Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944)
lượt xem 4
download
Nghiên cứu về Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam để: Làm rõ cuộc đời và con đường hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ. Đánh giá vai trò và những đóng góp của Hoàng Văn Thụ đối với viêc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ THANH TRÚC HOÀNG VĂN THỤ VỚI VIỆC XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1928-1944) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ THANH TRÚC HOÀNG VĂN THỤ VỚI VIỆC XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1928-1944) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.03.13 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Nghĩa Hà Nội - 2015
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản than, tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong Bộ môn Lịch sử Việt Nam – Khoa Lịch Sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Thư viện Quốc gia Việt Nam, Ủy ban nhân dân huyện Văn Lãng… đã giúp đỡ, tạo điều kiện trong quá trình tìm kiếm, thu thập tài liệu nghiên cứu. Đặc biệt, tác giả gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Trần Viết Nghĩa nhờ sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song giới hạn về mặt thời gian và nhận thức nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Do vậy, tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô giáo và những đóng góp ý kiến quý báu của toàn thể các bạn.
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản Luận văn Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944) là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Viết Nghĩa mà trước đó chưa có bất cứ tác giả nào công bố. Những tư liệu và số liệu sử dụng trong bản luận văn là có tính xác thực và nguồn gốc rõ ràng. Tác giả Lê Thanh Trúc
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................................ 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 6 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................. 6 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 6 7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 7 Chƣơng 1: QUÊ HƢƠNG, GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU NƢỚC ĐẦU TIÊN CỦA HOÀNG VĂN THỤ ............................................. 8 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ........... 8 1.2. Quê hƣơng và gia đình Hoàng Văn Thụ ........................................... 11 1.3. Những hoạt động yêu nƣớc đầu tiên của Hoàng Văn Thụ ............. 19 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 26 Chƣơng 2: HOÀNG VĂN THỤ XÂY DỰNG CƠ SỞ, LỰC LƢỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG Ở VÙNG CAO – BẮC – LẠNG ......................... 28 2.1. Xây dựng cơ sở cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng – Lạng Sơn – Thái Nguyên ................................................................................................. 28 2.2. Xây dựng lực lƣợng Cứu Quốc quân, thành lập căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai......................................................................................... 42 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 53
- Chƣơng 3: HOÀNG VĂN THỤ VỚI SỰ CHUYỂN HƢỚNG CÁCH MẠNG, XÂY DỰNG AN TOÀN KHU, VÀ MẶT TRẬN VIỆT MINH TRONG THỜI KỲ 1939-1945 ..................................................................... 55 3.1. Thực hiện chuyển hƣớng cách mạng Việt Nam .................................. 55 3.2. Xây dựng An toàn khu .......................................................................... 66 3.3. Xây dựng Mặt trận Việt Minh ............................................................. 73 Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 77 Chƣơng 4: HOÀNG VĂN THỤ VỚI VIỆC GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ......................... 79 4.1. Sáng lập báo Giải phóng – Cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Bắc Kỳ .. 79 4.2. Giáo dục chính trị, tƣ tƣởng trong nhà tù Hỏa Lò ............................ 83 4.3. Một số nhận xét từ sự nghiệp cách mạng của Hoàng Văn Thụ ......... 89 Tiểu kết chƣơng 4 .......................................................................................... 94 KẾT LUẬN .................................................................................................... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 103
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tên tuổi và sự nghiệp của Hoàng Văn Thụ đã trở nên bất tử trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Hoàng Văn Thụ một người con ưu tú của Xứ Lạng, của cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hoàng Văn Thụ là một trong những chiến sĩ cộng sản hàng đầu Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Cuộc đời hoạt động cách mạng của ông gắn liền với giai đoạn lịch sử khó khăn nhất của cách mạng Việt Nam, từ ngày đầu thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cho tới những năm tháng sôi động của thời kỳ tiền khởi nghĩa chuẩn bị giành chính quyền về tay nhân dân. Thời trẻ, Hoàng Văn Thụ đã sớm có chí đấu tranh chống Pháp, giải phóng dân tộc. Mặc dù gia đình có đủ điều kiện cho học cao hơn để kiếm danh lợi trong xã hội thuộc địa lúc đó, nhưng Hoàng Văn Thụ từ bỏ tất cả, sẵn sàng chấp nhận gian khổ hy sinh, quyết tâm theo đuổi chí hướng của mình. Ông là người có công lao to lớn trong việc khôi phục phong trào cách mạng, xây dựng cơ sở quần chúng cách mạng và yêu nước trong cộng đồng người Việt Nam tại vùng biên giới phía Nam Trung Quốc, trong đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, rộng hơn là cho dân tộc Việt Nam. Với sự hoạt động nỗ lực, đầy trách nhiệm của một cán bộ lãnh đạo Đảng, Hoàng Văn Thụ đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng, phát triển chi bộ Đảng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên; giữ vững, củng cố và xây dựng được nhiều cơ sở Đảng ở Hà Nội, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Hải Dương... Sự phát triển vững chắc của các cơ sở Đảng, các Đảng bộ đó đã đóng vai trò nòng cốt cho việc mở rộng phát triển phong trào cách mạng trên một địa bàn khá rộng lớn. Hoạt động rộng khắp của Hoàng Văn Thụ trên nhiều địa bàn, ngoài nước, trong nước, miền núi, đồng bằng, thành 1
- phố, trong hầm mỏ, nhà máy... đã thể hiện quan điểm cách mạng toàn diện của một cán bộ lãnh đạo có tầm nhìn xa, hiểu rộng. Với tư chất của một cán bộ lãnh đạo năng động, sáng tạo, trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và nhiệt thành của mình, Hoàng Văn Thụ đã có những đóng góp quan trọng, có tính chất quyết định tới thắng lợi của đường lối lãnh đạo của Đảng, Ông đã có công lớn trong việc đề xuất sáng lập báo “Giải phóng”, tham gia viết bài cho báo "Cờ giải phóng" và "Tạp chí cộng sản". Những bài viết, dịch của ông về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, về phong trào cộng sản, công nhân quốc tế đã góp phần phổ biến, giác ngộ tinh thần cách mạng vô sản cho đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng. Phương pháp, nguyên tắc hoạt động bí mật đầy hiệu quả do Hoàng Văn Thụ xây dựng đã giúp cho Đảng ta có được nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích trong quá trình vận động, tổ chức phong trào quần chúng rộng khắp trong cả nước. Những hoạt động của Hoàng Văn Thụ trên cương vị là uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng đặc trách công tác công vận và binh vận của Đảng đã góp phần thức tỉnh và lôi cuốn được nhiều binh lính, sĩ quan yêu nước người Việt nam trong quân đội Pháp ở thuộc địa, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến tới nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945. Bước đường hoạt động của người chiến sĩ cộng sản Hoàng Văn Thụ đã để lại cho thế hệ cách mạng đời sau tấm gương sáng chói về một người cộng sản đầy ý chí, nghị lực, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, thường xuyên tự trau dồi, rèn luyện để không ngừng trưởng thành. Từ một thanh niên học sinh yêu nước khi tham gia hoạt động cách mạng mới chỉ có ít vốn chữ Nho học ở trường làng và tiếng Pháp học ở trường tiểu học Pháp - Việt Lạng Sơn, khi trở thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, bằng việc tự học tập, rèn luyện Hoàng Văn Thụ đã có một trình độ lý luận cao, tầm hiểu 2
- biết rộng và sâu sắc về thực tiễn. Ông vừa làm một nhà chiến lược tài ba, vừa là một dịch giả tiếng Trung Quốc, vừa là người viết báo sắc bén. Những hoạt động sáng tạo của Hoàng Văn Thụ trên nhiều phương diện đã bộc lộ khả năng tiềm tàng của trí tuệ, của trình độ lý luận, kiến thức khoa học đã được rèn luyện nghiên cứu, học tập qua nhiều năm gian khổ phấn đấu. Suốt cuộc đời hy sinh vì độc lập dân tộc, vì lý tưởng cách mạng cao đẹp, Hoàng Văn Thụ đã nêu tấm gương kiên trung, bất khuất của một người cộng sản gang thép, hiên ngang trước kẻ thù, nhưng cũng đầy tình thương yêu đối với đồng chí, đồng bào. Ông bị bắt, bị tù đày và kết án tử hình khi vừa mới 35 tuổi đời. Cuộc đời cách mạng của Hoàng Văn Thụ thật oanh liệt, những cương vị mà ông đảm trách đều gắn liền với thời kỳ cam go, gian khổ của cách mạng Việt Nam. Ông là một lãnh tụ người dân tộc thiểu số sớm có một vị trí cao trong Đảng, một trong những nhà lãnh đạo gắn bó mật thiết với dân. Việc tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng Văn Thụ để làm sáng tỏ cuộc đời – sự nghiệp, công lao, cống hiến của Hoàng Văn Thụ đối với việc phát triển lực lượng cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1928-1943 là một công việc thiết thực, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ mai sau. Vì những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944) ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Từ trước đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu vê cuộc đời và hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ. Tuy nhiên nguồn tư liệu về Hoàng Văn Thụ một số đã thất lạc và phân tán ở nhiều nơi, nên việc tập hợp, thu thập tài liệu mặc dù đạt được kết quả khả quan, đã thu thập được 3
- nhiều tài liệu có giá trị, song vẫn chưa đầy đủ. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu nhất có thể kể đến như: Cuốn “Hoàng Văn Thụ - Tên anh sáng mãi” của Hội Văn học nghệ thuật Lạng Sơn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009. Đây là công trình toàn diện, công phu nhất viết về Hoàng Văn Thụ với gần 600 trang viết. Công trình là kết quả tập hợp những tư liệu, tác phẩm viết về thân thế, sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ cộng sản Hoàng Văn Thụ và những sáng tác văn học viết về ông. Cuốn “Hoàng Văn Thụ - Người chiến sĩ cộng sản gang thép” của Ban Chấp hành tỉnh Hà Đông, Ban Nghiên cứ lịch sử Đảng, 1964. Tác phẩm đã đề cập đến những bài viết về cuộc đời chiến đấu của Hoàng Văn Thụ, những ngày cuối cùng, bài thơ cuối cùng của Hoàng Văn Thụ; những mẩu chuyện về Hoàng Văn Thụ với công tác tuyên truyền vận động phụ nữ. Tác phẩm này cung cấp được phần nào những hoạt động Hoàng Văn Thụ trong những năm tháng cách mạng. Cuốn “Hoàng Văn Thụ người chiến sĩ cộng sản kiên trung bất khuất” do Trương Thanh Sơn chủ biên, Ban Tuyên giáo tỉnh Lạng Sơn xuất bản năm 1994. Tác phẩm đề cập một cách khá cụ thể về tiểu sử, quá trình hoạt động cách mạng, vai trò lãnh đạo của Hoàng Văn Thụ trong việc xây dựng, phát triển phong trào cách mạng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên trong những năm 1930-1945. Cuốn “Những ngày cuối cùng của anh Hoàng Văn Thụ” của Trần Đăng Ninh và Trần Độ, do Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội xuất bản năm 1964. Đây là cuốn hồi ký cách mạng của 2 đồng chí Trần Đăng Ninh và Trần Độ kể về những ngày tháng cuối cùng của đồng chí Hoàng Văn Thụ. Đây là tác phẩm cung cấp rõ nhất, chân thực nhất về những hoạt động của Hoàng Văn Thụ khi ông bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Hỏa Lò. 4
- Cuốn “Gương chiến đấu của những người cộng sản” do Phan Quang chủ biên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1965. Cuốn sách này cung cấp một cách khái quát quá trình tham gia và hoạt động cách mạng của một số người con ưu tú của Đảng, trong đó có Hoàng Văn Thụ. Cuốn “Những người cộng sản trẻ tuổi” do Đức Vượng và Nguyễn Đình Nhơn chủ biên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2003; giới thiệu về những người cộng sản trẻ đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh một cách oanh liệt như Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Đức Cảnh... Trong tác phẩm này cũng đề cập một cách khái quát về cuộc đời và những hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ. Ngoài ra còn có một số bài báo, bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí như Tạp chí Văn hóa, Toàn cảnh sự kiện... cũng đề cập ít nhiều đến các khía cạnh nhỏ trong cuộc đời hoạt động của Hoàng Văn Thụ. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu đã đề cập đến cuộc đời và những hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ trong giai đoạn 1928-1944 với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, do mục đích, nhiệm vụ khác nhau, vì vậy cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng trong thời kỳ 1928-1944, từ đó rút ra được vai trò của ông trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu về Hoàng Văn Thụ với việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam để: - Làm rõ cuộc đời và con đường hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ. 5
- - Đánh giá vai trò và những đóng góp của Hoàng Văn Thụ đối với viêc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam (1928-1944) trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống được các tư liệu nghiên cứu về Hoàng Văn Thụ - Làm rõ được đóng góp của Hoàng Văn Thụ trong xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam giai đoạn 1928-1944. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài chủ yếu nghiên cứu về vai trò của Hoàng Văn Thụ trong việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1928 – 1944. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Con người và những hoạt động cách mạng của Hoàng Văn Thụ từ khi giác ngộ cách mạng cho đến khi hy sinh 1944. Đồng thời nghiên cứu những đóng góp của Hoàng Văn Thụ trong việc xây dựng lực lượng cách mạng Việt Nam trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám 1945. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quần chúng nhân dân và vĩ nhân trong lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này, tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và logic là chính. Ngoài ra, tôi còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ quan trọng khác như điền dã, phân tích, tổng hợp, và so sánh. 6. Đóng góp của luận văn 6
- - Làm rõ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hoàng Văn Thụ trong phong trào cách mạng Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. - Làm rõ được những đóng góp của Hoàng Văn Thụ trong xây dựng lực lượng cách mạng ở Việt Nam trong giai đoạn 1928-1944. - Luận văn là một tài liệu tham khảo bổ ích để hiểu thêm thông tin về lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, và lịch sử Lạng Sơn. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 4 chương như sau: Chương 1: Quê hương, gia đình và những hoạt động yêu nước đầu tiên của Hoàng Văn Thụ Chương 2: Hoàng Văn Thụ xây dựng cơ sở, lực lượng vũ trang cách mạng ở vùng Cao – Bắc – Lạng Chương 3: Hoàng Văn Thụ với sự chuyển hướng cách mạng, xây dựng An toàn khu và Mặt trận Việt Minh trong thời kỳ 1939-1945 Chương 4: Hoàng Văn Thụ với việc giáo dục tư tưởng cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. 7
- Chƣơng 1 QUÊ HƢƠNG, GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU NƢỚC ĐẦU TIÊN CỦA HOÀNG VĂN THỤ 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam, sau đó từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến Việt Nam từ một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến. Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa. Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Những chính sách này đã làm cho nền văn hóa Việt xuất hiện những đặc điểm không thuần nhất, lai căng, trì trệ.... Tuy nhiên bên cạnh đó, những tinh hoa của nền văn hoá phương Tây cũng đã có những tác động tích cực đến văn hoá nước ta. Ở Việt Nam đã xuất hiện các trào lưu văn hoá có sự giao thoa giữa Á - Âu, Đông - Tây. Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. 8
- Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản dân tộc bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu, một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành 9
- quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam có bước chuyển biến mới, sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam – con đường cách mạng vô sản. Cũng vào thời gian này, ảnh hưởng của phong trào cách mạng dân chủ tư sản của Tôn Trung Sơn, của phong trào Ngũ Tứ ở Trung Quốc, đặc biệt ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã lan tỏa đến Việt Nam. Một số thanh niên yêu nước như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong... xuất dương sang Quảng Châu, tiếp thu tư tưởng mới của thời đại, lập ra các tổ chức cách mạng theo xu hướng Mác xít. Từ năm 1925 khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời với những hoạt động của mình đã có ảnh hưởng lớn đến tư 10
- tưởng của tầng lớp thanh niên yêu nước trong đó có Hoàng Văn Thụ - một trong những vị lãnh tụ của phong trào cách mạng Việt Nam sau này. 1.2. Quê hƣơng và gia đình Hoàng Văn Thụ Hoàng Văn Thụ, người dân tộc Tày, tên khai sinh là Hoàng Ngọc Thụ (có bí danh Lý, Giáo), sinh ngày 04-11-19091 (tức ngày 22-09 năm Kỷ Dậu) tại thôn Phạc Lạn, tổng Nhân Lý, châu Văn Uyên, nay là thôn Phạc Lạn, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Trong lịch sử hình thành xứ Lạng, từ khi thành lập nước Văn Lang, Lạng Sơn thuộc bộ Lục Hải. Thời Bắc thuộc, Lạng Sơn thuộc quận Giao Chỉ, sau đó là quận Giao Châu. Sang đến thời Lý, Lạng Sơn có tên là lộ Lạng Giang. Đầu thời Trần, Lạng Sơn được gọi là lộ Lạng Châu, sau đổi là trấn Lạng Giang, đến năm 1397, trấn Lạng Giang được đổi thành trấn Lạng Sơn. Trải qua bao biến cố lịch sử có nhiều tên gọi khác nhau, như Lạng Sơn trấn, Lạng Sơn phủ, Lạng Sơn xứ. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831) đặt thành tỉnh Lạng Sơn. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954), Lạng Sơn trở thành một trong 6 tỉnh của căn cứ địa Việt Bắc. Năm 1956, Khu tự trị Việt Bắc được thành lập bao gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Năm 1975, Lạng Sơn sáp nhập với tỉnh Cao Bằng thành tỉnh Cao Lạng. Đến năm 1978, hai tỉnh tách ra thành Lạng Sơn và Cao Bằng. Hiện nay, tỉnh Lạng Sơn có diện tích là 8.187,25 km2, số dân là 851.200 người (theo số liệu thống kê năm 2013), mật độ 90 người/km2 và gồm 1 thành phố, 10 huyện, 14 thị trấn và 226 xã phường, là một trong những tỉnh có đường biên giới giáp Trung Quốc dài nhất [6, tr. 9]. 1 Trong một số sách đã xuất bản viết về tiểu sử của Hoàng Văn Thụ đều nói là sinh năm 1906, như sách “Những người cộng sản” của Đức Vượng và Trần Đình Nhơn, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000. Nhưng theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lạng Sơn (nhân kỷ niệm 85 ngày sinh Hoàng Văn Thụ) đã khẳng định là năm 1909 theo nguồn Gia phả họ Hoàng (bản chữ Hán), lưu tại gia đình Hoàng Văn Thụ, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh. 11
- Trong lịch sử Việt Nam, Lạng Sơn luôn luôn được xác định là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, là cánh cửa chính ở phía Bắc che chở cho trung tâm đồng bằng và trái tim cả nước. Lạng Sơn là chiếc cầu nối liền giữa vùng núi với vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ với biên giới Việt – Trung, là nơi có những yếu tố thuận lợi cho các cuộc chiến tranh du kích. Với vị trí địa lý vô cùng quan trọng, là tỉnh có cửa khẩu chính ngạch trong giao lưu đường bộ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, có hệ thống đường giao thông thuận tiện cho công thương hàng hóa (ngày nay Lạng Sơn chỉ cách thủ đô Hà Nội 154km theo đường Quốc lộ 1A). Từ xa xưa, Lạng Sơn đã luôn là thủ phủ của vùng biên ải phía Bắc nước ta. Dọc theo tuyến biên giới trải dài 253 km, tiếp giáp với tỉnh Quảng Tây thuộc vùng cực Nam của nước Trung Hoa rộng lớn, ngay từ thời Tần – Hán, các triều đại phương Bắc đã thường xuyên đem quân lấn chiếm các quốc gia phương Nam theo con đường Thiên lý qua Mục Nam quan (nay là Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị) của Lạng Sơn. Thời kỳ Bắc thuộc và phong kiến tự chủ, Lạng Sơn là nơi in đậm dấu ấn các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước. Đây là trọng điểm của con đường kinh lý mà các Đoàn sứ bộ của các triều đại phong kiến nước ta đi sang Trung Quốc và cũng là nơi tiếp đón các Đoàn sứ giả của Trung Quốc vào Việt Nam. Chính vì vậy mảnh đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện thăng trầm của lịch sử ngoại giao nước ta. Sau khi đánh chiếm miền Bắc nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách bình định và cai trị. Ở Lạng Sơn, chúng xây dựng bộ máy cai trị từ tỉnh đến tận thôn bản, dung túng cho các lực lượng thổ phỉ, thổ ty, địa chủ phong kiến và dựa vào lực lượng này để thống trị nhân dân. Một trong nhũng thủ đoạn thâm độc nhất của thực dân Pháp về mặt chính trị là thi hành chính sách “chia để trị”, chia rẽ dân tộc nhằm làm suy yếu sức mạnh đoàn kết vốn có của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, gây thù hằn giữa các dân tộc đa số với các dân tộc thiểu số. Thực dân Pháp xúi giục người Mán (Dao) giết người Kinh 12
- để lấy muối, giết người Tày để lấy ruộng cày. Ban hành cái gọi là “Chế độ ngoại kiều” và thi hành một số chính sách đối xử riêng rẽ giữa người Việt với người Hoa nhằm kích động chủ nghĩa dân tộc, phá vỡ mối quan hệ vốn có của nhân dân hai nước Việt – Trung. Ngày 6-8-1891, Toàn quyền Đông Dương De Lanessan cho rằng: Việc bình định xứ Bắc Kỳ chỉ có thể thực hiện được, nếu quyền hành chính và quân sự đều được tập trung trong tay một người, nên đã ra nghị định thành lập 4 đạo quan binh [13, tr. 126]. Lạng Sơn nằm trong đạo quan binh thứ hai và là trụ sở của đạo quan binh thứ hai. Tại thị xã Lạng Sơn và ở các châu, huyện, thực dân Pháp xây dựng các đồn binh (lính chính quy) và các đồn bảo an (đồn lính khố xanh). Đứng đầu đồn binh là một sĩ quan người Pháp. Hệ thống đồn binh ở Lạng Sơn được xây dựng dày đặc và kiên cố. Riêng thị xã Lạng Sơn thực dân Pháp đã bố trí tiểu đoàn lính khố đỏ, pháo thủ và một đại đội lính khố xanh đóng giữ, xây dựng các pháo đài ở các núi cao như Đèo Giang – Văn Vỉ để khống chế thị xã. Trên con đường số 4 – con đường độc đạo duy nhất từ Lạng Sơn đi Cao Bằng và từ Lạng Sơn đi Quảng Yên, thực dân Pháp xây dựng ở Thất Khê 12 đồn, Thoát Lãng, Ôn Châu, Lộc Bình, Cao Lộc, Bình Gia, Điềm He và các vùng xung quanh thị xã đều có ít nhất 6 đồn và trại lính [6, tr. 10]. Để các đồn bốt vận hành có hiệu quả, thực dân Pháp tăng cường bắt lính, xây dựng lực lượng lính dõng địa phương. Lực lượng này có nhiệm vụ hỗ trợ cho bọn quan binh trong những cuộc bắt phu, bắt lính, ép sưu thuế và đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân. Chính sách cai trị của thực dân Pháp làm cho tình hình xã hội Lạng Sơn có nhiều biến động sâu sắc. Ngoài những giai tầng và những mâu thuẫn cơ bản vốn có, trong xã hội còn xuất hiện những giai tầng mới, những mâu thuẫn xã hội mới, trong mối quan hệ phức tạp, đa dạng đã hình thành nên những thái độ chính trị khác nhau. Nhưng nhìn chung, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn 13
- chỉ có một con đường chung nhất để giải phóng quê hương và giải phóng mình là cùng nhất tề đứng lên đánh đổ thực dân, phong kiến và bè lũ tay sai. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Lạng Sơn là địa bàn cơ động về chiến lược, là nơi dụng binh lợi hại. Vì vậy ngay từ buổi đầu thực dân Pháp xâm lược đã có những cuộc nổi dậy, những cuộc khởi nghĩa của nhân dân các dân tộc Lạng Sơn diễn ra. Lạng Sơn cũng là nơi có địa thế thuận lợi cho việc gây dựng cơ sở cách mạng, xây dựng phát triển lực lượng, phát động chiến tranh du kích, phối hợp hành động tác chiến, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể rút lui để bảo toàn lực lượng. Thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quân sự, việc di chuyển từ địa bàn này sang địa bàn khác vừa mau lẹ, vừa đảm bảo bí mật, an toàn, vừa giữ vững lực lượng thông tin liên lạc giữa các vùng trong tỉnh và giữa Lạng Sơn với Xứ ủy Bắc Kỳ. Mặt khác, tất cả những diễn biến về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội ở Hà Nội và các tỉnh đồng bằng, trung du đều có tác động mạnh mẽ tới phong trào cách mạng ở Lạng Sơn. Ngược lại cũng tạo điều kiện cho Lạng Sơn hỗ trợ hợp đồng tác chiến với các địa phương khác những khi gặp khó khăn. Có thể nói rằng, với vị thế đặc biệt của mình, lịch sử dựng nước và giữ nước của quân dân Việt Nam gắn liền với các chiến tích hào hùng của quân và dân Lạng Sơn. Vùng đất địa đầu biên giới này đã viết nên những trang vàng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Những địa danh cho đến nay vẫn luôn là niềm tự hào trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước và giải phóng dân tộc như: Ải Chi Lăng, Mục Nam Quan, Bắc Sơn, Chiến dịch Biên giới, Đường số 4 rực lửa làm kinh hoàng đội quân viễn chinh Pháp. Cùng với những trang sử chống xâm lược oanh liệt, qua quá trình hình thành và phát triển, vùng đất Lạng Sơn đã xây dựng nên bề dày truyền thống văn hóa. Việc phát hiện những di chỉ, di vật, hiện vật cổ ở vòm đá Thẩm 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 177 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 202 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 147 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 168 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 150 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 199 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 175 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 18 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn