Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chủ trương của Đảng về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1958 đến năm 1965 (qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Đông)
lượt xem 6
download
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ chủ trương của Đảng về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, thông qua nghiên cứu thực tế ở Hà Đông từ năm 1958 - 1965. Qua đó rút ra những nhận xét và bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp cho giai đoạn hiện nay. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chủ trương của Đảng về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1958 đến năm 1965 (qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Đông)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------***---------- NGUYỄN THỊ MAI CHỦ TRƢƠNG CỦA ÐẢNG VỀ XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1965 (QUA NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP TỈNH HÀ ÐÔNG) Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60.22.03.15 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Quỳnh Nga HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học của riêng tôi. Các tài liệu và số liệu trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Nếu có gì không trung thực, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Ngƣời viết cam đoan Nguyễn Thị Mai
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 Chương 1: CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP CỦA ĐẢNG VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN Ở TỈNH HÀ ĐÔNG TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1960 ............................................................................................................................. 6 1.1. Chủ trƣơng xây dựng tổ đổi công và hợp tác xã nông nghiệp của Đảng .......... 6 1.2. Xây dựng tổ đổi công, vần công tiến lên hợp tác xã bậc thấp ở tỉnh Hà Đông .......... 20 1.2.1. Chủ trương của Tỉnh ủy Hà Đông ........................................................................ 20 1.2.2. Chỉ đạo xây dựng tổ đổi công, hợp tác xã nông nghiệp........................................ 29 Tiểu kết .............................................................................................................................. 44 Chương 2: CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TỪ BẬC THẤP LÊN BẬC CAO VÀ HIỆN THỰC HÓA Ở HÀ ĐÔNG TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1965 ........................................................................................................ 45 2.1. Chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng ........................................................................... 45 2.2. Phát triển hợp tác xã từ bậc thấp lên bậc cao ở tỉnh Hà Đông ............................... 55 2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Đông ................................................................. 55 2.2.2. Quá trình tổ chức thực hiện .................................................................................. 63 Tiểu kết .............................................................................................................................. 81 Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ............................... 82 3.1. Nhận xét ....................................................................................................................... 82 3.1.1. Ưu điểm ................................................................................................................. 82 3.1.2. Nhược điểm ........................................................................................................... 86 3.2. Kinh nghiệm lịch sử .................................................................................................... 96 3.2.1. Cần nhận thức đúng đắn về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần .......................... 96 3.2.2. Trong quá trình thực hiện chủ trương của Đảng, địa phương cần chủ động vận dụng để tạo ra tính hiệu quả của nền kinh tế, không áp dụng cứng nhắc, xây dựng mô hình kinh tế phù hợp với địa phương. ............................................................ 100 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 104
- DANH MỤC BẢNG Bảng 1: Sản lượng các cây lương thực năm 1960 so với năm 1959 và so với kế hoạch đề ra ..................................................................... 36 Bảng 2: Tình hình sử dụng phân bón và diện tích cấy dày trong 3 năm 1958 -1960 .................................................................................... 37 Bảng 3: Tình hình sử dụng phân bón hóa học trong 3 năm 1958 -1960 .... 37 Bảng 4: Tình hình chăn nuôi năm 1960 so với năm 1959.......................... 38 Bảng 5: Bình quân đầu người về lương thực từ năm 1957 – 1960................. 39 Bảng 6: Tình hình các huyện xây dựng kế hoạch trong năm 1962 ............ 68 Bảng 7: Tình hình thu nhập từ hợp tác xã và từ gia đình của xã viên năm 1963 ....................................................................................... 74
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, cách mạng nước ta bước sang một giai đoạn mới. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn đang rên siết dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Thực hiện chủ trương của Đảng, cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với hai nhiệm vụ chiến lược đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã đóng vai trò quan trọng, quyết định nhất đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế khác, nông nghiệp miền Bắc, đặc biệt là hợp tác xã nông nghiệp thời kỳ này chiếm một vị trí đặc biệt. Hợp tác xã vừa hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho người nông dân, vừa góp phần làm tròn vai trò hậu phương lớn, cung cấp sức người, sức của ngày một lớn cho tiền tuyến miền Nam. Nhận thức được vai trò, vị trí của hợp tác xã nông nghiệp trong quá trình cải tạo nền kinh tế miền Bắc lúc bấy giờ, Trung ương Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh quá trình hợp tác hóa nông nghiệp, đưa người nông dân từ sản xuất nhỏ lẻ, sang nền sản xuất tập trung, quy mô lớn, của chủ nghĩa xã hội. Hà Đông là một tỉnh nằm ở khu vực đồng bằng Bắc bộ, có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Trong những năm 1958 - 1965, thực hiện chủ trương của Đảng, nhân dân Hà Đông đã đẩy mạnh quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Những kết quả đạt được trong quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống nông dân, ổn định đời sống nông thôn, xây dựng 1
- miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Đông, ngoài những thành quả đạt được, mô hình hợp tác xã nông nghiệp còn tồn tại một số bất cập như cơ chế quản lý, phân phối thu nhập…Nhìn nhận, đánh giá những thành quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc nói chung, Hà Đông nói riêng trong những năm 1958 – 1965 không chỉ góp phần đánh giá một giai đoạn lịch sử quan trọng của Hà Đông, mà cả ở miền Bắc. Đồng thời, nhận định lại một số vấn đề kinh tế nông nghiệp hợp tác hóa – tập thể hóa, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò nền kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế chung của đất nước. Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Chủ trương của Đảng về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1958 đến năm 1965 (qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Đông). 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng và phát triển Hợp tác xã nông nghiệp giai đoạn này đã có nhiều tác giả, nhà nghiên cứu đề cập đến ở khía cạnh chung như cuốn: - “Hợp tác xã nông nghiệp Việt Nam lịch sử - vấn đề - triển vọng” của tác giả Chử Văn Lâm – Nguyễn Thái Huyền, Nxbn Sự Thật, Hà Nội, 1992. - “Nông nghiệp Việt Nam 1945 – 1995” của tác giả Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống Kê, 1995. - “45 năm kinh tế Việt Nam” của tác giả Đào Văn Tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990. - “Phá rào trong kinh tế và đêm trước đổi mới”, Đặng Phong, Nxb Trí Thức, 2009. 2
- Các bài viết trên các báo, tạp chí nghiên cứu lịch sử: “Quá trình từng bước củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc nước ta”, tác giả Đinh Thu Cúc, số 175 (4/1977). “Quá trình chuyển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao ở Việt Nam”, tác giả Trần Đức Hùng, số 187 (4/1979). Nghiên cứu về Hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Đông cũng có công trình như: Lịch sử Đảng bộ Hà Tây, tập 3 (1954 – 1975), Tỉnh ủy Hà Tây, 2002. Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình nào mô tả cụ thể chủ trương của Đảng về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp thông qua nghiên cứu ở tỉnh Hà Đông từ năm 1958 đến năm 1965. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Làm rõ chủ trương của Đảng về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, thông qua nghiên cứu thực tế ở Hà Đông từ năm 1958 - 1965. Qua đó rút ra những nhận xét và bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp cho giai đoạn hiện nay. * Nhiệm vụ: - Sưu tập và hệ thống hóa những tài liệu liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó trình bày theo tiến trình lịch sử các chủ trương và biện pháp xây dựng, phát triển hợp tác xã nông nghiệp qua hai giai đoạn 1958– 1960 và 1961 – 1965. - Mô tả lại một cách khách quan, toàn diện những chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng và của Đảng bộ Hà Đông trong xây dựng, củng cố và phát triển hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1958 – 1965. - Nêu lên những nhận xét, đánh giá và bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay của Đảng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tƣợng nghiên cứu: 3
- - Nghiên cứu chủ trương, chính sách của Đảng về hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1958 – 1965. - Chủ trương của Đảng bộ Hà Đông về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, quá trình xây dựng, vận hành hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp Hà Đông trong những năm 1958 – 1965. * Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: + Bối cảnh lịch sử đất nước và Hà Đông trước năm 1958; + Chủ trương của Đảng đối với việc xây dựng hợp tác xã từ năm 1958 – 1965; + Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Hà Đông đối với việc xây dựng hợp tác xã, cũng như những kết quả đạt được, kinh nghiệm trong sự lãnh đạo của công tác này. - Về thời gian: Tập trung nghiên cứu chủ trương của Đảng, Đảng bộ Hà Đông về hợp tác xã nông nghiệp từ năm 1958 đến năm 1965. - Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Hà Đông. 5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu * Nguồn tƣ liệu - Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về hợp tác xã nông nghiệp giai đoạn 1955 – 1965. - Các sách chuyên khảo của các tác giả về Hợp tác xã nông nghiệp Việt Nam từ một số nhà Xuất bản. - Các Báo cáo tổng kết của các Sở, Ban, Ngành có liên quan đến vấn đề hợp tác xã nông nghiệp. * Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau đây: Phương pháp logic; Phương pháp lịch sử; Phương pháp thống kê; Phương pháp so sánh; 4
- 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa tư liệu về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Đảng bộ Hà Đông đối với công tác xây dựng hợp tác xã từ năm 1958 – 1965; - Trên cơ sở những nguồn tư liệu lịch sử, đặc biệt là tư liệu gốc, luận văn đã trình bày quá trình lãnh đạo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và quá trình thực tế xây dựng hợp tác xã của Hà Đông, nêu những nhận xét cùng một số bài học trong quá trình chỉ đạo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp trong những năm từ 1958 – 1965. - Luận văn có giá trị tham khảo đối với các công trình lịch sử xây dựng hợp tác xã Việt Nam, lịch sử Hà Đông. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương: Chƣơng 1: Chủ trương xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và quá trình thực hiện ở tỉnh Hà Đông từ năm 1958 đến năm 1960 Chƣơng 2: Chủ trương xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao và hiện thực hóa ở tỉnh Hà Đông từ năm 1961 - 1965 Chƣơng 3. Nhận xét và kinh nghiệm lịch sử 5
- Chương 1 CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP CỦA ĐẢNG VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN Ở TỈNH HÀ ĐÔNG TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1960 1.1. Chủ trƣơng xây dựng tổ đổi công và hợp tác xã nông nghiệp của Đảng Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi đã mở ra cho đất nước thời kỳ phát triển với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để củng cố miền Bắc về mọi mặt, Trung ương Đảng chủ trương hoàn thành cải cách ruộng đất ở toàn miền Bắc, đồng thời tiến hành khôi phục kinh tế, nâng cao sản xuất để hàn gắn vết thương chiến tranh. Tăng cường từng bước bộ phận kinh tế quốc doanh (trước hết là mậu dịch quốc doanh) và bắt đầu xây dựng bộ phận kinh tế hợp tác xã. Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thời kỳ cách mạng, mà nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành triệt để những nhiệm vụ của cách mạng dân chủ nhân dân, đồng thời tạo cơ sở ban đầu để đưa miền Bắc đi vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, Đảng cho rằng nếu cứ để nông dân tự sản xuất riêng lẻ thì dần dần số đông sẽ nghèo đói, còn một số ít sẽ trở thành phú nông. Vì vậy cần tổ chức nông dân vào tổ đổi công rồi tiến dần lên các hợp tác xã. Đó là con đường đưa nông dân đến ấm no, hạnh phúc. Tháng 8 năm 1955, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã xác định rõ mục đích, yêu cầu, phương châm, điều kiện khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc. Hội nghị chỉ rõ thời hạn trong vòng hai năm khôi phục kinh tế, căn bản đưa nền sản xuất lên ngang bằng mức trước chiến tranh. Hội nghị cũng chỉ rõ khôi phục kinh tế nhằm hàn gắn những vết thương chiến tranh là phương châm chính khôi phục kinh tế nhưng đồng thời phát triển ở 6
- mức độ nhất định. Mọi công tác kinh tế phải góp phần vào việc củng cố miền Bắc, đồng thời phải chiếu cố miền Nam một cách thích đáng. Khôi phục kinh tế nhằm phục hồi và phát triển nông nghiệp là chính, là đầu mối cho mọi lĩnh vực khôi phục: “Trong việc khôi phục kinh tế phải đặc biệt chú trọng việc khôi phục sản xuất nông nghiệp, bao gồm sản xuất lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp; phải dựa vào khôi phục sản xuất nông nghiệp để khôi phục các ngành khác, khôi phục cả nền kinh tế quốc dân” [45, tr.536]. Trên cơ sở khẳng định tính chất đặc biệt trọng yếu của sản xuất nông nghiệp “là mấu chốt của việc khôi phục nền kinh tế quốc dân, mấu chốt của toàn bộ công tác kinh tế tài chính của chúng ta. Sản xuất nông nghiệp liên quan đến đời sống của nông dân, bởi đại đa số nhân dân nước ta…[45, tr.537]. Báo cáo của đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị đã xác định đường lối phát triển nông thôn sau cải cách ruộng đất của chúng ta là hướng dẫn kinh tế nông nghiệp tiến dần từng bước lên Chủ nghĩa xã hội, qua vận động hợp tác xã để chuyển dần kinh tế cá thể lên kinh tế tập thể có tính chất xã hội chủ nghĩa. Con đường của nông thôn từ sau cải cách ruộng đất đến lúc thực hiện nông nghiệp xã hội chủ nghĩa là một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp. Phải đi dần từng bước, không thể nóng vội. Với khẩu hiệu nắm vững lãnh đạo, tiến dần từng bước sau cải cách ruộng đất để xây dựng nền kinh tế tập thể cần nắm ba việc: Vận động tổ đổi công; Vận động hợp tác xã mua bán; Vận động hợp tác xã tín dụng [45, tr.515]. Việc phát triển ba cuộc vận động đó và làm cho có kết quả tốt thì sẽ hạn chế được sự bóc lột của phú nông và kinh tế hợp tác xã sẽ thắng kinh tế phú nông. Dần dần từ chỗ thí nghiệm hợp tác xã nông nghiệp tiến lên phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Sau này nước nhà công nghiệp hóa, nhà nước có đủ máy cày, máy bừa, máy gặt đập liên hợp, máy bơm nước…cho hợp tác xã nông nghiệp thuê thì nhiều hợp tác xã nông nghiệp có thể hợp nhất là thành nông trường tập thể. Lúc đó nông nghiệp sẽ xã hội hóa [45, tr.515 – 516]. 7
- Báo cáo cũng nêu rõ: “Sau cải cách ruộng đất phải tích cực tổ chức nông dân lại để phát triển sản xuất nông nghiệp. Phải giáo dục giúp đỡ nông dân tự nguyện, tự giác đi vào con đường làm ăn tập thể, là con đường đem lại cho nông dân đời sống ấm no. Phải nắm vững công tác trung tâm ở nông thôn sau cải cách ruộng đất là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là sản xuất lương thực, đồng thời tùy khả năng mà chăm lo đẩy mạnh các ngành khác trong nông nghiệp: cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp” [45, tr.540]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa II đã xác định “Chủ trương của ta đối với nông thôn sau cải cách ruộng đất là lãnh đạo nông dân sản xuất và đấu tranh để dần tiên lên Chủ nghĩa xã hội, ngăn ngừa nông dân đi vào con đường tư bản chủ nghĩa. Muốn đi đến mục đích đó, ta cần phải kết hợp công tác tổ chức kinh tế và công tác giáo dục chính trị, thông qua các hình thức hợp tác, tương trợ từ thấp đến cao, dần dần làm cho nông dân tự nguyện, tự giác đi vào con đường làm ăn tập thể [45, tr.581]. Trung ương Đảng chủ trương đưa nông dân dần dần từng bước đi vào con đường làm ăn tập thể: tăng cường giáo dục đảng viên và quần chúng nông dân, hướng dẫn họ đi vào con đường hợp tác, tương trợ để thực hiện sản xuất có lãnh đạo, có tổ chức, làm cho thu nhập của nông dân thêm dồi dào, đời sống họ thêm cải thiện, góp phần làm cho kinh tế nước nhà ngày càng phồn thịnh…Củng cố và phát triển rộng rãi và có lãnh đạo những hình thức đổi công từng việc, từng vụ. Ở những nơi đã có cơ sở đổi công thì phổ biến hình thức đổi công thường xuyên một cách có kế hoạch. Giữ vững ba nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản trị dân chủ. Nơi nào có kinh nghiệm đổi công, có cơ sở đổi công thường xuyên và có cốt cán lãnh đạo thì làm thí nghiệm một số hợp tác xã sản xuất. Trong cuộc vận động hợp tác tương trợ phải chống hai khuynh hướng sai lầm là hoặc cưỡng bách mệnh lệnh, hoặc buông trôi, không lãnh đạo [45, tr.582]. Thực hiện chủ trương xây dựng hợp tác xã thí điểm, đến 8
- cuối năm 1955, đã có 6 hợp tác xã nông nghiệp được xây dựng thí điểm ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hóa; năm 1956 có 26 hợp tác xã thí điểm [63, tr.10]. Tháng 3 năm 1957, Hội nghị Trung ương mở rộng lần thứ 12 đã đề ra nhiệm vụ chính của các ngành trong năm 1957, trong đó đặt ra nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp trong năm 1957: đẩy mạnh sản xuất lương thực là chủ yếu, hết sức phát triển cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, phát triển các nghề phụ ở nông thôn, khôi phục ruộng hoang, hoàn thành và xây dựng thêm các công trình thủy nông, củng cố đê ở những nơi xung yếu…Ra sức khôi phục và phát triển tổ đổi công, nhất là tổ đổi công thường xuyên…đối với hợp tác sản xuất nông nghiệp, phải lấy củng cố làm chính, đảm bảo thu hoạch của xã viên cao hơn thu hoạch của nông dân, cá thể [47, tr.114 – 116]. Thực hiện chủ trương của Trung ương, việc xây dựng thí điểm các hợp tác xã vẫn được tiến hành một cách tích cực, đến tháng 10 năm 1957 có 42 hợp tác xã thí điểm. Tuy nhiên, ngay từ bước đầu thí điểm này đã có một số hợp tác xã tan vỡ [63, tr10]. Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất và ngay trong việc tổ chức đổi công, hợp tác cũng mắc sai lầm. Trước tình hình đó, muốn ổn định tình hình để chuyển lên làm nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn thì trước mắt phải gấp rút tập trung lực lượng sửa sai. Đảng đã công khai nhận sai lầm và kiên quyết sửa sai. Đến cuối năm 1957 khi công tác sửa sai đã căn bản hoàn thành, tháng 10 năm 1957, Hội nghị sơ kết công tác thí điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp đã được tổ chức. Hội nghị sơ kết đã đề ra chủ trương củng cố hợp tác xã thí điểm trên các mặt: quản lý lao động, quản lý sản xuất, quản lý tài vụ. Hội nghị đặt ra mục tiêu năm 1958 xây dựng 234 hợp tác xã; năm 1960 hoàn thành xây dựng tổ đổi công, đưa 20% hộ nông dân vào hợp tác xã bậc thấp và thí điểm xây dựng hợp tác xã bậc cao [63, tr.11]. Mặc dù chủ trương của Đảng lúc này là làm thí điểm từ thấp đến cao, nhưng trong thực tế phong trào hợp tác hóa nông nghiệp lại diễn ra ra với tốc độ rất cao. 9
- Tháng 12 năm 1957, sau khi hoàn thành kế hoạch ba năm khôi phục kinh tế và cải cách ruộng đất, Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng, xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc nước ta đang tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội là không ngừng khuyến khích phát triển sản xuất, đảm bảo đời sống người lao động ngày càng khá hơn, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Như vậy, có thể thấy đến trước Hội nghị 14 (11/1958), tư duy của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là một con đường cách mạng lâu dài, phải tiến hành từng bước một. Việc xây dựng nền kinh tế tập thể phải được tiến hành dần dần từng bước không thể nóng vội. Trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, vẫn đảm bảo tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản và cá thể bên cạnh kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Với tư duy đó, những năm 1955 – 1957, trong hoàn cảnh trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp kém, việc phát huy vai trò kinh tế hộ gia đình nông dân và hình thức hợp tác lao động giản đơn giữa các hộ nông dân là phù hợp và có hiệu quả. Trong 3 năm 1955 – 1957, 85% diện tích đất bỏ hoang vì chiến tranh ở miền Bắc được khôi phục, số lượng đàn trâu, bò tăng lên. Một tiềm năng mới bắt đầu được khai phóng, một thế làm ăn mới được mở ra. Bước sang năm 1958, sau khi cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành, xuất phát từ nhận thức muốn xóa bỏ tận gốc chế độ bóc lột, chặn đứng con đường phát triển tự phát tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (11/1958) đã họp. Hội nghị đã đưa ra chủ trương bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa trong ba năm 1958 – 1960 và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh. Đi đôi với cải tạo phải ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. 10
- Báo cáo Về nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1958 – 1960) và cải tạo kinh tế quốc dân đã chỉ rõ: Để đưa cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến lên và đẩy mạnh phát triển kinh tế, trong những năm sắp đến, nhiệm vụ trọng tâm là phải ra sức cải tạo nông nghiệp, cải tạo thủ công nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của sức sản xuất. Vấn đề quan trọng bậc nhất là phải ra sức tổ chức nông dân lại, dựa trên cơ sở hợp tác hóa mà đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và dựa trên cơ sở nông nghiệp được cải tạo và phát triển mà đẩy mạnh công cuộc phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân. Đó là một bước quá độ cần thiết để tiến lên xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố miền Bắc vững mạnh, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà [48, tr.459]. Căn cứ vào tình hình đất nước và yêu cầu chuyển tiếp từ thời kỳ phát triển kinh tế, Trung ương đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu cho kế hoạch ba năm 1958 – 1960 là: 1. Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm, nhằm giải quyết vấn đề lương thực, giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng và hết sức chú trọng tăng thêm các tư liệu sản xuất. 2. Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhất là đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh. 3. Trên cơ sở sản xuất phát triển, nâng cao một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, nhất là nhân dân lao động và tăng cường củng cố quốc phòng [48, tr.461 – 462]. Hội nghị cũng chỉ rõ: Hợp tác hóa là yêu cầu phát triển khách quan của nông nghiệp và nông dân, là một nhiệm vụ kinh tế và chính trị căn bản của Đảng ta trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là cuộc cách mạng to lớn nhất 11
- ở nông thôn, cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất rất sâu rộng ở nước ta để làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với sức sản xuất và để thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong phong trào hợp tác hóa thì hợp tác hóa nông nghiệp là then chốt để phát triển nông nghiệp, biến nông nghiệp thành chỗ dựa để phát triển kinh tế; là lực lượng chủ yếu để thúc đẩy toàn bộ phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa [48, tr.467]. Hội nghị quyết định phấn đấu đến năm 1960 căn bản hoàn thành tổ chức hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp và đưa một phần lên hợp tác xã bậc cao. Như vậy, hợp tác hóa là một nhiệm vụ kinh tế và chính trị căn bản của Đảng trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sau cách mạng ruộng đất, hợp tác hóa là phong trào to lớn nhất ở nông thôn. Kết hợp với việc đẩy mạnh hợp tác hóa, phải ra sức vận động nông dân cải tiến kỹ thuật, áp dụng rộng rãi toàn bộ kỹ thuật theo phương châm: đủ nước, nhiều phân, giống tốt, cày sâu, cấy dày. Thực hiện chủ trương của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 14, ngày 8 tháng 12 năm 1958, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 118-CT/TW “Về việc đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, đảm bảo hoàn thành thắng lợi vụ sản xuất Đông – Xuân” đã khẳng định việc xây dựng và củng cố tổ đổi công làm cơ sở cho việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp: Chủ trương chung hiện nay là phải tiếp tục đẩy mạnh và củng cố phong trào đổi công, chủ yếu là tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm, đồng thời phải chú ý đầy đủ việc xây dựng các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp một cách vững chắc. Nếu không xây dựng tốt tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm thì không thể chuẩn bị cơ sở tốt để tiến lên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đã bắt đầu thành phong trào. Nếu không chú trọng tổ chức hợp tác xã thì không đáp ứng được yêu cầu của quần chúng và không phát triển mạnh được sản xuất; nhưng mặt khác cũng phải thấy tổ chức hợp tác xã phức tạp hơn tổ đổi công và kinh nghiệm của ta còn ít, nếu không chú ý đi sâu nắm tình hình và lãnh đạo chặt chẽ, thì hợp tác xã xây dựng không tốt, do đó sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển phong trào rộng lớn về sau” [48, tr.614]. 12
- Chỉ thị cũng đưa ra những điều kiện để xây dựng các hợp tác xã ở các địa phương, đó là: Đối với từng nơi, vì tình hình phát triển không đều, cho nên mức độ cũng có khác nhau. Cụ thể, nơi chưa có tổ đổi công thì phải tổ chức ngay tổ đổi công, nơi đã có tổ đổi công thì đưa lên tổ thường xuyên có bình công chấm điểm, nơi đã có tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm thì tùy theo yêu cầu của quần chúng và khả năng lãnh đạo của cấp ủy, chủ yếu là của chi ủy xã mà tổ chức một vài hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp làm thí điểm, nơi đã có hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp vững chắc thì có thể mở rộng thêm hoặc xây dựng thêm các hợp tác xã mới và tạo điều kiện tổ chuyển một số hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao để thử nghiệm. Xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp mới lúc này nhất quyết phải có bốn điều kiện: 1. Có cơ sở đổi công khá (tức là phải có tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm làm nòng cốt). 2. Có cốt cán tốt (tức là chi bộ xã phải nắm và có những đảng viên tích cực tham gia trực tiếp và lãnh đạo). 3. Quần chúng thực sự yêu cầu (tức là quần chúng thấy hợp tác xã là tốt, là có lợi cho họ, họ thật muốn tham gia). 4. Có cán bộ chính trị và cán bộ quản lý hợp tác xã. Tổ chức tổ đổi công, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp phải luôn nắm vững ba nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ [48, tr.615 – 616]. Phương châm chung tổ chức phong trào hợp tác hóa hiện nay vẫn là tích cực lãnh đạo, tiến bước vững chắc. Tích cực lãnh đạo tức là nơi nào có điều kiện thì phải đưa quần chúng tiến lên và phải tích cực chuẩn bị những điều kiện đó, không phải chờ đợi, bị động. Tiến bước vững chắc là đảm bảo phong trào tốt chứ không phải kìm hãm phong trào chậm lại. Hợp tác hóa là một phong trào cách mạng quần chúng, phải tích cực lãnh 13
- đạo nhưng phải chuẩn bị điều kiện cho thật tốt. Hiện nay có khuynh hướng cho rằng chỉ cần nhấn mạnh tích cực lãnh đạo, đứng về một mặt thì tinh thần tích cực đó là đúng, nhưng nếu tách rời phương châm tiến bước vững chắc là không đúng. Quần chúng yêu cầu tiến lên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, đó là một biểu hiện tốt, nhưng nếu chưa đủ điều kiện để tổ chức hợp tác xã thì phải giải thích cho quần chúng tích cực tham gia và củng cố tổ đổi công tạo điều kiện để tổ chức tốt các hợp tác xã, cần khuyến khích tinh thần tiến lên của quần chúng, tích cực vươn lên để lãnh đạo quần chúng, nhưng không bị động, đi đến thiếu thận trọng, làm không tốt [48, tr. 617 – 618]. Mặc dù quan điểm chỉ đạo là vậy, nhưng khi chủ trương được thực hiện, các tổ chức đảng và chính quyền ở các địa phương đã nhận thức và triển khai với một khí thế cách mạng đặc biệt. Nhiều nơi đã áp dụng biện pháp cưỡng chế nông dân vào hợp tác xã. Vì vậy, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đã phát triển với một tốc độ không ngờ. Đến cuối năm 1958, toàn miền Bắc đã xây dựng được 4.723 hợp tác xã- vượt xa con số 244 hợp tác xã dự kiến ban đầu [63, tr14]. Trước sự phát triển không bình thường của các hợp tác xã, ngay từ rất sớm, trong đội ngũ cán bộ quản lý các cấp đã nảy sinh những ý kiến trái chiều về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp. Tại Hội nghị nông nghiệp miền Bắc lần thứ nhất tổ chức tại Thanh Hóa, tháng 12 năm 1958, đại biểu của 12 đơn vị cho rằng: hợp tác hóa nông nghiệp đã trở thành phong trào quần chúng rộng rãi; đại biểu của 13 đơn vị khác nhận định: hợp tác hóa nông nghiệp mới chỉ là bước đầu, chưa trở thành một phong trào quần chúng rộng lớn. Đặc biệt, có một số ý kiến cho rằng quần chúng chưa có yêu cầu hợp tác hóa nông nghiệp [63, tr.14]. Giữa lúc hợp tác xã nông nghiệp đang trên đà phát triển mạnh mẽ, tháng 4 năm 1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 16 đã họp. Hội nghị đã đánh dấu bước phát triển của phong trào hợp tác hóa nước ta. Trong báo cáo “Kiên 14
- quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội” của đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị đã khẳng định muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế cá thể, xây dựng chế độ sở hữu tập thể. “Kinh tế ở miền Bắc nước ta hiện nay có nhiều thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh, thành phần kinh tế hợp tác xã, thành phần kinh tế cá thể của nông dân và thợ thủ công, thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa nhà nước. Thành phần kinh tế cá thể của nông dân và thợ thủ công chiếm một phần lớn trong nền kinh tế quốc dân. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, một mặt phải ra sức phát triển nền kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã; mặt khác phải tích cực cải tạo các thành phần kinh tế cá thể và kinh tế tư bản chủ nghĩa tư doanh, đem chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thay thế dần cho chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất” [48, tr.300]. Tại Hội nghị, Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, coi “hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính trong toàn bộ sợi dây chuyền cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta, đồng thời góp phần quan trọng đẩy mạnh cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất tổ quốc [49, tr.367]. Mục đích và yêu cầu của cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp nhằm: a, Cải tạo quan hệ sản xuất cá thể ở nông thôn, xây dựng quan hệ sản xuất tập thể, xóa bỏ sự bóc lột kinh tế của phú nông, đem chế độ sở hữu tập thể của nông dân lao động thay thế dần cho chế độ sở hữu cá thể về những tư liệu sản xuất chủ yếu, vĩnh viễn xóa bỏ giai cấp bóc lột và chế độ người bóc lột người ở nông thôn. Trên cơ sở lao động tập thể và kỹ thuật cải tiến từ thấp đến cao là đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và mọi mặt sản xuất khác ở nông thôn, đồng thời tạo điều kiện để đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nông dân, làm cho nông dân ăn no, mặc ấm, ở tốt, có sức khỏe, có văn hóa. b, Tăng cường đoàn kết nông thôn, củng cố khối liên minh công nông, 15
- củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và chính quyền dân chủ nhân dân, củng cố dân quân và xây dựng lực lượng hậu bị, củng cố nền chuyên chính dân chủ nhân dân. c, Nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của cán bộ, đảng viên và đoàn viên, giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho quần chúng nông dân, củng cố và phát triển Đảng và Đoàn Thanh niên Lao động, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở nông thôn. d, Góp phần vào sự nghiệp củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà [49, tr.370 – 371]. Trung ương Đảng đã xác định thái độ cụ thể đối với từng tầng lớp ở nông thôn, đó là: “Dựa hẳn vào bần cố nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, hạn chế đi đến xóa bỏ sự bóc lột kinh tế của phú nông, cải tạo tư tưởng phú nông, ngăn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy, tiếp tục mở đường cho địa chủ lao động cải tạo thành con người mới; kiên quyết đưa nông dân vào con đường hợp tác hóa nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội” [49, tr372]. Để đưa phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đi đến thành công, Hội nghị đã vạch ra ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Phương châm chỉ đạo chung là tích cực lãnh đạo, vững bước tiến lên; quy hoạch về mọi mặt, sát với từng vùng; làm tốt, vững, nhanh, gọn. Cũng tại Hội nghị, Trung ương đã thảo luận và quyết định nhiều vấn đề quan trọng về bước đi, những chính sách cụ thể về công hữu hóa tư liệu sản xuất, về quản lý dân chủ, phân phối thống nhất, về tổ chức bộ máy quản lý và quy định về trích lập các quỹ cho hợp tác xã… Về bước đi, Hội nghị chỉ rõ: “Nói chung phong trào hợp tác hóa nông nghiệp phải đi từ thấp đến cao và phải tiến theo ba bước: tổ đổi công có mầm mống xã hội chủ nghĩa, hợp tác xã bậc thấp nửa xã hội chủ nghĩa và hợp tác xã bậc cao hoàn toàn xã hội chủ nghĩa” [49, tr328]. Điều kiện cơ bản để xây dựng hợp tác xã nông nghiệp là phải có cơ sở 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 177 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 203 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX
216 p | 165 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 147 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 168 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 150 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 199 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 175 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 18 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn