Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của kiệt quệ tài chính đến việc né tránh thuế của doanh nghiệp trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính nghiên cứu ở Việt Nam
lượt xem 7
download
Mục đích của bài nghiên cứu này là để xem xét tác động của kiệt quệ tài chính lên việc né tránh thuế và tác động của khủng hoảng tài chính lên mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và né tránh thuế của các công ty ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của kiệt quệ tài chính đến việc né tránh thuế của doanh nghiệp trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính nghiên cứu ở Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------- TRẦN MỸ KIM QUÂN TÁC ĐỘNG CỦA KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH ĐẾN VIỆC NÉ TRÁNH THUẾ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG VÀ SAU CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------- TRẦN MỸ KIM QUÂN TÁC ĐỘNG CỦA KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH ĐẾN VIỆC NÉ TRÁNH THUẾ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG VÀ SAU CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 8340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do riêng tôi thực hiện. Các số liệu và kết quả trình bày trong bài nghiên cứu là trung thực, chính xác. Kết quả kiểm tra Turnitin 18%. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2018 Học viên thực hiện Trần Mỹ Kim Quân
- MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU TÓM LƯỢC CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU............................................................................................. 1 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................................... 3 2.1. Lý thuyết tổng quan ............................................................................................. 3 2.2. Kiệt quệ tài chính và né tránh thuế ...................................................................... 4 2.3. Khủng hoảng tài chính và né tránh thuế .............................................................. 6 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 12 3.1. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................ 12 3.2. Mô hình hồi quy ................................................................................................ 12 3.2.1. Biến phụ thuộc ........................................................................................... 12 3.2.2. Biến độc lập ................................................................................................ 13 3.2.2.1 Biến kiệt quệ tài chính .............................................................................. 13 3.2.2.2 Biến khủng hoảng tài chính...................................................................... 14 3.2.3 Biến kiểm soát ............................................................................................. 14 3.2.4 Mô hình ...................................................................................................... 17 3.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 18 3.3.1. Mô hình tác động cố định (Fixed effects model) ....................................... 18 3.3.2. Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random effects model) ............................. 18 3.3.3. Trình tự nghiên cứu .................................................................................... 18 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ....................................... 20 4.1. Phân tích dữ liệu ................................................................................................ 20 4.1.1. Kiểm định tính dừng .................................................................................. 20 4.1.2. Thống kê mô tả ........................................................................................... 21 4.1.3. Phân tích tương quan Pearson .................................................................... 22 4.2. Phân tích định lượng .......................................................................................... 23 4.2.1. Mô hình 1 ................................................................................................... 23
- 4.2.2. Mô hình 2 ................................................................................................... 25 4.2.3. Kiểm định đa cộng tuyến ........................................................................... 28 4.3. So sánh kết quả nghiên cứu với nghiên cứu của Richardson, Grantley Taylor và Roman Lanis (2014) ................................................................................................. 29 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ............................................................................................ 31 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC KẾT QUẢ CHẠY MÔ HÌNH
- DANH MỤC BẢNG BIỂU BẢNG 1: TÓM TẮT CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY........................................... 9 BẢNG 2: TÓM TẮT CÁC BIẾN SỬ DỤNG TRONG BÀI NGHIÊN CỨU ............. 16 BẢNG 3: KỲ VỌNG VỀ DẤU CỦA CÁC BIẾN VỚI BIẾN CASHETR ................. 19 BẢNG 4: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH NGHIỆM ĐƠN VỊ .............................................. 20 BẢNG 5: THỐNG KÊ MÔ TẢ CÁC BIẾN ................................................................ 21 BẢNG 6: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN PEARSON ............................... 22 BẢNG 7: KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH 1 THEO CÁC PHƯƠNG PHÁP POOLED OLS/ FIXED EFFECTS MODEL VÀ RANDOM EFFECTS MODEL ..... 23 BẢNG 8: KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH 2 THEO CÁC PHƯƠNG PHÁP POOLED OLS/ FIXED EFFECTS MODEL VÀ RANDOM EFFECTS MODEL ..... 25 BẢNG 9: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ĐA CỘNG TUYẾN............................................. 28 BẢNG 10: SO SÁNH KẾT QUẢ VỚI NGHIÊN CỨU CỦA RICHARDSON VÀ CỘNG SỰ (2014) ......................................................................................................... 29
- TÓM LƯỢC Mục đích của bài nghiên cứu này là để xem xét tác động của kiệt quệ tài chính lên việc né tránh thuế và tác động của khủng hoảng tài chính lên mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và né tránh thuế của các công ty ở Việt Nam. Mẫu nghiên cứu gồm 337 công ty phi tài chính có niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, dữ liệu lấy từ năm 2008 đến năm 2016 và hồi quy các mô hình dữ liệu bảng bằng Pooled OLS, Fixed Effects Model và Random Effects Model. Nghiên cứu đã cho thấy có mối tương quan dương giữa kiệt quệ tài chính và việc né tránh thuế của các công ty ở Việt Nam. Khủng hoảng tài chính cũng có tương quan dương đến việc né tránh thuế của các công ty tuy nhiên ở Việt Nam mối tương quan dương giữa kiệt quệ tài chính và né tránh thuế không bị khuếch đại bởi sự xuất hiện của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
- 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay, các doanh nghiệp thường sử dụng các chiến lược nhằm làm giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp, vì đây là một khoản chi phí lớn ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể thiết lập các hợp đồng, các giao dịch để tận dụng những lỗ hổng trong luật thuế hoặc tận dụng sự khác biệt về luật thuế giữa các khu vực địa lý để giảm đáng kể số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Nhất là nếu một doanh nghiệp rơi vào giai đoạn kiệt quệ tài chính, ban lãnh đạo sẽ đưa ra những chiến lược để tiết kiệm tối đa chi phí nhằm có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu vốn tối thiểu để doanh nghiệp có thể duy trì xếp hạng tín dụng hoặc để có thể tiếp tục hoạt động được. Nếu khủng hoảng tài chính xảy ra, như khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009, các công ty có thể lâm vào kiệt quệ tài chính nghiêm trọng và có thể sẽ càng có xu hướng né tránh thuế nhiều hơn. Bởi vì điều kiện tài chính và kinh tế xấu đi, các doanh nghiệp đối mặt rủi ro phá sản gia tăng có thể nhận thấy các chi phí tiềm ẩn của việc né tránh thuế (ví dụ mức phạt và thiệt hại về danh tiếng) sẽ được tối thiểu hóa so với lợi ích tiềm ẩn. Và nếu chi phí tiềm tàng của phá sản đủ cao, các doanh nghiệp có thể sẳn sàng sử dụng các biện pháp né tránh thuế bất kể nguy cơ bị kiểm tra bởi cơ quan thuế. Vì vậy dựa trên bài nghiên cứu “The impact of financial distress on corporate tax advoidance spanning the global financial crisis: Evidence from Australia” của các tác giả Grant Richardson, Grantley Taylor, Roman Lanis năm 2014. Mục tiêu của bài nghiên cứu này để xem xét mối quan hệ của kiệt quệ tài chính đối với việc né tránh thuế và xem xét mối quan hệ này có tăng lên khi xảy ra khủng hoảng tài chính của các doanh nghiệp có niêm yết ở Việt Nam qua việc trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau: - Liệu kiệt quệ tài chính có mối tương quan với việc né tránh thuế của các doanh nghiệp ở Việt Nam hay không? - Liệu khủng hoảng tài chính có mối tương quan với việc né tránh thuế của các doanh nghiệp ở Việt Nam hay không?
- 2 - Nếu kiệt quệ tài chính có tương quan với việc né tránh thuế của các doanh nghiệp ở Việt Nam thì mối quan hệ này có tăng lên bởi sự xuất hiện của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu? Mẫu nghiên cứu của bài là 337 công ty phi tài chính có niêm yết trên sàn chứng khoán ở Việt Nam chọn theo tiêu chí có doanh thu thuần lớn theo báo cáo tài chính năm 2016. Dữ liệu của các công ty lấy từ báo cáo tài chính trong giai đoạn từ 2008 – 2016 và được lấy theo năm. Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, mô hình định lượng kế thừa dựa trên bài nghiên cứu “The impact of financial distress on corporate tax advoidance spanning the global financial crisis: Evidence from Australia” của các tác giả Grant Richardson, Grantley Taylor, Roman Lanis năm 2014. Bài nghiên cứu sử dụng độ tuổi công ty, quy mô công ty, đòn bẩy nợ, mức độ vốn, mức độ R&D, mức độ tồn kho, tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu làm biến kiểm soát. Các chương sau của bài nghiên cứu này được cấu trúc như sau: Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết các kết quả nghiên cứu trước đây, chương 3 trình bày dữ liệu và phương pháp nghiên cứu, chương 4 trình bày nội dung các kết quả nghiên cứu và chương 5 kết luận.
- 3 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1. Lý thuyết tổng quan Né tránh thuế (tax avoidance) được xem là phần không thể tách rời trong chiến lược quản trị nguồn vốn của các doanh nghiệp (Desai và Dharmapala, 2006; Rego, 2003; Slemrod, 2001). Nó bao gồm việc thiết lập các hợp đồng, các giao dịch để tận dụng các lỗ hổng trong luật thuế (Lisowsky, 2010; Wilson, 2009) hoặc tận dụng sự khác biệt trong luật thuế giữa các khu vực địa lý khác nhau (Desai và Hines, 2009; Atwood và cộng sự, 2012;) để làm giảm đáng kể số thuế phải nộp. Ở Việt Nam, khái niệm né tránh thuế được hiểu rằng công ty sử dụng những phương thức nhưng trong khuôn khổ pháp luật cho phép như sử dụng những cách hạch toán kế toán, khai thác những điều khoản của pháp luật về ưu đãi thuế để làm giảm số thuế phải nộp. Điều này khác với hành vi trốn thuế (tax evasion) là việc công ty thực hiện những hành vi mà pháp luật không cho phép để làm giảm số thuế phải nộp như bán hàng không xuất hóa đơn để giảm doanh thu, mua hóa đơn để tăng chi phí được khấu trừ thuế,… Một công ty được đánh giá là tuân thủ thuế (tax compliance) khi báo cáo đầy đủ tất cả thu nhập, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của các luật thuế hoặc phán quyết của tòa án. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng làm cho công ty thực hiện hành vi né tránh thuế: Harris (1989) cho rằng mức độ thực hiện hành vi né tránh thuế phụ thuộc vào trình độ hiểu biết của nhà quản lý công ty về luật thuế; Palil (2010) tìm thấy mối tương quan giữa nhận thức của người nộp thuế về chi tiêu chính phủ tác động đến hành vi né tránh thuế của họ,… ngoài ra tình trạng tài chính hiện tại của công ty mà cụ thể hơn là mức độ kiệt quệ tài chính cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện né tránh thuế mà trong bài nghiên cứu này sẽ đi sâu vào xem xét. Kiệt quệ tài chính, theo như Altman và Hotchkiss (2006) là một thuật ngữ có thể được hiểu dựa trên bốn thuật ngữ chung thường được dùng trong nghiên cứu: thất bại kinh doanh, mất khả năng thanh toán, phá sản và vỡ nợ. Thất bại kinh doanh xảy ra khi tỷ suất sinh lợi thực tế trên vốn đầu tư thấp hơn nhiều so với lãi suất hiện hành khi đầu tư hoặc không đủ doanh thu để bù đắp chi phí. Mất khả năng thanh toán liên
- 4 quan đến một kiểu kiệt quệ tài chính khác, theo đó công ty không thể hoàn thành các nghĩa vụ tài chính hiện tại của nó, có thể do liên quan đến tính thanh khoản. Phá sản cũng là một thuật ngữ thể hiện rằng công ty đang kiệt quệ tài chính và trong hầu hết các trường hợp việc phá sản liên quan đến phán quyết từ tòa án. Cuối cùng, thuật ngữ vỡ nợ thường được mô tả trong hai trường hợp: vỡ nợ kỹ thuật đề cập đến việc công ty vi phạm một điều kiện của hợp đồng/giao ước với chủ nợ còn việc không đáp ứng các khoản phải trả định kỳ đối với một khoản vay có nhiều khả năng sẽ dẫn tới vỡ nợ pháp lý. Cả hai loại vỡ nợ đều là tín hiệu về việc giảm kết quả hoạt động kinh doanh của công ty và kiệt quệ tài chính (Altman, 2000, Altman và Hotchkiss, 2006). Kiệt quệ tài chính sẽ làm tăng động lực cho hành vi chuyển dịch rủi ro xảy ra bởi các cổ đông và nhà quản lý công ty (Eberhart và Senbet, 1993; Maksimovic và Titman, 1991; Thorburn, 2004). Galai và Masulis (1976), Jensen và Meckling (1976) phát hiện tương quan dương giữa giá cổ phiếu và sự biến động tài sản cơ sở tạo ra động lực khuyến khích cổ đông chiếm đoạt tài sản của trái chủ bằng cách chuyển tài sản của doanh nghiệp vào các dự án có rủi ro cao. Việc này có thể chuyển hướng nguồn lực ra khỏi việc tối ưu hóa giá trị cổ đông. Thật vậy, trong giai đoạn kiệt quệ tài chính, hành vi chuyển dịch rủi ro đã tăng lên (Eberhart và Senbet, 1993; Maksimovic và Titman, 1991). Điều này có thể dẫn đến chi phí sử dụng vốn cao hơn cho các doanh nghiệp bị kiệt quệ tài chính và làm cho họ có động lực tiếp tục thực hiện các chính sách doanh nghiệp có rủi ro cao hơn (Edwards và cộng sự, 2013). 2.2. Kiệt quệ tài chính và né tránh thuế Edwards và cộng sự (2013) cho rằng khi công ty lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính, các nhà quản lý sẳn lòng chấp nhận nhiều rủi ro hơn liên quan đến việc né tránh thuế. Chen và cộng sự (2010) cho rằng một doanh nghiệp sẽ thực hiện chiến lược né tránh thuế khi lợi ích biên vượt quá chi phí biên. Do doanh nghiệp lâm vào trạng thái kiệt quệ tài chính thì nhu cầu về tiền rất quan trọng trong khi chi phí thuế là một dòng tiền ra lớn và công ty có thể bất chấp những thiệt hại về danh tiếng của mình để thực hiện chiến lược né tránh thuế, các chiến lược mà trước đây được xem là rủi ro hoặc
- 5 tốn kém cho công ty có thể trở nên hấp dẫn hơn và khả thi hơn vì những lợi ích tiềm ẩn của việc né tránh thuế. Các doanh nghiệp kiệt quệ tài chính có thể sử dụng các chính sách kế toán để tạm thời tăng thu nhập hoạt động để tránh tình trạng vỡ nợ hoặc gây thiệt hại đến khả năng thanh toán cho chủ nợ. Cụ thể, Frank và cộng sự (2009) tìm thấy rằng các công ty thực hiện các thủ thuật kế toán lên lợi nhuận tính thuế và lợi nhuận tài chính cùng lúc để khiến cho lợi nhuận sổ sách tăng và thu nhập chịu thuế giảm trong cùng kỳ báo cáo. Những nghiên cứu trước đây đã cho thấy nhiều bằng chứng về động cơ và khả năng “phù phép báo cáo tài chính” của công ty để điều chỉnh thu nhập tính thuế khi phải đối mặt với việc thu nhập liên tục bị giảm hoặc xếp hạng tín dụng giảm. Koch (2000) tìm ra rằng các báo cáo lợi nhuận của các công ty gặp khó khăn có xu hướng tăng lên và được đánh giá là không có sự tin cậy cao so với báo cáo lợi nhuận của các công ty không rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Mills và Newberry (2001, 2005) thấy rằng chêch lệch thuế sổ sách có tương quan dương với các mô hình thu nhập và kiệt quệ tài chính. Họ cũng tìm thấy rằng các công ty có xếp hạng tín dụng thấp, chi phí lãi vay trong báo cáo thuế của họ cao hơn trong báo cáo tài chính – đây là dấu hiệu gia tăng của việc né tránh thuế. Wilson (2011) tìm thấy rằng các doanh nghiệp với tài khoản ngoại bảng rộng có nhiều khả năng vỡ nợ và kiệt quệ tài chính trong tương lai lớn hơn, việc này được phản ánh qua chêch lệch thuế sổ sách cao hơn. Cuối cùng, Hanlon (2005), Blaylock và Cộng sự (2012) tìm thấy rằng các doanh nghiệp có sự chêch lệch về thuế sổ sách lớn có thu nhập và dòng tiền mặt liên tục ít hơn so với các công ty có sự chêch lệch về thuế sổ sách nhỏ. Do đó các Công ty có thể tìm cách giảm đáng kể thu nhập tính thuế của mình khi phải đối mặt với thu nhập ít hơn hoặc xếp hạng tín dụng thấp hơn. Nghiên cứu này cho thấy mối tương quan giữa xếp hạng tín dụng và né tránh thuế. Trên thực tế, thu nhập và xếp hạng tín dụng thấp hoặc không nhất quán có ảnh hưởng rõ ràng đến khả năng vỡ nợ. Nhìn chung, kỳ vọng có mối tương quan dương giữa kiệt quệ tài chính và né tránh thuế. Quản lý của các doanh nghiệp kiệt quệ tài chính cũng có thể nhận thức rằng, trong hoàn cảnh này, các cơ quan thuế sẽ ít nghiêm ngặt hơn trong việc thi hành luật
- 6 thuế, làm cho nó ít rủi ro hơn hoặc được xã hội chấp nhận hơn để giảm thuế doanh nghiệp (Brondolo, 2009). Ngoài ra, các quản lý doanh nghiệp có thể nhận thấy rằng rủi ro bị kiểm tra bởi cơ quan thuế hoặc thiệt hại danh tiếng sau khi phương tiện truyền thông đăng tải, trong trường hợp này, ít quan trọng hơn khi đối mặt với kiệt quệ tài chính. Nguyễn Thị Lan Anh (2017) tìm thấy tương quan dương giữa kiệt quệ tài chính và né tránh thuế của các công ty có niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam. Tóm lại, các công ty có thể tăng khả năng né tránh thuế trong suốt giai đoạn kiệt quệ tài chính. Cụ thể, kiệt quệ tài chính có thể làm cho các công ty có thái độ tích cực hơn trong việc giảm bớt nghĩa vụ thuế doanh nghiệp vì thuế là một trong những chi phí quan trọng nhất mà các công ty phải chịu. Trên thực tế, việc giảm thuế có thể cung cấp nguồn vốn cần thiết để tài trợ cho các hoạt động hiện tại của doanh nghiệp, duy trì xếp hạng tín dụng và duy trì hiện trạng của các điều khoản nợ hoặc thậm chí giảm thiểu nguy cơ phá sản (Brondolo, 2009). Dựa trên những giả định trên, giả thuyết được đưa ra như sau: H1: Nếu các điều kiện khác không thay đổi, kiệt quệ tài chính có mối tương quan dương với việc né tránh thuế doanh nghiệp. 2.3. Khủng hoảng tài chính và né tránh thuế Campello và cộng sự (2010) tìm thấy rằng các công ty bị ràng buộc về mặt tài chính đã lên kế hoạch cắt giảm đầu tư, công nghệ, tiếp thị và việc làm so với các công ty không bị giới hạn về tài chính trong khủng hoảng tài chính. Họ cũng chỉ ra rằng các công ty bị ràng buộc về mặt tài chính phải sử dụng phần lớn tiền tiết kiệm trong thời gian khủng hoảng và cắt giảm kế hoạch chia cổ tức dự kiến. Do đó, bài nghiên cứu cũng muốn kiểm tra xem khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng đến việc né tránh ở Việt Nam hay không, và nếu có, nó ảnh hưởng thế nào đến mối liên quan giữa kiệt quệ tài chính và né tránh thuế. Cụ thể, tình hình tài chính suy yếu của các công ty có thể buộc ban lãnh đạo phải có những hành động rủi ro hơn trong việc giảm nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại của công ty. Rosner (2003), Leach và Newsom (2007) tìm thấy bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp có nhiều khả năng tham gia vào các hoạt động “phù phép báo cáo tài
- 7 chính” trước khi nộp đơn xin phá sản. Cụ thể, Rosner (2003) nhận thấy rằng các nhà quản lý của các công ty bị phá sản được khuyến khích tham gia “phù phép báo cáo tài chính” để che giấu và có khả năng làm họ mất đi vị trí công việc của mình. Khi các hoạt động “phù phép báo cáo tài chính” được ban quản lý coi là không đủ để kiểm soát vị thế xấu đi của công ty, ban quản lý có thể trở lại hoạt động gian lận. Leach và Newsom (2007) gợi ý rằng các doanh nghiệp trong tình trạng tài chính nghiêm trọng có thể tăng lợi nhuận làm cho báo cáo lợi nhuận đẹp, đáp ứng kỳ vọng của nhà phân tích và để duy trì hiệu suất. Họ cũng thấy rằng “phù phép báo cáo tài chính” của các doanh nghiệp gian lận là cao hơn đáng kể so với các doanh nghiệp không gian lận dẫn đến phá sản. Crabtree và Maher (2009) và Ayers và cộng sự (2010) thấy rằng các doanh nghiệp có xếp hạng tín dụng thấp nhất hoặc bị hạ xếp hạng tín dụng, cùng với các dòng tiền mặt trong tương lai thấp do những cú sốc kinh tế có những thay đổi bất thường dẫn đến chêch lệch thuế sổ sách. Do đó, khi xảy ra khủng hoảng tài chính, quản lý công ty có thể được khuyến khích sử dụng các phương pháp hoạch định thuế để giảm các nghĩa vụ thuế doanh nghiệp hiện tại (ví dụ tăng thu nhập được báo cáo) và để duy trì dòng tiền trong tương lai. Các nghiên cứu trước cung cấp một số bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp phải đối mặt với kiệt quệ tài chính khi xảy ra khủng hoảng tài chính có thể tham gia vào những hoạt động lập kế hoạch thuế nhằm giảm nợ thuế và tăng dòng tiền của doanh nghiệp. Các nghiên cứu khác đã xem xét các chính sách và thực tiễn đầu tư và tài chính của doanh nghiệp trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính (ví dụ: Campello và cộng sự, 2010, 2011, 2012, Kahle và Stulz, 2013). Chẳng hạn, Kahle và Stulz (2013) thấy rằng có sự sụt giảm đáng kể về khả năng sẵn có của tín dụng, vay mượn của công ty, sự suy giảm giá trị tài sản và chi phí vốn khi xảy ra khủng hoảng tài chính. Họ cũng tìm ra rằng tỷ lệ nắm giữ tiền mặt theo tỷ lệ phần trăm tài sản giảm đáng kể trong năm đầu tiên của cuộc khủng hoảng. Hơn nữa, nghiên cứu của Cai và Liu (2009) tìm thấy rằng né tránh thuế có mối tương quan âm đến việc tiếp cận với tín dụng, nghĩa là việc không tuân thủ thuế sẽ gia tăng nếu khả năng tiếp cận tín dụng của công ty xấu đi. Tác động của những cú sốc bên ngoài này là các doanh nghiệp có khả năng theo đuổi các chiến lược nhằm duy trì tiền mặt và giảm đáng kể chi tiêu, bao gồm cả số thuế doanh nghiệp phải trả.
- 8 Brondolo (2009) tìm thấy rằng rủi ro gia tăng không tuân thủ thuế trong suốt khủng hoảng tài chính và cho rằng các doanh nghiệp bị hạn chế về tín dụng có thể trở lại với việc né tránh thuế như là nguồn tài chính thay thế cho hoạt động của họ. Theo một nghĩa nào đó, các công ty khó khăn sẽ tìm cách "mượn" từ cơ quan thuế. Hơn nữa, các công ty phải đối mặt với kiệt quệ tài chính trong hoặc ngay sau khủng hoảng tài chính (ví dụ: nguy cơ phá sản) có thể nhận thấy rủi ro giảm về né tránh thuế (nghĩa là hình phạt) là nhỏ so với tiềm năng tăng trưởng (tránh phá sản). Điều này cũng là động cơ để quản lý công ty tham gia kế hoạch né tránh thuế. Các công ty đa quốc gia cũng có thể thực hiện tái cấu trúc để tăng dòng tiền trong các khu vực pháp lý cụ thể trong giai đoạn kiệt quệ tài chính. Ví dụ, một nhóm công ty có thể đang ở vị trí tổn thất tổng thể nhưng có dư thừa tiền mặt hoặc thu nhập ở nước ngoài. Tiền mặt có thể được chuyển bằng các cách hiệu quả về thuế đối với hoạt động cần tiền để giảm thuế khấu trừ (ví dụ: chuyển các khoản thanh toán dịch vụ hoặc khoản vay). Ngoài ra, nợ có thể được cơ cấu lại và chuyển sang các khu vực bị đánh thuế cao hơn để được khấu trừ thuế tối đa. Bằng chứng bổ sung về sự liên hệ giữa giai đoạn kiệt quệ tài chính và né tránh thuế được cung cấp bởi Sở Thuế vụ Liên Bang Úc - Australian Taxation Office (ATO). Cụ thể, ATO (2008, 2010) thấy rằng trong giai đoạn kiệt quệ tài chính, nhiều công ty gây ra thiệt hại về thuế. Do tính thanh khoản của các doanh nghiệp giảm vì kiệt quệ tài chính nên việc quản lý công ty (bao gồm quản lý các chức năng thuế) có xu hướng theo đuổi các chiến lược nhằm đẩy nhanh việc sử dụng các khoản lỗ về thuế đó. Cụ thể, việc đẩy mạnh thiệt hại về thuế và khiếu nại về khấu trừ thuế quá mức liên quan đến nợ xấu và khoản lỗ về phải thu là một rủi ro tuân thủ đáng kể cho cơ quan thuế (ATO, 2008, 2010). Ví dụ, trong khủng hoảng tài chính, hoạt động kiểm tra của ATO (2008, 2010) cho thấy các công ty đa quốc gia đã chuyển nhượng mạnh các khoản lỗ thuế hiện tại hoặc chưa thực hiện từ hoạt động của nước ngoài với mức thuế doanh nghiệp thấp hơn vào Úc với mức thuế suất thuế doanh nghiệp cao hơn. Việc thu hồi khoản lỗ thuế ở trong giai đoạn đầu của tình trạng kiệt quệ tài chính có thể là một cách hiệu quả để giảm các khoản nợ thuế doanh nghiệp hiện tại. Do đó, trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính, cả hành vi tránh rủi ro tài chính và né
- 9 đánh thuế đều nghiêm trọng hơn, điều này cho thấy khủng hoảng tài chính đã làm tăng ảnh hưởng của tình trạng khó khăn về tài chính đối với né tránh thuế. Sau những thảo luận trên, giả thiết đặt ra: H2: Với tất cả những điều kiện khác không thay đổi, khủng hoảng tài chính có mối tương quan dương với việc né tránh thuế doanh nghiệp. H3: Với những điều kiện khác không thay đổi, có mối tương quan dương giữa né tránh thuế doanh nghiệp và kiệt quệ tài chính, được khuếch đại bởi sự xuất hiện của khủng hoảng kinh tế toàn cầu với quy mô lớn. BẢNG 1: TÓM TẮT CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY Nhân tố nghiên Kiệt quệ tài chính Khủng hoảng tài chính cứu Edwards và cộng sự (2013) tìm Campello và cộng sự (2010) tìm thấy mối tương quan dương. thấy rằng các doanh nghiệp bị giới hạn về tài chính do khủng hoảng tài chính sẽ có xu hướng né tránh thuế nhiều hơn. Chen và cộng sự (2010) tìm thấy Rosner (2003), Leach và Newsom mối tương quan dương và cho (2007) tìm thấy rằng nhiều công ty rằng các doanh nghiệp sẽ thực thực hiện các biện pháp phù phép hiện né tránh thuế khi lợi ích báo cáo tài chính trước khi phá sản Né tránh thuế biên lớn hơn chi phí biên. do khủng hoảng tài chính. Frank và cộng sự (2009) tìm Leach và Newsom (2007) tìm thấy thấy mối tương quan dương. rằng các công ty trong tình trạng tài chính nghiêm trọng sẽ thực hiện các biện pháp làm cho lợi nhuận trên báo cáo tài chính đẹp hơn.
- 10 Koch (2000) tìm thấy rằng báo Crabtree và Maher (2009) và cáo lợi nhuận của các doanh Ayers và cộng sự (2010) tìm thấy nghiệp lâm vào kiệt quệ tài rằng khi xảy ra khủng hoảng tài chính tăng cao bất thường. chính các doanh nghiệp thường thực hiện những biện pháp nhằm làm giảm số thuế phải nộp. Mills và Newberry (2001, 2005) Kahle và Stulz (2013) tìm thấy có tìm thấy rằng chêch lệch về thuế sự sụt giảm đáng kể về khả năng sổ sách có tương quan dương sẵn có của tín dụng, vay mượn của với kiệt quệ tài chính. công ty, sự suy giảm giá trị tài sản và chi phí vốn khi xảy ra khủng hoảng tài chính. Hanlon (2005), Blaylock và Cai và Liu (2009) tìm thấy rằng né Cộng sự (2012) tìm thấy rằng tránh thuế tương quan âm đến việc các doanh nghiệp sẽ tìm cách né tiếp cận với tín dụng, nghĩa là việc tránh thuế khi rơi vào tình trạng né tránh thuế sẽ gia tăng nếu khả thu nhập thấp hoặc xếp hạng tín năng tiếp cận tín dụng của Công ty dụng bị giảm. xấu đi. Nguyễn Thị Lan Anh (2017) tìm Brondolo (2009) chỉ ra rằng việc thấy tương quan dương giữa kiệt né tránh thuế tăng lên trong suốt quệ tài chính và né tránh thuế giai đoạn khủng hoảng tài chính và của các công ty được niêm yết cho rằng các doanh nghiệp bị hạn trên sàn chứng khoán Việt Nam. chế về tín dụng có thể trở lại với việc né tránh thuế như là nguồn tài chính thay thế cho hoạt động của họ. ATO (2008, 2010) cho thấy rằng trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính, cả hành vi tránh rủi ro tài
- 11 chính và né đánh thuế đều nghiêm trọng hơn, điều này cho thấy khủng hoảng tài chính đã làm tăng ảnh hưởng của tình trạng khó khăn về tài chính đối với né tránh thuế.
- 12 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Dữ liệu nghiên cứu Khi tiến hành nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam, mẫu nghiên cứu chọn là 337 công ty được lấy theo tiêu chí có doanh thu thuần lớn năm 2016, nghiên cứu về né tránh thuế của Grant Richardson và cộng sự (2014) cũng chọn mẫu những công ty có quy mô lớn, việc lựa chọn theo tiêu chí này nhằm mục đích để chọn những công ty có hệ thống kế toán rõ ràng nhằm có thể đo lường một cách chính xác việc né tránh thuế của công ty bằng cách sử dụng những thủ thuật kế toán. Chọn những công ty phi tài chính có niêm yết và loại bỏ những công ty trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Giai đoạn được chọn để lấy mẫu là 2008 - 2016, nhằm có thể đo lường việc né tránh thuế của các công ty trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong bài nghiên cứu này các số liệu được lấy theo năm, từ 2008 đến 2016, thời gian 9 năm với tổng cộng 3.025 quan sát. Số liệu lấy từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các công ty, các công ty phải thỏa mãn điều kiện là hoạt động liên tục và sẵn có các báo tài chính đã được kiểm toán. Nguồn dữ liệu, các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên được lấy từ các trang web có uy tín: cafef.vn, cophieu68.vn, vietstock.vn và từ cơ sở dữ liệu FiinPro Platform. 3.2. Mô hình hồi quy Kế thừa từ bài nghiên cứu “The impact of financial distress on corporate tax avoidance spanning the global financial crisis: Evidence from Australia” của các tác giả Grant Richardson, Grantley Taylor, Roman Lanis (2014), bài nghiên cứu sử dụng các biến và mô hình sau: 3.2.1. Biến phụ thuộc Biến phụ thuộc đại diện cho việc né tránh thuế được sử dụng trong bài nghiên cứu là tỷ lệ thuế hiệu dụng (CASHETR). Biến này được sử dụng nhiều trong các bài nghiên cứu trước, tiêu biểu là Dyreng và cộng sự 2008, thể hiện các nhà quản lý công ty xem một kế hoạch thuế hiệu quả là giảm thiểu số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp càng nhiều càng tốt. Tỷ lệ thuế hiệu dụng phản ánh chiến lược né tránh thuế để hoãn thuế phải trả cho các kỳ sau nhưng không ảnh hưởng đến chi phí thuế thu
- 13 nhập doanh nghiệp trong báo cáo tài chính. Tỷ lệ thuế hiệu dụng được đo lường như sau: 𝐶𝑇𝑃 CASHETR = 𝐴𝐼 CTP: thuế thu nhập doanh nghiệp phải trả AI: lợi nhuận kế toán trước thuế CASHETR càng nhỏ thì mức độ né tránh thuế càng lớn. Dyreng và cộng sự 2008 cũng chỉ ra điều này trong bài nghiên cứu của mình. Ngoài ra, biến này đã được sử dụng ở nhiều nghiên cứu trước đây ở Việt Nam để đo lường việc né tránh thuế như trong bài nghiên cứu: Mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sự né tránh thuế của các doanh nghiệp Việt Nam – Phan Gia Quyền (2016). Ngoài ra, Grant Richardson và cộng sự (2014) còn sử dụng thước đo né tránh thuế là phần dư của chêch lệch thuế sổ sách, hồi quy theo tổng dồn tích. Tuy nhiên, phần lợi nhuận thực sự chịu thuế để tính chêch lệch thuế sổ sách khó lấy dữ liệu ở Việt Nam nên bài nghiên cứu không sử dụng thước đo này. 3.2.2. Biến độc lập 3.2.2.1 Biến kiệt quệ tài chính Có rất nhiều mô hình kế toán có thể đo lường mức độ kiệt quệ tài chính của công ty như: Z-score của Altman (Altman, 1968), O-score của Ohlson’s (Ohlson, 1980) và X-score của Zmijewski (Zmijewski, 1984), mô hình Merton (1974). Trong bài nghiên cứu gốc của các tác giả Grant Richardson, Grantley Taylor, Roman Lanis họ sử dụng mô hình Merton để đo lường xác suất vỡ nợ của công ty và biết được mức độ kiệt quệ tài chính. Tuy nhiên hiện nay chưa có nhiều nghiên chuyên sâu về mô hình Merton ứng dụng vào Việt Nam do không ước lượng một số yếu tố và lấy dữ liệu cho mô hình, do đó bài viết sử dụng mô hình Z-core của Altman để đo lường mức độ kiệt quệ tài chính của các công ty ở Việt Nam. Mô hình Z-core được nghiên cứu bởi giáo sư Edward I. Altman được tính với 5 chỉ số tài chính ký hiệu X1, X2, X3, X4, X5 và được tính như sau: X1: vốn luân chuyển chia cho tổng tài sản
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 844 | 193
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 20 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn