính của doanh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thỏa mãn công việc của nhân viên khối văn phòng ở TP.HCM
138 p | 1461 | 548
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 844 | 193
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại tại địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
148 p | 597 | 171
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 621 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Marketing dịch vụ trong phát triển thương mại dịch vụ ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
135 p | 556 | 156
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Một số giải pháp phát triển khu chế xuất và khu công nghiệp Tp.HCM đến năm 2020
53 p | 404 | 141
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ tín dụng của ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank)
98 p | 450 | 128
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của hoạt động tín dụng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên
116 p | 511 | 128
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển du lịch biển Đà Nẵng
13 p | 401 | 70
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển dịch vụ bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định
26 p | 399 | 64
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng các nguồn lực tự nhiên trong hộ gia đình tới thu nhập và an toàn lương thực của hộ nông dân huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên
110 p | 342 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 350 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Ninh Bình trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
143 p | 225 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu một số giải pháp quản lý và khai thác hệ thống công trình thủy lợi trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện biến đổi khí hậu
83 p | 236 | 21
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh
26 p | 232 | 19
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
26 p | 224 | 16
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển tổng công ty xây dựng số 1 thành tập đoàn kinh tế mạnh trong tiến trình hội nhập quốc tế
12 p | 185 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển công nghiệp huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam
26 p | 254 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn