Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004
lượt xem 7
download
Đề tài trình bày có hệ thống quan điểm, đường lối, kết quả của quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004, rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước hiện tại và qua đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, góp phần củng cố lòng tin trong lực lượng vũ trang và nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Thị Thu Hương Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004 Luận văn ThS. Lịch sử: 60.22.56 Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Đình Lê 1
- MỤC LỤC Tran g MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Quỳnh Lƣu về xây dựng lực lƣợng vũ trang. 6 1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu. 6 1.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang từ năm 1986 đến 2004. 17 Chƣơng 2. Đảng bộ huyện Quỳnh Lƣu chỉ đạo xây dựng lực lƣợng vũ trang từ năm 1986 đến 2004. 33 2.1. Xây dựng chính trị, tư tưởng cho lực lượng vũ trang huyện. 33 2.2. Xây dựng lực lượng bộ đội địa phương 37 2.3. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 52 2.4. Xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên 61 Chƣơng 3. Kết quả và một số kinh nghiệm trong xây dựng lực lƣợng vũ trang huyện Quỳnh Lƣu. 69 3.1. Những kết quả chủ yếu và khuyết điểm, yếu kém. 69 3.2. Một số kinh nghiệm trong xây dựng lực lượng vũ trang 76 huyện Quỳnh Lưu thời kỳ 1986 - 2004. KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 2
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, tình hình thế giới đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. Trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định. Những nhân tố đó tác động trực tiếp đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt…” [14, tr117]. Trong nhiệm vụ chung đó, Đảng ta hết sức quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang đặc biệt là xây dựng lực lượng vũ trang ở địa phương - một trong những nhân tố quyết định thắng lợi trong các cuộc kháng chiến vừa qua và còn có một vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Quỳnh Lưu là một trong những địa bàn quan trọng có vị trí chiến lược của Quân khu IV và tỉnh Nghệ An, nằm ở thế “nam Thanh - bắc Nghệ” với địa hình phong phú đa dạng, có các đường giao thông chiến lược chạy qua, có địa thế thông ra biển đông và là bàn đạp ra bắc, vào nam, lên miền tây, có vùng rừng núi khá rộng và liên hoàn; từng nằm trong những điểm hoạt động chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện, lực lượng vũ trang Quỳnh Lưu luôn luôn kiên định vững vàng, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến 3
- đấu ngày càng cao, thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa phương. Tìm hiểu một cách đầy đủ quá trình trưởng thành của lực lượng vũ trang Quỳnh Lưu dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện từ 1986 đến 2004, rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực để vận dụng vào quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hiện nay có ý nghĩa khoa học, thiết thực. Vì vậy, tôi đã chọn “Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004” làm đề tài luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng đã được nhiều cơ quan của Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới các góc độ, phạm vi khác nhau. Nhiều nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã có những bài viết quan trọng đã được in thành sách như: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp (1966), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân ( Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội); Văn Tiến Dũng (1965), Bàn về những kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta ( Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội); Võ Nguyên Giáp (1967), Những kinh nghiệm lớn của Đảng ta về lãnh đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ( Nxb sự thật, Hà Nội). Những công trình đó có tính chất chỉ đạo. 4
- Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, trực tiếp vấn đề: “Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu - tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004” dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng các công trình đã nghiên cứu trên là những tài liệu quý, phong phú có thể kế thừa, vận dụng trong quá trình thực hiện luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Thông qua trình bày có hệ thống quan điểm, đường lối, kết quả của quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004, rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước hiện tại và qua đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, góp phần củng cố lòng tin trong lực lượng vũ trang và nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết những nhiệm vụ sau: - Trình bày những yêu cầu khách quan xây dựng lực lượng lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu. - Làm rõ những chủ trương và kết quả quá trình Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ năm 1986 đến 2004. - Nêu lên những kết quả, hạn chế và rút ra một số bài học kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu 5
- - Nghiên cứu yếu tố chủ quan, khách quan cần phải tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu. - Nghiên cứu quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ Huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang từ năm 1986 đến 2004. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ giới hạn trình bày về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương từ 1986 đến 2004. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là trong thời kỳ đổi mới. 5.2. Nguồn tài liệu + Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh. + Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ chính trị, Nghị quyết của Đảng uỷ Quân khu IV, Đảng uỷ huyện Quỳnh Lưu và Đảng uỷ Quân sự huyện Quỳnh Lưu. + Các công trình khoa học của các cơ quan, các nhà khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận văn. + Kết quả khảo sát thực tế của tác giả tại địa phương. 5.3. Phương pháp nghiên cứu 6
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logíc, đồng thời còn sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê… 6. Đóng góp của luận văn - Bước đầu trình bày một cách có hệ thống sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang từ 1986 đến 2004, rút ra một số bài học kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang trong thời kỳ này, qua đó góp phần làm sáng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu nói riêng trong quá trình lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang - lực lượng nòng cốt trong hai cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đang là một lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng. - Thành công của luận văn góp phần tổng kết thực tiễn, cung cấp cơ sở lý luận, cứ liệu, phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Đảng bộ ở các địa phương trong việc xây dựng lực lượng vũ trang. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết. Chƣơng 1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu về xây dựng lực lượng vũ trang. Chƣơng 2. Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang từ năm 1986 đến 2004. Chƣơng 3. Kết quả và một số kinh nghiệm trong xây dựng lực lượng vũ trang huyện Quỳnh Lưu. 7
- Chƣơng 1 CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN QUỲNH LƢU VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG 1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng lực lƣợng vũ trang trên địa bàn huyện Quỳnh Lƣu 1.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội huyện Quỳnh Lưu * Vị trí địa lý Quỳnh Lưu là một huyện thuộc phía bắc của tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh khoảng 60 km về phía bắc. Phía bắc huyện Quỳnh Lưu giáp huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá. Phía nam và tây nam Quỳnh Lưu giáp huyện Diễn Châu và huyện Yên Thành với ranh giới khoảng 31 km. Phía tây, giáp huyện Nghĩa Đàn với ranh giới khoảng 33 km. Phía đông, huyện Quỳnh Lưu giáp biển đông với đường bờ biển dài 34 km. Diện tích tự nhiên của huyện Quỳnh lưu là 586,4 km2 chiếm 3,58% diện tích toàn tỉnh, đứng hàng thứ nhất các huyện đồng bằng, thành thị và đứng hàng thứ 11 so với các huyện thị của tỉnh Nghệ An. Chiều dài huyện từ bắc xuống nam là khoảng 26 km (tính theo chiều dài quốc lộ 1A chạy qua), chiều rộng từ bờ biển đông đến điểm cực tây khoảng 22 km. Địa hình Quỳnh Lưu thấp dần từ bắc xuống nam và từ tây sang đông. Đó là địa hình rất đa dạng, đất đai tự nhiên được cấu tạo khác nhau. Có thể chia địa hình của huyện ra làm 3 vùng tiêu biểu: vùng ven biển, vùng đồng bằng và vùng đồi núi. 8
- Sông ngòi, kênh đào, cửa biển Quỳnh Lưu đóng một vai trò khá quan trọng trong cấu tạo hệ thống địa hình cũng như ảnh hưởng tới bộ mặt kinh tế - xã hội của huyện, như Sông Giát, Sông Hoàng Mai, đặc biệt, có một con kênh khá dài và rộng (dài hơn 20km) được gọi nhiều tên khác nhau tuỳ từng giai đoạn nhưng phổ biến nhất và thành một tên chung là kênh nhà Lê. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì kênh này được đào từ thời Bắc thuộc và được đào thêm với quy mô lớn vào thời Tiền Lê năm thứ ba của Lê Đại Hành (982). Qua nhiều thế kỷ, kênh đào này được gia cố, trở thành tuyến vận chuyển khá quan trọng đáp ứng cho nhu cầu kinh tế và quốc phòng trong vùng. Hệ thống giao thông ở Quỳnh Lưu phong phú và thuận tiện. Tuyến đường sắt bắc - nam chạy qua huyện từ xã Quỳnh Thiện phía bắc đến xã Quỳnh Giang phía nam dài hơn 30 km, có hai ga: Hoàng Mai và Cầu Giát. Đây là hai ga được coi là trọng yếu trung chuyển hàng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày nay trở thành ga phụ trong tuyến vận chuyển đuờng sắt bắc nam. Quỳnh Lưu còn một tuyến đường sắt nữa theo hướng tây bắc, xuất phát từ ga Cầu Giát lên huyện Nghĩa Đàn dài 15 km. Tuyến đường sắt này chủ yếu phục vụ cho việc vận chuyển hàng hoá, nông, lâm sản. Trong các tuyến đường bộ, lớn nhất là quốc lộ 1A chạy qua địa bàn huyện Quỳnh Lưu dài 26 km. Sau quốc lộ 1A là quốc lộ 48 chạy từ Yên Lý lên Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, đoạn chạy qua Quỳnh Lưu chỉ dài hơn 10 km, nhưng cũng là tuyến giao lưu rất quan trọng nối Quỳnh Lưu với vùng núi của tỉnh Nghệ An. Tỉnh lộ là đường 37 A dài 25 km từ Lạch Quèn qua Ngò, thị trấn Cầu Giát lên ngã ba Tuần nối với quốc lộ 48. Huyện lộ có rất nhiều con đường có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng. 9
- Như vậy là quanh trục quốc lộ 1A, đường Quỳnh Lưu đã tạo ra hệ thống đường “xương cá”, từ hệ thống đường “xương cá” này lại tạo ra đường “bàn cờ”, tức là đường liên xã, liên thôn. Đường biển góp phần không nhỏ cho cư dân Quỳnh Lưu giao lưu với các tỉnh phía bắc và phía nam. Nhìn chung, Quỳnh Lưu có vị trí địa lý quan trọng đối với quốc phòng, bởi vì nó nằm vào thế “nam Thanh bắc Nghệ” có các đường giao thông chiến lược chạy qua, có địa thế thông ra biển đông và là bàn đạp ra bắc, vào nam, lên miền tây. Có thể nói, Quỳnh lưu nhiều lần đã trở thành nơi chiến địa, do vậy, được đánh giá rằng: “Quỳnh Lưu chiến địa, Mai giang huyết thống”. [2,tr23] * Kinh tế, xã hội và văn hoá Hiện nay, Quỳnh Lưu có 42 đơn vị hành chính cơ sở (41 xã và một thị trấn). Dân số Quỳnh Lưu 340.988 người, trong đó có 35.000 người theo đạo thiên chúa nằm ở 21 xã (chiếm 12% dân số so với toàn huyện) và có gần 2000 người là đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu dân tộc Thái thuộc nhóm Mãn Thanh theo cách gọi của chính họ. Số hộ người Thái hiện nay chủ yếu sống ở xã Quỳnh Thắng phía tây của huyện. Theo số liệu thống kê thì dân số Quỳnh Lưu đông nhất so với các huyện, thị của tỉnh Nghệ An. Kinh tế Quỳnh Lưu đa dạng, nhưng nét chung nhất nông nghiệp là chủ yếu. Nông nghiệp nổi bất nhất là trồng lúa và màu. Kinh tế biển cũng là một trong những lợi thế của Quỳnh Lưu do có hàng chục km bờ biển và 3 cửa lạch. Hải sản không những cung cấp cho nhu cầu của cư dân trong vùng mà còn cho cả những vùng lân cận. Ngoài ra, nhân dân Quỳnh Lưu còn có thêm nghề làm muối với tổng diện tích đất có thể làm 10
- đồng muối lên tới khoảng 1000 ha. Ngoài nghề làm muối còn có các nghề: làm gạch ngói, nung vôi, đục đá, mộc, nuôi tằm, dệt lụa, làm nón, đóng thuyền… Từ năm 1986 đến 2004, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế, phát triển kinh tế toàn diện. Đến năm 2004 kinh tế của Quỳnh Lưu tăng trưởng 13,1%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2004 là 4.170.000 đồng/người một năm. Hộ nghèo đói giảm từ 28% năm 1990 xuống 10,07% năm 2004. Sản xuất nông nghiệp có bước đi ổn định và khá vững chắc, sản lượng lương thực năm 2004 đạt 105.551 tấn, tăng 45.551 tấn so với năm 1990.[48] Nghề nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản phát triển mạnh, phong phú, phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh kinh tế vùng biển và ven biển. Công nghiệp xây dựng đạt mức tăng trưởng cao và từng bước tăng tỉ trọng trong cơ cấu kinh tế, nhiều ngành nghề phát triển nhanh, mạnh như: Vật liệu xây dựng, cơ khí, điện, sửa chữa đóng mới tàu thuyền, vừa bảo đảm phát triển kinh tế, vừa bảo đảm yêu cầu phục vụ quốc phòng khi cần thiết. Về cơ sở hạ tầng, Huyện uỷ đã huy động sức dân và tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư xây dựng điện, đường, trường, trạm, với tổng đầu tư trong hơn 15 năm gần 1.200 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 43%. Đến nay, 100% số xã đã có điện lưới quốc gia. Hệ thống giao thông nông thôn (trong đó có 50% đường nhựa), kênh mương, hồ đập được xây dựng. Văn hoá huyện Quỳnh Lưu phát triển khá toàn diện. Hàng năm, huyện đã tổ chức nhiều cuộc giao lưu văn hoá, văn nghệ. Đến năm 2004 toàn huyện đã có 76% số gia đình đạt Gia đình văn hoá, có 203 xóm, cơ quan, trường học 11
- được công nhận Làng văn hoá, đơn vị văn hoá, 8 đơn vị được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 123 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng. [48] Giáo dục - đào tạo có nhiều chuyển biến, tiến bộ rõ nét cả về số lượng và chất lượng, là đơn vị nhiều năm đạt tiêu chuẩn tiên tiến xuất sắc của tỉnh. Tỷ lệ huy động trẻ em đến trường đạt kế hoạch đề ra. Huyện đã chú trọng quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, đáp ứng ngày càng tốt hơn quá trình dạy và học. Năm 2004, toàn huyện có 196 trường học (trong đó có 9 trường THPT) tăng 49 trường. Số học sinh các cấp học 112.613 em (trung bình 3 người dân có 1 người đi học) tăng 43.130 em so với năm 1989, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, hàng năm học sinh giỏi các trường đều tăng, nhiều học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia, tỉnh và huyện, năm 2004 có 5.638 học sinh giỏi huyện, tăng 3.750 em, học sinh giỏi tỉnh 663 em, tăng 602 em so với năm 1996. Đến năm 2004 đã có 28 xã hoàn thành phổ cập THCS và 17 trường đạt tiêu chuẩn quốc gia, mở 6 trung tâm học tập cộng đồng bảo đảm nhu cầu học tập thường xuyên cho nhân dân lao động.[48] Công tác y tế có nhiều chuyển biến, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng lên; thực hiện tốt công tác y tế dự phòng và chương trình 12 quân dân y kết hợp, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền dân số, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ chăm sóc bà mẹ trẻ em. Đến năm 2004 đã có 51,2% trạm trưởng y tế là bác sỹ, có 158 xóm không có người sinh con thứ 3, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 32,12%. Tỷ lệ tăng dân số 1,04%.[48] Việc thực hiện chính sách xã hội, chính sách hậu phương quân đội có nhiều cố gắng. Đã cơ bản hoàn thành việc giải quyết những tồn đọng và khen thưởng sau các cuộc chiến tranh, thực hiện chi trả chế độ cho các đối tượng 12
- đầy đủ, kịp thời. Phong trào “đền ơn, đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn” đã được đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng bằng nhiều hình thức như: phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, xây nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, vườn tình nghĩa… đã góp phần nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho các đối tượng chính sách. Hàng năm đã tạo được việc làm cho khoảng 1.500 đến 2000 người lao động. Cuộc vận động “ngày vì người nghèo” đã được các cấp, các ngành và mọi tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ. Đến nay đã thu được 1 tỷ 158 triệu đồng, làm được 170 nhà đại đoàn kết, sửa chữa 50 nhà, làm 5 nhà văn hoá cho 5 bản dân tộc.[48] Những kết quả đó phản ánh trách nhiệm và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ huyện trong thời kỳ 1986 đến 2004 trên tất cả mọi phương diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân huyện Quỳnh Lưu. 1.1.2. Truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Quỳnh Lưu. Tổ chức đầu tiên của Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu ra đời ngày 20/4/1930. Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, trải qua 15 năm đấu tranh gian khổ Quỳnh Lưu đã cùng với nhân dân cả nước giành được chính quyền về tay nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, do hình thái của cuộc kháng chiến, các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh trở thành một trong những vùng tự do liên hoàn (thường được gọi là vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh). Đây là vùng không có quân Pháp chiếm đóng, do vậy, đã trở thành một trong những hậu phương, căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. 13
- Do vị trí địa lý của mình, vùng tự do liên hoàn Thanh - Nghệ - Tĩnh có vai trò quan trọng đối với cuộc kháng chiến toàn quốc. Đây là vùng đất tương đối rộng (khoảng hơn 34.000 km2), với dân số khoảng gần 5 triệu người, lại có địa hình đa dạng, do đó, vùng này là nơi cung cấp sức người, sức của khá quan trọng cho tiền tuyến (đóng góp lương thực, đi bộ đội, đi dân công). Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh là nơi đứng chân của lực lượng vũ trang trong nhiều chiến dịch, có thể phát triển các chiến dịch đấu tranh vũ trang ra các tỉnh phía bắc và cũng có thể phát triển tiến xuống phía nam (từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên trở vào). Đồng thời, vùng này còn là căn cứ cho lực lượng vũ trang của ta phối hợp chiến đấu trên các chiến trường Lào và Cămpuchia. Đây là vùng có thể xây dựng các căn cứ cho kháng chiến, các cơ sở hậu cần như các xưởng sản xuất vũ khí, kho tàng… Đây cũng là vùng tiếp tục xây dựng chế độ mới trong điều kiện tương đối hoà bình. Nhiều cơ sở của ngành giáo dục - đào tạo, ngành văn hoá của nước nhà được đặt ở vùng này. Với vị trí và vai trò như vậy, cho nên vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh luôn luôn là mục tiêu để thực dân Pháp phá hoại về nhiều mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, tư tưởng, văn hoá… Chúng dùng mọi thủ đoạn, cả quân sự và chiến tranh tâm lý phá hoại hậu phương của cuộc kháng chiến, tiêu hao sức mạnh kháng chiến, thậm chí khi có điều kiện chúng còn tìm cách đổ quân vào chiếm đóng lâu dài. Do vậy, việc tăng cường lực lượng về mọi mặt để chiến đấu bảo vệ hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng và nhân dân ta trong thời kỳ này. Trong những điểm chung của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, huyện Quỳnh Lưu có những đặc điểm riêng về vị trí địa lý. Quỳnh Lưu có nhiều cửa biển, đồng thời nhiều đồi núi nhô ra biển, vì vậy địch có thể lợi dụng nhiều địa hình để dễ dàng đóng quân, xâm nhập vào đất liền, theo các sông có thể 14
- tiến vào các xã bán sơn địa phía tây. Với bờ biển dài cộng với địa hình đa dạng, kẻ địch vừa có thể dùng tàu biển lớn, lại có thể dùng tàu, thuyền nhỏ để gây ra những cuộc đổ bộ, phá hoại, quấy rối tập kích. Vùng rừng núi Quỳnh Lưu khá rộng và liên hoàn kéo dài ra miền tây Thanh Hoá, nối liền dải rừng núi miền tây Nghệ An cho nên là nơi mà bọn thổ phỉ, biệt kích, phản động lợi dụng ẩn náu phá hoại các cơ sở kháng chiến của ta, đồng thời sẵn sàng phối hợp với lính pháp khi bọn chúng đi bộ từ ngoài biển vào đất liền. Quỳnh Lưu là một huyện có tỷ lệ không nhỏ số đồng bào theo đạo thiên chúa, nói chung đồng bào đều tin vào chủ trương của Đảng về đoàn kết lương giáo. Song, có một bộ phận chức sắc theo đạo thiên chúa ở huyện mắc mưu địch, kích động giáo dân, tìm cách phá vỡ khối đoàn kết lương giáo. Do đó, việc đoàn kết lương giáo giữ vững trật tự trị an, bảo vệ chính quyền cách mạng, góp phần tích cực vào sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai có ý nghĩa rất quan trọng. Đầu thời kỳ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng bộ Quỳnh Lưu đã lãnh đạo việc xây dựng lực lượng để sẵn sàng đánh địch. Lực lượng quân dân du kích có từ hồi khởi nghĩa giành chính quyền đã được huyện chú ý củng cố tổ chức. Đó là những đơn vị trước đây chuẩn bị bổ sung vào đội quân nam tiến, vào các đội quân báo, cứu thương… Đầu năm 1947, Huyện uỷ chủ trương lựa chọn trong số dân quân du kích ở các xã, những người có điều kiện sức khoẻ trình độ giác ngộ để thành lập một đơn vị mạnh, tập trung của dân quân du kích huyện.[2, tr118] Giữa năm1947, cơ quan huyện đội của Quỳnh Lưu chính thức được thành lập. Từ đây, công tác quân sự địa phương càng được chú trọng hơn để chuẩn bị đối phó với mọi âm mưu và hành động của thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai. 15
- Cuối năm 1947, huyện đã xây dựng được một đại đội bộ đội địa phương trên cơ sở các đội dân quân du kích (Gọi là C-120 bộ đội địa phương huyện). Đại đội này gồm 3 trung đội độc lập trực thuộc Ban chỉ huy đại đội: một trung đội đóng quân ở khu vực Hoàng Mai, một trung đội đóng ở vùng Thanh Viên và một trung đội đóng ở vùng Phú Hậu.[2, tr119] Trong năm 1947, sự ra đời của lực lượng dân quân du kích tập trung của huyện và sau đó là việc thành lập chính thức cơ quan huyện đội cùng với sự ra mắt của đại đội bộ đội địa phương gồm 3 trung đội đã đẩy tới một bước phát triển phong trào luyện tập dân quân tự vệ và xây dựng, bố phòng… bảo vệ các làng xã. Các tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở đã tích cực lãnh đạo dân quân luyện tập, rào làng kháng chiến. Các cơ quan trong huyện đều có đội du kích. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ Nghệ An, Quỳnh Lưu đã vận động những người trong độ tuổi gia nhập dân quân. Lực lượng quân và dân ở Quỳnh Lưu được nâng cao ý thức sẵn sàng chiến đấu, trang bị thêm nhiều vũ khí mới, tuy vẫn chỉ là những vũ khí thô sơ. Đến tháng 10 năm 1949 quân và dân Quỳnh Lưu đã giành được thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu chống càn phá tan âm mưu và hành động của thực dân Pháp nhằm phá hoại vùng tự do của ta. Đây là một trận càn lớn nhất của địch vào vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong suốt cả thời kỳ chống Pháp ở nước ta. Trong suốt thời gian từ năm 1951 - 1953, thực dân Pháp luôn cho quân biệt kích xâm nhập vào đất liền Quỳnh Lưu bằng hai đường hoặc từ biển vào hoặc nhảy dù từ máy bay xuống móc nối với bọn phản động nội địa để phá hoại cuộc sống của nhân dân. Dân quân du kích các xã đã chiến đấu gan dạ buộc chúng phải nhanh chóng rút lui. 16
- Như vậy, 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân và lực lượng vũ trang Quỳnh Lưu đã giữ niềm tin sắt son với Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, đem hết sức người, sức của phục vụ bảo vệ thành quả cách mạng Tháng Tám. Ngoài những thắng lợi to lớn trên quê hương mình, Quỳnh Lưu còn là một trong những địa phương có phong trào mạnh về phục vụ kháng chiến. Hàng ngàn người chủ yếu là lấy từ bộ đội địa phương và dân quân du kích bổ sung cho quân chủ lực. Hàng ngàn con em trong huyện đi dân công phục vụ các chiến trường. Có thể nói hầu hết các chiến trường ở nước ta, nhất là ở Điện Biên Phủ, đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên… đều có những con em ưu tú của Quỳnh Lưu tham gia góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, miền Nam còn phải tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Do đó, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh đảm đương hai nhiệm vụ: bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Trong thời kỳ (1954 - 1965) song song với nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế thì công tác quân sự địa phương của huyện Quỳnh Lưu cũng đã từng bước trưởng thành, lực lượng dân quân du kích phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Năm 1965, đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Địa bàn tỉnh Nghệ An, trong đó có huyện Quỳnh Lưu là địa bàn rất xung yếu trong toàn bộ cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước. Cả Quỳnh Lưu trở thành một “toạ độ lửa” khốc liệt và là một trong những “túi 17
- bom” bị cày nát, nhất là các hệ thống giao thông huyết mạch của quốc gia chạy qua địa bàn huyện. Đứng trước tình hình đó, Huyện uỷ chú trọng tăng cường lãnh đạo việc tổ chức và huấn luyện bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, phòng không nhân dân, tổ chức lưới lửa chiến tranh nhân dân, hạ máy bay giặc, sẵn sàng về mọi mặt để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Vì vậy, trong thời kỳ này dân quân tự vệ, bộ đội địa phương của huyện đã phát triển, hăng say luyện tập, được trang bị súng trường, trung liên, đại liên (3/4 số xã được trang bị đại liên), có nhiều xã được trang bị súng cao xạ 12,7 ly, hình thành tổ dân quân trực chiến. Như vậy là trên địa bàn huyện đã hình thành lưới lửa các tầm để bắn máy bay địch. Dân quân tự vệ ở các xã còn đóng vai trò to lớn trong việc bắt giặc lái máy bay Mỹ ta bắn rơi. Hàng nghìn thanh niên Quỳnh Lưu nô nức lên đường đi bộ đội. Trung bình hàng năm Quỳnh Lưu có khoảng 3000 thanh niên vào bộ đội, đi thanh niên xung phong. Từ năm 1965 - 1975 Quỳnh Lưu đã có 17.406 thanh niên lên đường nhập ngũ. Lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ tích cực tham gia trên cả hai mặt: vừa tích cực luyện tập theo các phương án tác chiến, bồi dưỡng cho gần 100 cán bộ trung đội đến xã đội những kiến thức về chính trị, quân sự, vừa tổ chức sản xuất tốt, nhất là đóng vai trò xung kích trong các chiến dịch thuỷ lợi. [2, tr 260,261] Ngoài ra, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã tăng cường công tác lãnh đạo nhân dân làm tốt công tác quốc phòng, an ninh, bảo đảm giao thông vận tải và chi viện cho tiền tuyến. Trong không khí của cả nước sục sôi chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Lưu đã đóng góp sức mình, thể hiện bằng các phong trào thi đua lao động, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ cho nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam. Đảng bộ huyện đã chú trọng lãnh đạo nhân dân phát huy tinh thần yêu nước, đề cao cảnh giác, sẵn sàng 18
- chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ chi viện cao nhất cho tiền tuyến. Huyện đã vượt kế hoạch về huấn luyện quân sự cho dân quân tự vệ. Đảng bộ ở nhiều xã đã lãnh đạo phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng xã vững mạnh về chính trị, bảo đảm trật tự, trị an… Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, kết thúc 30 năm đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Bước vào giai đoạn mới, quân và dân huyện Quỳnh Lưu có những thuận lợi rất cơ bản đó là tinh thần phấn khởi của toàn dân sau bao nhiêu năm dồn sức cho thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đất nước được hoà bình và những thành quả và kinh nghiệm sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn rất lớn như hậu quả khốc liệt của chiến tranh. Đế quốc mỹ và các thế lực phản động liên tiếp chống phá cách mạng nước ta, chúng thi hành chính sách bao vây, cấm vận. Chiến tranh biên giới phía tây nam và biên giới phía bắc nổ ra. Nối tiếp truyền thống đấu tranh cách mạng và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hàng nghìn thanh niên Quỳnh Lưu tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ quốc tế. Với niềm tự hào vào chiến thắng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, huyện Quỳnh Lưu ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, ổn định đời sống, giữ gìn trật tự trị an, xây dựng quê hương theo những mục tiêu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, những thắng lợi to lớn của quân và dân trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu trong cách mạng Tháng Tám, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ trước đây và trong thời kỳ 10 năm đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, càng làm sáng tỏ sức mạnh tổng hợp, sức mạnh ở địa phương trong chiến tranh nhân bảo vệ Tổ quốc. Những thắng lợi đó khẳng 19
- định vai trò chiến lược của lực lượng vũ trang địa phương trong đấu tranh cách mạng, trong chiến tranh giải phóng trước đây và ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong nhiệm vụ chống lại mọi âm mưu của các thế lực thù địch. 1.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ huyện Quỳnh Lƣu về xây dựng lực lƣợng vũ trang từ năm 1986 đến 2004 Từ nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay trên thế giới và khu vực có nhiều nhân tố tác động sâu sắc đến công cuộc bảo vệ Tổ quốc ở nước ta. Tiêu biểu là: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, cơ chế quản lý kinh tế, chính sách, xã hội, tác động sâu sắc tới quốc phòng, an ninh. Các nước trên thế giới đang ra sức tận dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại để cải cách quân sự nhằm xây dựng một lực lượng vũ trang tinh nhuệ, số lượng hợp lý, chất lượng cao, đủ đáp ứng nhu cầu. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho sức sản xuất phát triển vượt bậc, vượt qua biên giới quốc gia, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới phát triển lên một giai đoạn mới - giai đoạn toàn cầu hoá. Đồng thời với xu thế toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá nổi lên. Khu vực hoá vừa là một biểu hiện cụ thể của toàn cầu hoá trong một khu vực nhất định, vừa là sự “phản ứng” đối với xu thế toàn cầu hoá, như một sự tập hợp lực lượng để đối phó và tham gia vào sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế là cơ sở của sự phân hoá và tập hợp lực lượng trên thế giới ngày nay. Mỹ muốn nắm toàn cầu hoá để kiến tạo một “trật tự thế giới” kiểu Mỹ. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 177 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 202 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 147 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 168 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 150 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 199 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 175 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 18 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn