intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Người Hoa ở Đồng Nai 1954 - 2005

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:125

124
lượt xem
45
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Người Hoa ở Đồng Nai 1954 - 2005 sau đây bao gồ những nội dung về quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005; hoạt động kinh tế và tổ chức xã hội của người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005;... Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Người Hoa ở Đồng Nai 1954 - 2005

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Trịnh Thị Mai Linh NGƯỜI HOA Ở ĐỒNG NAI 1954 - 2005 Chuyên ngành: Lịch Sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ. LÊ HUỲNH HOA Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
  2. LỜI CẢM ƠN Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn: - Tiến sĩ Lê Huỳnh Hoa, khoa Sử trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, đã tận tình hướng dẫn khoa học trong suốt quá trình tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu. - Quý Thầy cô khoa Sử, Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy và trang bị cho tác giả những kiến thức sâu sắc. - Phòng Sau Đại học trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Viện khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Đồng Nai đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. - Ban Quản trị Hội quán (cơ sở tín ngưỡng) tại các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cung cấp cho tác giả luận văn những thông tin phong phú và dịch những tư liệu chữ Hán tại đây, giúp tác giả hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người Hoa đến Đồng Nai ngay từ buổi đầu mở mang khai phá vùng đất này. Trong quá trình lịch sử hơn 300 năm, cùng với lưu dân người Việt, cộng đồng người Hoa đã có nhiều đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội của tỉnh Đồng Nai. Ở Việt Nam, người Hoa có mặt ở hầu hết các tỉnh, thành nước ta, nhưng đông nhất là ở TP. Hồ Chí Minh (49,71%), kế đến là Đồng Nai (11,81%). Tại tỉnh Đồng Nai, người Hoa là tộc người có số dân chiếm tỷ lệ cao thứ hai, sau người Kinh (Việt) từ 5% đến 5,34%. Hiện nay, người Hoa là công dân nước Việt Nam, là một lực lượng kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai. Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai, nhằm cung cấp những hiểu biết toàn diện về một cộng đồng dân tộc có lịch sử hơn 300 năm ở đất Đồng Nai, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định những chính sách kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai hiện nay và sau này là việc làm cần thiết và không thể thiếu được. Đề tài tiếp cận nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai dưới nhiều góc độ: lịch sử di dân, hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội với mục đích có được một cái nhìn toàn diện về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai, nhất là ở những giai đoạn lịch sử thăng trầm. Và dù ở giai đoạn lịch sử nào, dù sống dưới chế độ xã hội nào, người Hoa ở Đồng Nai luôn tích cực, chủ động, sống hoà nhập với cộng đồng. Đồng thời, thể hiện bản lĩnh cũng như những nét đặc thù của dân tộc mình trong quá trình cộng cư cùng những dân tộc khác ở Đồng Nai, cũng như ở Việt Nam. Qua đó, cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai được nhận diện, ta thấy sự khác biệt cơ bản giữa cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai với cộng đồng người Hoa ở một số nơi như: thành phố Hồ Chí Minh, Sóc Trăng… Vì vậy, đề tài “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005” góp phần thiết thực vào việc hình thành những hiểu biết khoa học về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai một cách khá toàn diện, góp phần làm phong phú lịch sử vùng đất Đồng Nai với lịch sử hơn 300 năm. Xuất phát từ những vấn đề có tính khoa học và thực tiễn, tác giả đã chọn: “Người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn 1954 - 2005” làm đề tài tốt nghiệp Sau đại học. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1 Đối tượng nghiên cứu Theo Chỉ thị số 62-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 8-11-1995 “Về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới”, xác định “Người Hoa bao gồm những người gốc Hán và những người thuộc dân tộc ít người ở Trung Quốc đã Hán hóa di cư sang Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng vẫn còn giữ những đặc trưng văn hóa, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục tập quán của người dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa”. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005” là toàn bộ hoạt động của người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn 1954 – 2005.
  4. Đề tài tập trung tìm hiểu quá trình di dân của người Hoa đến đất Đồng Nai, hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hoá, xã hội trong khoảng thời gian 1954 – 2005. Đề tài nhằm phát hiện nét đặc thù của cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai. Người Hoa ở Đồng Nai vừa sống ở nông thôn, vừa sống ở thành thị, đề tài tiếp cận nghiên cứu cả hai nhóm cư dân này. Với lịch sử hơn 300 năm, mọi hoạt động của cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai luôn diễn ra một cách tích cực, chủ động, sáng tạo và đã đem lại những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội của tỉnh Đồng Nai. 2.2 Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: + Tỉnh Biên Hòa (1954 – 1975) + Tỉnh Đồng Nai (1975 – 2005) - Về thời gian: Đề tài chọn nghiên cứu về người Hoa ở Đồng Nai, giai đoạn 1954 – 2005, vì người Hoa ở Đồng Nai sinh sống và hoạt động trong khoảng thời gian nói trên dưới hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau: + Giai đoạn 1955 – 1975: Chế độ chính trị - xã hội Việt Nam Cộng Hòa. + Giai đoạn 1975 – 2005: Chế độ chính trị - xã hội Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tác giả chọn khoảng thời gian trên, để thấy được bản lĩnh trong hoạt động kinh tế, nét đặc sắc trong hoạt động văn hoá của tộc người Hoa, cùng quá trình hình thành cộng đồng tộc người trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Về ý nghĩa khoa học, luận văn “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005” góp phần cung cấp những hiểu biết toàn diện, khoa học về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai, từ quá trình hình thành tộc người đến hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hóa – xã hội từ 1954 đến 2005. - Về ý nghĩa thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần ứng dụng cho các ban ngành, Mặt trận tổ quốc tỉnh Đồng Nai có một cái nhìn khoa học, toàn diện và xuyên suốt theo dòng lịch sử về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai. Từ đó, góp phần hoạch định chính sách dân tộc toàn diện; đồng thời luận văn còn có giá trị tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về vấn đề dân tộc trong các Viện nghiên cứu và các trường Đại học, Cao đẳng, THPT... 4. Tình hình nhiên cứu Đề tài người Hoa ở Việt Nam từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Trong từng công trình, cộng đồng người Hoa được đề cập trên nhiều lĩnh vực khác nhau. 4.1 Tình hình nghiên cứu trong nước: Đầu thế kỷ XIX, xã hội người Hoa ở Đồng Nai được tác giả Trịnh Hoài Đức giới thiệu trong bộ “Gia Định Thành thông chí” với nội dung đề cập đến sự di dân của người Hoa và việc hình thành cảng thị Cù Lao Phố ở Biên Hoà cuối thế kỷ XVII (Bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn Hoá Phủ
  5. Quốc vụ khanh xuất bản năm 1972), đồng thời cũng đề cập đến các phong tục - tập quán, sinh hoạt văn hoá vật chất và tinh thần cùng với các cơ sở tín ngưỡng của người Hoa ở Đồng Nai – Gia Định một cách khái quát. Cũng bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, năm 1973, bộ “Đại Nam nhất thống chí: Lục tỉnh Nam Việt” cũng nói đến lịch sử di dân của người Hoa vào vùng đất Đồng Nai và Nam Bộ cùng với sinh hoạt kinh tế, văn hoá của người Hoa ở vùng đất mới này. Năm 1880, trong Báo cáo của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ có nói đến các thương điếm của người Hoa ở Nam Kỳ và khu vực Sài Gòn. Năm 1924, tác giả Đào Trịnh Nhất đã công bố công trình “Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ”, tác phẩm đề cập đến hoạt động kinh tế của người Hoa ở miền Nam vào đầu thế kỷ XX. Tác giả Khương Hữu Điễu trên tạp chí “Cấp tiến” ở Sài Gòn ra năm 1970 đã có bài “Người Việt gốc Hoa và nền kinh tế Việt Nam”, bài viết đã phân tích vai trò của người Hoa trong hoạt động kinh tế ở miền Nam nói chung cũng như ở khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn. Những công trình trên, bước đầu đi sâu đề cập đến một số hoạt động kinh tế của người Hoa, có nhiều tư liệu quý giá để tác giả luận văn tham khảo. Từ sau năm 1975, việc nghiên cứu người Hoa, trong đó có các hoạt động kinh tế không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn là một nhu cầu thực tiễn, nhằm góp phần hoạch định một chính sách kinh tế toàn diện, trong đó có đóng góp của người Hoa. Nghiên cứu về hoạt động kinh tế của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975 đến nay đã có nhiều công trình được công bố. Năm 1987, tác giả Trần Khánh đã bảo vệ Luận án Phó Tiến sĩ “Những khuynh hướng cơ bản phát triển xã hội và chính trị tộc người cộng đồng người Hoa ở Việt Nam”(từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945 ở miền Bắc và đến năm 1975 ở miền Nam). Năm 1989, Viện Khoa Học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh và Ban công tác người Hoa đã hợp tác nghiên cứu chương trình “Những biến đổi kinh tế - xã hội của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975”. Từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay, ngày càng có nhiều nhà khoa học chú ý tới lĩnh vực văn hoá tinh thần, đặc biệt là tín ngưỡng, văn hoá, tôn giáo của người Hoa, tiêu biểu là tác phẩm của các tác giả: Phan An, Trần Hồng Liên, Phan Thị Yến Tuyết, Phan Ngọc Nghĩa, xuất bản 1990, với tiêu đề “Chùa Hoa thành phố Hồ Chí Minh”, tác phẩm trình bày chi tiết về quá trình hình thành các cơ sở tín nguỡng – tôn giáo của người Hoa cùng với mô thức kiến trúc, nghệ thuật trang trí, điêu khắc, thờ tự và sinh hoạt lễ hội ở các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo này. Công trình “Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, xuất bản năm 1990. Công trình này đã miêu tả phần văn hoá tinh thần của các dân tộc, trong đó có người Hoa ở Nam Bộ với những nội dung đề cập đến hệ thống thờ tự của người Hoa trong gia đình cũng như ở các cơ sở tín ngưỡng dân gian. Cũng trong năm này, một nhóm nghiên cứu dưới sự chủ biên của tác giả Phan An đã tiến hành công trình nghiên cứu “Người Hoa ở Quận 6”. Năm 1992, Viện Khoa học xã hội và Ban công tác người Hoa tiếp tục tập hợp nghiên cứu đề tài “Phát huy tiềm năng của người Hoa trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hồ Chí Minh”. Năm
  6. 1994, cuốn “Xã hội người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh sau 1975” do tác giả Mạc Đường chủ biên được xuất bản đã đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, từ tên gọi, địa bàn, phân bố dân cư, vị trí xã hội, kinh tế, văn hoá và nhấn mạnh vai trò tín ngưỡng - tôn giáo trong việc định hướng những chuẩn mực nhân cách của người Hoa. Luận án Phó tiến sĩ khoa học kinh tế của tác giả Trần Hồi Sinh với đề tài “Người Hoa trong nền kinh tế thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” cung cấp những hiểu biết thiết thực về hoạt động kinh tế của người Hoa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đặc điểm vai trò, và vị trí của người Hoa trong hoạt động kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh, đây là một tác phẩm nghiên cứu sâu về hoạt động kinh tế của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2000, Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản cuốn “Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ” do tác giả Nguyễn Cẩm Thuý chủ biên, đây là công trình nghiên cứu tổng thể về quá trình di dân, định cư và sinh hoạt của người Hoa trên đất Nam Bộ, có nhiều tư liệu quan trọng để tác giả tham khảo. Cũng Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2005, xuất bản cuốn“Người Hoa ở Nam Bộ” của tác giả Phan An, tác phẩm nghiên cứu một cách tổng quan về hoạt động của người Hoa ở Nam Bộ, chủ yếu là ở thành phố Hồ Chí Minh và ở Sóc Trăng. Tác phẩm đã cung cấp cho tác giả một định hướng nghiên cứu ban đầu để nghiên cứu về người Hoa ở Đồng Nai. Tình hình nghiên cứu ở Đồng Nai: Trước năm 1975, nhà nghiên cứu Lương Văn Lựu đã biên soạn bộ “Biên Hoà sử lược toàn biên” gồm 5 quyển (đã xuất bản 2 quyển), nội dung giới thiệu về vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai sau ba thế kỷ hình thành , đặc biệt tài liệu đánh máy (quyển 5) chưa xuất bản với nhan đề “300 năm người Việt gốc Hoa”, đây là một nguồn tài liệu quý hiếm viết về quá trình nhập cư và phát triển của cộng đồng người Hoa đến Biên Hoà – Đồng Nai trước năm 1954 (nhưng rất tiếc hiện nay đã bị thất lạc, tác giả luận văn không tiếp cận được). Năm 1998, Ban chỉ đạo Lễ kỉ niệm 300 năm vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai đã xuất bản cuốn “Biên Hoà – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển”, đây là công trình địa chí thu nhỏ, khái quát về sự hình thành và phát triển của vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai suốt 300 năm. Trong phần Văn hoá – xã hội, công trình đã giới thiệu về lịch sử di cư và sinh hoạt văn hoá – xã hội của người Hoa ở Đồng Nai từ năm 1679 (sự kiện Trần Thượng Xuyên cùng nhóm di thần nhà Minh từ Trung Quốc sang xin thần phục Nam triều được chúa Nguyễn cho vào khai khẩn vùng đất Đông phố - Biên Hoà còn hoang sơ) cho tới quá trình sinh hoạt văn hoá của cộng đồng người Hoa ở Biên Hoà hiện nay. Năm 2001, tỉnh Đồng Nai xuất bản bộ “Địa chí Đồng Nai” có 5 tập (tổng quan, địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hoá – xã hội), ở mỗi tập đều có nhắc đến đóng góp của người Hoa ở từng lĩnh vực cụ thể. Tác phẩm “Cù Lao Phố - lịch sử và văn hoá” do tập thế Nhà Bảo tàng Đồng Nai biên soạn, đuợc Nhà xuất bản Đồng Nai xuất bản năm 1998 cũng đề cập đến vai trò và vị trí của người Hoa trong buổi đầu xây dựng cảng thị Cù Lao Phố trở thành một trung tâm thương mại sầm uất một thời ở Nam Bộ. Năm 2002, tạp chí Xưa và Nay xuất bản sách “Miền Đông Nam Bộ lịch sử và phát triển” của nhiều tác giả, trong đó có bài “Tín ngưỡng của người Hoa ở Đồng Nai” của tác giả Huỳnh Văn Tới,
  7. nội dung của bài viết phần nhiều đề cập đến quá trình giao thoa văn hóa về tín ngưỡng giữa hai dân tộc Hoa và dân tộc Việt. Năm 2001 và 2002, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh Uỷ và Uỷ Ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Sở Văn hoá thông tin và Nhà Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành khảo sát cơ sở tín ngưỡng và lễ hội của người Hoa trên đại bàn tỉnh Đồng Nai. Kết quả của hai đợt khảo sát đã đuợc tổng kết trong công trình biên khảo “Khảo sát cơ sở tín ngưỡng và lễ hội của người Hoa ở Đồng Nai”. Năm 2005, Nhà xuất bản Đồng Nai xuất bản công trình “Văn hoá Đồng Nai (sơ thảo)” của hai tác giả Huỳnh Văn Tới và Phan Đình Dũng, đây là tập hợp những chuyên khảo về văn hoá dân gian ở Đồng Nai, trong đó có một vài chuyên khảo về người Hoa. Gần đây, tháng 5/2008, Ban Dân vận Tỉnh Ủy Đồng Nai vừa công bố công trình nghiên cứu “Người Hoa trong cộng đồng các dân tộc ở Đồng Nai”. Đây là công trình duy nhất ở Đồng Nai nghiên cứu về người Hoa một cách khá toàn diện, nhưng đề tài này mới chỉ tập trung nghiên cứu giai đoạn từ 1995 đến 2005. Nhìn chung, tình hình nghiên cứu về người Hoa ở Đồng Nai một cách tổng quát chưa nhiều. Vì vậy, luận văn “Người Hoa ở Đồng Nai” góp phần nghiên cứu về cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai một cách toàn diện. Đây là một việc làm thiết thực, vừa mang ý nghĩa khoa học vừa mang ý nghĩa thực tiễn. Đó cũng là những cố gắng sẽ đuợc thể hiện trong nội dung luận văn “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005”. 4.2 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài: Một người Hoa ở Chợ Lớn, ông Tsai Mawkuey, đã bảo vệ luận án Tiến sĩ “Người Hoa ở miền Nam Việt Nam” tại Paris năm 1968. Đây là một công trình nghiên cứu về người Hoa ở miền Nam – tập trung ở Sài Gòn, có nhiều tư liệu đáng chú ý. Riêng về kinh tế của người Hoa, tác giả đã đưa ra một số thống kê từ Phòng thương mại Hoa kiều ở Chợ Lớn và các ngân hàng của người Hoa. Nghiên cứu về người Hoa một cách toàn diện có tác phẩm “Người Hoa tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huy, xuất bản tại Pari năm 1993, cung cấp một nguồn tư liệu về hoạt động của người Hoa tại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, nhất là các chính sách của chính quyền đối với người Hoa ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Cũng trong năm 1993, tại Singapore tác giả Trần Khánh đã xuất bản sách “Cộng đồng người Hoa với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam”. Trong công trình này, tác giả đã có sự hệ thống các số liệu kinh tế của người Hoa ở Sài Gòn trước năm 1975 và ở thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975. 5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu - Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu về người Hoa của các tác giả đi trước. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong việc nghiên cứu tổng quan về người Hoa ở Đồng Nai. Đồng thời việc nghiên cứu còn
  8. dựa trên những cơ sở, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về việc nghiên cứu dân tộc, trong đó có dân tộc Hoa. Để thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử, luận văn đặc biệt chú ý đến mọi mặt hoạt động và đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn 1954- 2005. - Phương pháp logích cũng được sử dụng khi luận văn rút ra những nét đặc trưng của người Hoa ở Đồng Nai, để từ đó thấy được sự đa dạng của người Hoa ở Nam Bộ. - Phương pháp điền dã cũng được thể hiện qua luận văn là sự quan sát trực tiếp hoạt động của những cơ sở kinh tế, nhà cửa, những tổ chức xã hội, những cơ sở tín ngưỡng, những lễ hội văn hoá tiêu biểu của người Hoa ở Đồng Nai. - Ngoài những phương pháp cơ bản kể trên, để có thể tiếp cận một cách tốt nhất. những vấn đề được nêu ra, tác giả luận văn còn sử dụng những phương pháp của những ngành khoa học liên quan như: xã hội học, dân số học, thống kê học....Ngoài ra các biện pháp kỹ thuật như: chụp ảnh, ghi âm, quay phim... cũng được tác giả sử dụng nhằm minh họa một số nội dung thiết yếu của luận văn. - Nguồn tài liệu Mục đích, nội dung và những vấn đề cần phải giải quyết của luận văn “Người Hoa ở Đồng Nai 1954 – 2005” đã đặt tác giả trước một công việc cụ thể nhưng phức tạp. Đó là việc thu thập, chọn lọc và hệ thống tài liệu. + Ở nguồn tài liệu thư tịch: Luận văn sử dụng những tư liệu của các nhà nghiên cứu từ thế kỷ XIX đến tài liệu mới nhất là năm 2008, bao gồm các xuất bản phẩm chuyên khảo về người Hoa ở Việt Nam, ở miền Nam, ở Đồng Nai. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những bài nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học, Văn hoá dân gian, Văn hoá nghệ thuật, Xưa và Nay, và các trang web có nội dung liên quan đến đề tài. Đặc biệt, là nguồn tài liệu được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện khoa học tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện tỉnh Đồng Nai; Thư viện Bảo tàng Đồng Nai; Thư viện Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh những hệ thống tư liệu nghiên cứu, tác giả còn sử dụng một số văn bản về pháp lệnh tôn giáo, tín ngưỡng, các chỉ thị của Nhà nước, của Chính phủ, của Ban Dân vận Trung ương về công tác người Hoa lưu trữ tại Ban Tôn giáo tỉnh Đồng Nai, Mặt Trận tổ quốc Tỉnh Đồng Nai. Khi nghiên cứu người Hoa dưới chính quyền Sài Gòn ở miền Nam, tác giả đã sử dụng một số tư liệu về chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở Việt Nam, ở Đồng Nai, nhất là những tư liệu đề cập đến hoạt động kinh tế của người Hoa ở Đồng Nai giai đoạn 1954 – 1975. + Ở nguồn tài liệu thu thập qua điền dã dân tộc học, tác giả đã: Tiến hành khảo sát một số cơ sở sản xuất tiêu biểu của người Hoa ở Đồng Nai với những nghành nghề truyền thống còn được lưu giữ
  9. và phát huy thế mạnh ở thời hiện tại - khảo sát một số cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo tiêu biểu của người Hoa ở Đồng Nai từ buổi đầu khai phá cho đến nay. Ngoài ra, tác giả còn phỏng vấn, trao đổi về những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh tế, văn hoá tinh thần của một số gia đình và một số Hội quán của người Hoa ở Đồng Nai. Những đợt khảo sát đó, đã cho ra những cứ liệu tương đối xác thực nhằm nghiên cứu người Hoa ở Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay một cách toàn diện và chân thực.
  10. Chương 1 - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở ĐỒNG NAI 1954 – 2005. Vùng đất Đồng Nai thuộc về chúa Nguyễn năm 1620, khi Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái thứ hai là công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II (1618 – 1628). Nhà vua Chey Chetta II đã tặng Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên một phần lãnh thổ là vùng đất Đồng Nai làm quà cưới. Đồng Nai hiện nay có 36 cộng đồng tộc người cùng sinh sống. Trong đó người Kinh (Việt) chiếm 91,3% dân số, tiếp theo là người Hoa xếp thứ hai, kế đến là các cư dân bản địa như Châu Ro, Châu Mạ, Stiêng… Trên 90% người Hoa trong cả nước định cư ở Nam Bộ. Đông nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh (gần 50%) và kế đến là Đồng Nai (11,81%) Trước khi người Việt và người Hoa đến Đồng Nai, cư dân bản địa ở đây là người Khơme đã khai thác vùng đất này. Khi đến đây, người Việt và người Hoa tiếp tục công cuộc khai thác và cải tạo vùng đất “toàn là rừng rậm ấy” để có một Đồng Nai phồn thịnh và tươi đẹp như ngày hôm nay. Cùng với quá trình đó, là quá trình hình thành cộng đồng người Hoa trên ở đất Đồng Nai với lịch sử hơn 300 năm. 1.1 Chính sách của các chính quyền đối với người Hoa di cư đến Việt Nam Trước tình trạng di cư đông đảo của người Hoa đến Việt Nam, các chính quyền thống trị của Việt Nam trong lịch sử đã có những thái độ và chính sách khác nhau đối với người Hoa di cư đến Việt Nam. Những chính sách ấy đã tác động đến quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, trong đó có Đồng Nai. Đồng thời những chính sách ấy, cũng quyết định diễn trình kinh tế, diễn tiến văn hóa của cộng đồng người Hoa ở đất Đồng Nai nói riêng và Việt Nam nói chung. 1.1.1 Thời kỳ trước năm 1954 Năm 1679, nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đã xin phép chúa Nguyễn được tỵ nạn chính trị ở Việt Nam. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã tỏ ra rất thông cảm và đối xử với nhóm người Hoa này một cách rất tử tế: “...bèn khiến đặt yến tiệc đãi họ, an ủi, khen ngợi, cho các tướng lãnh y chức cũ, phong thêm quan tước mới, khiến vào ở đất Đông phố để mở mang đất ấy. Họ được các tướng Vân Trình, Văn Chiêu hướng dẫn; binh thuyền tướng sĩ Long Môn của Dương Ngạn Địch, tiến vào cửa Lôi Lạp, theo cửa Đại, cửa Tiểu, đến định cư ở Mỹ Tho, binh lính tướng sĩ Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình tiến vào cửa biển Cần Giờ rồi lên định cư ở xứ Bàn Lân, xứ Đồng Nai” [28, tr.110]. Đây là sự kiện đánh dấu sự có mặt đầu tiên của người Hoa ở đất Đồng Nai. Người Hoa được phép khai khẩn những vùng đất “màu mỡ, có đến ngàn dặm”, “ khai hoang đất ấy để ở” [28, tr.110]. Triều Nguyễn đã khuyến khích lưu dân người Hoa khai hoang, lập đất. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép:“Đất Nông Nại (…) phép tắc hãy còn khoan dung giản dị”. Ngay cả việc trưng thuế cũng “tùy thuộc lòng dân, không hề ràng buộc, cốt sao khiến dân khai hoang mở đất
  11. cho thành ruộng lập nên thôn xã mà thôi”. Nếu so với các dinh trấn phía Bắc thì phép tắc ở Đồng Nai – Gia Định “còn rất khoang dung mà thuế lệ cũng còn nhẹ” [28, tr.115]. Như vậy, người Hoa đến đất Đồng Nai được các chúa Nguyễn cho lưu trú và tạo điều kiện cho được định cư lâu dài ở vùng đất mới, nên người Hoa ở Đồng Nai, nhóm theo Trần Thượng Xuyên chịu ơn, chịu nghĩa các chúa Nguyễn. Vì thế, khi Hoàng Tiến tướng dưới quyền của Dương Ngạn Địch chống lại chúa Nguyễn thì người Hoa đã đi theo và ủng hộ chúa Nguyễn đánh bại Hoàng Tiến. Điều đó cho thấy sự biết ơn sâu sắc và lòng trung thành của họ đối với các chúa Nguyễn ở buổi đầu khi đến đất Đồng Nai. Họ sẵng sàng bảo vệ sự an nguy của các chúa Nguyễn mỗi khi có nguy biến, họ cũng sẵn sàng chấp nhận những mất mát và hy sinh để chứng tỏ lòng trung thành của mình. Vì thế, mà các chúa Nguyễn có những chính sách ưu ái để người Hoa ở Đồng Nai có thể an tâm lập nghiệp và định cư lâu dài ở đây. Những chính sách của các chúa Nguyễn đối với người Hoa thực chất là chính sách của chúa Nguyễn đối với công cuộc Nam tiến. Để hoàn thành công cuộc này chúa Nguyễn buộc phải có những chính sách để người Hoa yên tâm, tin tưởng vào chính quyền cai trị, và tất nhiên đến lượt mình họ tất sẽ trở thành lực lượng tích cực cho công cuộc đó. Nếu như dưới thời các chúa Nguyễn người Hoa được ưu đãi bao nhiêu, thì dưới thời Tây sơn, người Hoa lại bị thất sủng bấy nhiêu. Một trong những nguyên nhân giải thích cho sự thất sủng đó là do năm 1776, khi Nguyễn Lữ tiến quân vào Gia Định thì một thương nhân người Hoa tên là Lý Tài (trước theo Tây Sơn), đã đánh lại và gây thiệt hại cho quân Tây Sơn rất nhiều tại cầu Tham Lương. Nhưng cuối cùng đội quân của Lý Tài bị Nguyễn Lữ đánh bại. Sau đó, Nguyễn Lữ đã chiếm được thương cảng lớn nhất tại Cù Lao Phố là Nông Nại Đại Phố (Biên Hòa), tịch thu và chở hết những vật liệu kiến trúc quý của người Hoa (gạch ngói tráng men, cột đá cẩm thạch, bàn ghế xảm xà cừ) về Quy Nhơn. Từ đó mối quan hệ giữa Tây Sơn và người Hoa luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Người Hoa ở Đồng Nai đã chuyển về định cư tại Sài Côn (TPHCM) lập Chợ Lớn để tiếp tục buôn bán sau sự kiện này. Thế nhưng, sau khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây sơn, lập ra triều Nguyễn năm 1802, thì người Hoa lại dành được ưu thế. Các vua triều Nguyễn, đặc biệt là vua Gia Long, rất biết ơn cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung vì những cống hiến của họ đối với công cuộc xây dựng chính quyền của nhà Nguyễn. Để tỏ lòng biết ơn, năm 1787, Nguyễn Ánh cho thành lập bốn bang ngữ phương lớn gốc Hoa tại miền Nam, gồm các bang: Quảng Đông (廣東), Phúc Kiến (福建), Triều Châu (潮州), và Hải Nam (海南), để điều hành các vấn đề nội bộ trong cộng đồng người Hoa. Có thể nói, đây là lần đầu tiên, người Hoa ở hải ngoại được phép thành lập những tổ chức quản trị độc lập với nền hành chính của chính quyền địa phương. Bốn bang này đuợc hưởng nhiều đặc quyền trong sinh hoạt: thủ tục hành chính đơn giản, việc kiểm soát cư trú được bãi miễn, thuế khóa nhẹ
  12. nhàng. Sau này, theo yêu cầu của người Hoa, bốn bang này đã đuợc cải tổ lại thành bảy bang: Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu và Hải Nam. Bang chúng trong các bang này được hưởng mọi quyền lợi như người Việt, mà không phải chịu các nghĩa vụ như: đi lính và nộp các thứ thuế định kỳ. Điều này chỉ diễn ra dưới thời Gia Long, các triều vua tiếp sau đó đã không ưu đãi người Hoa như thời Gia Long nữa. Năm 1841, sau khi Gia Long mất, những khu tự trị của người Hoa ở Đồng Nai và miền Tây dần dần bị hủy bỏ. Đến năm 1843, thời Thiệu Trị, có lệnh không cho người Hoa trở về Trung Quốc. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ (1859 – 1862), Pháp đã dành cho người Hoa ở đây những quyền lợi ngang bằng hoặc hơn cả người Việt. Năm 1862, nhằm đánh thuế và kiểm tra sự di cư bất hợp pháp, chính quyền thuộc địa cho ban hành thuế thân và cho lưu hành thẻ kiểm tra đối với những người Hoa sinh sống tại Nam Kỳ. Năm 1867, chính quyền thuộc địa Pháp cho người Minh Hương (明香人 _明鄉人) những quyền như người Việt. Năm 1884, sau khi hoàn tất việc chiếm đóng Việt Nam và muốn giữ quan hệ ngoại giao tốt với Trung Hoa, chính quyền thuộc địa Pháp công nhận người Hoa sống tại Việt Nam là công dân của Trung Hoa. Ngày 9/6/1885, Pháp ký với Trung Hoa hiệp ước Thiên Tân lần thứ nhất xác nhận quy chế bình đẳng của Hoa kiều sống tại Việt Nam: được an toàn về tính mạng và tài sản, nhưng những người này phải có thẻ lưu trú và đóng thuế thân. Hiệp ước Thiên Tân ký lần thứ hai ngày 24/4/1886 cho phép người Hoa đi lại tự do và được thành lập những cơ sở kinh doanh trên khắp lãnh thổ Nam Kỳ. Tại Đồng Nai, thực dân Pháp có những chính sách tạo thuận lợi cho người Hoa nhập cư với mục đích kinh tế là chủ yếu, người Hoa đến Đồng Nai trong giai đoạn này chủ yếu bổ sung cho nguồn nhân lực làm việc ở các đồn điền cao su. Trong cùng thời điểm này Sài Gòn cũng là nơi thu hút người Hoa đến đông nhất với những chính sách ưu đãi của thực dân Pháp. Kể từ ngày 03/08/1900, Hội đồng Nam Kỳ đã quyết định miễn thuế cho người Hoa mới đến Nam Kỳ, khỏi phải nộp tiền đăng bạ trong năm đầu mới đến. Nhưng đến ngày 12/1/1907, Hoa kiều phải đóng các thứ thuế: - Thuế nhập cư (tân đáo): 6 đồng - Thuế thân cho người 18 tuổi trở lên: 15 đồng - Thuế công sưu: được miễn khi quá 35 tuổi - Phụ thu cho quản hạt: ít nhất bằng hai sắc thuế thân và nhập cư cộng lại; nếu có đóng thuế môn bài và ruộng đất thì cộng lại không quá 4.000 đồng. - Thuế huê lợi: để được cấp giấy thông hành khi mới đến hoặc ra đi: 2 đồng (trẻ em, phụ nữ và số đàn ông được miễn thuế thân). Thuế hêu lợi để được cấp giấy thông hành đi khắp Đông Dương (đối với nhà buôn giàu có là 15 đồng).
  13. Năm 1935, chánh tham biện Buy-ten-Mô-rít-xơ (Butel Maurice) liệt người Hoa thuộc diện ngoại kiều châu Á, đồng hóa với người Việt Nam, đàn ông phải nộp thuế thân hàng năm là 30 đồng và phụ thu 2 đồng. Ngày 28/2/1948, chính phủ Pháp và chính quyền Tưởng Giới Thạch kí thỏa ước Trùng Khánh dành cho Hoa kiều qui chế tối huệ quốc (最恵國槼制). Những sự kiện trên cho thấy dưới thời Pháp thuộc, người Hoa ở Việt Nam được chính quyền sở tại ưu đãi. Trên cơ sở đó, họ dần dần khẳng định chỗ đứng của mình trong lĩnh vực kinh tế, và trong xã hội Việt Nam. Như vậy, thời kỳ trước 1954, chính sách của các chính quyền đối với người Hoa ở Việt Nam là: Ở thời kỳ các chúa Nguyễn đã có những chính sách như: cho phép người Hoa được khai hoang những vùng đất trù phú ở Đồng Nai để định cư và lập nghiệp, chính sách này nằm trong chính sách Nam tiến của các chúa Nguyễn. Thời kỳ đầu nhà Nguyễn (Gia Long), lần đầu tiên 4 bang của người Hoa được thành lập, người Hoa sinh sống ở Việt Nam được hưởng mọi quyền lợi như người Việt, mà không phải chịu các nghĩa vụ như: đi lính, miễn thuế định kỳ. Nói chung, chế độ phong kiến Việt Nam đều có những thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho người Hoa di cư sang Việt Nam được an cư, lạc nghiệp và hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đến khi chính quyền thuộc địa Pháp cai trị: Người Hoa sinh sống tại Việt Nam được hưởng quy chế ngoại kiều (多橋槼制). 1.1.2 Thời kỳ 1954 – 1975 Sau hiệp định Giơnevơ (1954) người Hoa ở Việt Nam mất điểm tựa chính trị của chính quyền thuộc địa Pháp, chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1955 – 1975) không công nhận những đặc quyền mà chính quyền Pháp đã dành cho người Hoa sinh sống tại miền Nam. Theo nhận định của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ: “Người Hoa tuy phần lớn đã sống lâu đời ở Việt Nam, nhưng không vì thế mà không tổ chức nhau lại thành một cộng đồng riêng biệt, một khối chặt chẽ gồm 700.000 người tập trung chủ yếu ở Chợ Lớn, một Chinatown (thành phố Tàu) thực sự nằm lọt trong lòng thành phố Sài Gòn, có ban quản lí riêng, có trường học và bệnh viện riêng. Là những thương gia học lõi, nhiều người Hoa đứng làm trung gian giữa các công ty lớn của Pháp, rồi của Mĩ với dân chúng Việt Nam. Món lợi lộc dồi dào từ viện trợ Mĩ đã giúp các nhà kinh doanh Chợ Lớn xây dựng nhanh chóng nhiều xí nghiệp quan trọng và nắm giữ guồng máy chính yếu của nền kinh tế Sài Gòn, bằng cách liên kết với một số bộ trưởng và tướng lĩnh Sài Gòn” [74; tr. 493]. Nhận định trên cho thấy, thế lực kinh tế của người Hoa thời kỳ này là rất lớn. Vì ở đất Nam Bộ, người Hoa có mặt ngay từ buổi đầu khai phá, nên cơ sở hạ tầng cũng như quan hệ kinh tế của họ đã bén rễ từ lâu. Những đặc quyền, đặc lợi dưới thời Pháp thuộc đã làm cho thế lực kinh tế của người Hoa
  14. ở miền Nam nói chung phát triển khá thuận lợi. Một bộ phận doanh nhân gốc Hoa đã lớn mạnh lên rất nhiều, trong khi đó doanh nhân người Việt dưới thời Pháp thuộc thì hầu như vắng bóng. Vì vậy, chính quyền Sài Gòn (1954 – 1975), muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lệ thuộc kinh tế vào thế lực người Hoa ở miền Nam, nên chính quyền đã có những chính sách nhằm hạn chế ảnh hưởng kinh tế sâu rộng của người Hoa trong xã hội miền Nam. Ở tỉnh Biên Hòa, năm 1957, Hồ Văn Sĩ (tỉnh trưởng tỉnh Biên Hòa) cho áp dụng một loạt các dụ của chính quyền Sài Gòn về người Hoa như: Điều 12 trong Dụ số 10 quy định bộ luật về quốc tịch Việt Nam ngày 07/12/1955 ghi rõ: “con chính thức mà mẹ là người Việt Nam, và cha là người Trung Hoa, nếu sinh đẻ ở Việt Nam” thì là người Việt Nam. Như vậy, tất cả trẻ em gốc Hoa, kể cả con cái người Hoa kiều, đều là người Việt Nam. Thời hạn ấn định cho những Huê kiều sinh tại Việt Nam phải làm khai, để được cấp thẻ căn cước là ngày 08/04/1957, việc kiểm tra sẽ hoàn tất vào ngày 22/06/1957. Giới Huê kiều ở Biên Hòa không tỏ rõ thái độ trước việc ban hành Dụ số 12, đa số họ chờ đợi phản ứng trước từ Đô thành Sài Gòn về vấn đề nhập tịch (2/1957). Số Huê kiều đến xin nhập tịch ở Biên Hòa theo thống kê trong năm 1957, kể từ sau khi Dụ số 10 ban hành được 18 tháng như sau: Bảng1.1: Số Hoa kiều xin nhập tịch từ tháng 3/1957 đến 6/1957 Thời gian Số Hoa kiều xin nhập tịch 03/1957 35 người 04/1957 43 người 05/1957 675 người 06/1957 1.855 người (Nguồn: Trung tâm lưu trữ quốc gia II, TPHCM) Dụ số 48 ngày 21/8/1956: Điều 16 quy định: Hoa kiều thổ sanh (sinh trưởng tại Việt Nam) sẽ là người Việt Nam, bắt buộc phải nhập và khai nhận quốc tịch Việt Nam, hoặc xin hồi hương (về Đài Loan), trước ngày 31/8/1957. Năm 1957, có 44.947 Huê kiều thổ sanh đã ghi tên tình nguyện về Đài Loan, chính phủ Sài Gòn đã cấp cho những người hồi hương này 400.00 $ Việt Nam theo luật định. Dụ số 53 ngày 6/9/1956: Chỉ định những nghề nghiệp mà các ngoại kiều, hay các Hội xã, công ty ngoại quốc không được hoạt động (gồm 11 nghề) bao gồm: - Buôn bán cá và thịt; - Buôn bán chạp phô; - Buôn bán than củi; - Buôn bán xăng, dầu lửa và dầu nhớt (trừ các hãng nhập cảng); - Cầm đồ bình dân; - Buôn bán vải sồ, tơ lụa (dưới 10.000 thước tính chung các thứ), chỉ sợi,….;
  15. - Buôn bán sắt, đồng thau vụn; - Buôn bán ngũ cốc; - Nhà máy xay lúa; - Buôn bán ngũ cốc; - Chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng xe hơi, hay tàu thuyền; - Trung gian ăn huê hồng. Thể hiện sự bất bình của mình trước những đạo dụ trên, giới Huê kiều ở miền Nam tẩy chay không hút thuốc điếu và không tiêu thụ thịt heo. Chính quyền Sài Gòn đã phải xoa dịu dư luận bằng cách cấp cho 4.500 Huê kiều thất nghiệp mỗi người được 200.00$. Việc này được diễn ra tại phòng thương mại Chợ Lớn trong tháng 7/1957. Tại Đồng Nai, lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh của Hoa kiều được áp dụng trước ngày 06/09/1956 một ngày rưỡi, nhưng họ vẫn được quyền giữ hàng tồn kho. Dụ số 58 ngày 25/10/1956: Tạo điều kiện cho Hoa kiều dễ dàng nhập quốc tịch Việt Nam, khuyến khích họ hợp tác, hùn vốn kinh doanh hoặc sang tên cho vợ con là người Việt. Chính phủ Đài Loan cũng chấp nhận cho Hoa kiều nhận Việt Nam làm quê hương, với ý ngầm cho hưởng chế độ hai quốc tịch để giữ bản sắc Trung Hoa. Qua bốn đạo dụ trên, chính quyền Sài Gòn muốn người Hoa sinh sống tại Việt Nam, trong đó có Đồng Nai nhanh chóng hội nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội Việt Nam. Trước chính sách hội nhập của chính quyền Sài Gòn, người Hoa đã kịch liệt phản đối. Giới Huê kiều đã thành lập “Việt Nam Huê kiều để chế mỹ hóa ủy viên hội” (hội Hoa kiều tẩy chay hàng hóa Mỹ tại Việt Nam) ngày 27/05/1957 để phản đối việc chính quyền Sài Gòn cho ban hành những đạo luật trên. Tóm lại, những chính sách của chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa ở Việt Nam: Về kinh tế, cấm Hoa kiều làm 11 nghề, nhằm hạn chế ảnh hưởng kinh tế sâu rộng của người Hoa. Về chính trị, người Hoa đang sinh sống ở Việt Nam buộc phải nhập quốc tịch Việt Nam, những Hoa kiều nào đang sinh sống tại Việt Nam mà không chịu nhập quốc tịch thì sẽ bị trục suất về Đài Loan. Thực chất chính sách này nhằm ngăn chặn ảnh hưởng kinh tế sâu rộng của Hoa kiều trong xã hội miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Nếu như ở giai đoạn trước 1954, quá trình hội nhập của người Hoa trên đất Nam Bộ nói chung và đất Đồng Nai nói riêng diễn ra một cách tự nguyện, dựa trên tinh thần tương thân, tương ái, thì đến thời điểm này, vì mục tiêu giành lại quyền chủ động trong kinh tế mà chính quyền Sài Gòn đã đẩy một bộ phận người Hoa ra khỏi xã hội Việt Nam. Chính quyền thời kỳ này đã không phát huy được sức mạnh đoàn kết của cộng đồng các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó đồng nghĩa với việc cản trở tiến trình hội nhập một cách tự nguyện, vốn có của người Hoa vào xã hội Việt Nam nói chung và Đồng Nai nói riêng.
  16. Tuy nhiên, là một trong những cộng đồng tộc người có công xây dựng đất Đồng Nai ngay từ buổi đầu khai phá, nên ngay trong giai đoạn khó khăn và mất lòng tin vào chính quyền nhất, thì người Hoa ở Đồng Nai vẫn xem đất Đồng Nai là mảnh đất mà cha ông họ đã khó khăn vất vả mới gầy dựng được, nên các yếu tố dân tộc vẫn tồn tại và phát triển. Trong thời gian này, Đồng Nai vẫn là nơi thu hút người Hoa đến sinh cơ và lập nghiệp. Điều này chứng tỏ ý thức sẵn sàng hội nhập của cộng người Hoa vào cộng đồng các dân tộc anh em ở Đồng Nai. 1.1.3 Thời kỳ 1975 – 2005 Sau năm 1975, nước nhà thống nhất, người Hoa tiếp tục cùng với nhân dân các dân tộc ở Việt Nam đoàn kết dưới lá cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, tích cực tham gia xây dựng chính quyền cách mạng, bảo vệ trật tự, trị an, phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội. Vấn đề về người Hoa đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam quan tâm. Ngay từ khi Đảng mới được thành lập, Đảng nhận định: người Hoa chủ yếu là công nhân và nhân dân lao động, đã có một lịch sử lâu đời, cùng đồng cam, cộng khổ và sát cánh cùng các dân tộc ở Việt Nam đấu tranh cách mạng chống kẻ thù chung ở Việt Nam. Trong quá trình cách mạng, qua từng giai đoạn, Đảng đã đề ra những chỉ thị, chủ trương, và chính sách cụ thể về công tác người Hoa ở Việt Nam, để các ngành, các cấp thi hành, nhằm vận động, tổ chức người Hoa cùng với nhân dân các dân tộc khác trên lãnh thổ Việt Nam đoàn kết chặt chẽ phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình hội nhập của cộng đồng người Hoa vào xã hội Việt Nam đã từng có những thăng trầm. Những năm 1978 – 1979, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có chiều hướng xấu, vụ “nạn kiều” đã gây nên những cản trở nhất định đối với tiến trình hội nhập của cộng đồng người Hoa vào xã hội Việt Nam. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị 53 – CT/TW về “chính sách đối với cán bộ, đảng viên người Hoa” và tiếp sau đó là Chỉ thị 74 – CT/TW cụ thể việc nhận biết người Hoa tiến bộ để bảo vệ, đồng thời đưa người Hoa đi sơ tán khỏi các địa bàn giáp biên giới Việt Nam – Trung Quốc để tránh có những thiệt hại về tính mạng khi có chiến sự xảy ra giữa hai nước. Để tiến trình hội nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam tiến triển một cách thuận lợi, chỉ thị 10/TW (ngày 17/11/1982) và chỉ thị 256 (ngày 11/10/1986) của chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã khẳng định: “Người Hoa là công dân Việt Nam, được hưởng mọi quyền và làm mọi nghĩa vụ của công dân Việt Nam, đoàn kết người Hoa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa”. Theo tinh thần trên, người Hoa tại Việt Nam được hưởng quyền lợi công dân Việt Nam về đủ các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với lợi ích của người Hoa trên khắp Việt Nam. Với việc thừa nhận tính hợp pháp của người Hoa trong xã hội Việt Nam, Nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho người Hoa yên tâm hơn, tin tưởng hơn vào việc lựa chọn Việt Nam, trong đó có Đồng Nai là quê hương của mình.
  17. Tiếp sau đó, ngày 8/11/1995, Ban Bí thư Trung Ương Đảng ban hành Chỉ thị số 62 – CT/TW “Về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới”, nêu lên 4 nguyên tắc cơ bản: Một là, người Hoa là công dân Việt Nam. Là một thành phần dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, thực hiện mọi chế độ, chính sách chung của Đảng và Nhà nước như các dân tộc khác. Hai là, tăng cường đoàn kết người Hoa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ba là, mục tiêu của công tác người Hoa nhằm nâng cao đời sống vật chất – tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của người Hoa. Bốn là, những Hoa kiều nhiều năm sinh sống ở nước ta, nay xin nhập quốc tịch Việt Nam hoặc những người gốc Hoa được công nhận là công dân Việt Nam xin chuyển sang quốc tịch nước ngoài thì căn cứ vào Luật quốc tịch để giải quyết. Chỉ thị cũng phân biệt rõ người Hoa (華人) và Hoa kiều (華橋) ở Việt Nam : - “Người Hoa bao gồm những người có gốc Hán và những người thuộc dân tộc ít người ở Trung Quốc đã Hán hóa di cư sang Việt Nam và con cháu của họ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam, đã nhập quốc tịch Việt Nam, nhưng vẫn còn giữ những đặc trưng văn hóa, chủ yếu là ngôn ngữ, phong tục tập quán của dân tộc Hán và tự nhận mình là người Hoa” - “Hoa kiều là những người có cùng nguồn gốc dân tộc với người Hoa, nhưng không nhập quốc tịch Việt Nam”. Nguyên tắc cơ bản từ trước tới nay, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam từ trước tới nay đối với cộng đồng người Hoa luôn thể hiện sự quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Một số chính sách cụ thể từ chủ trương có tính nguyên tắc: người Hoa là công dân Việt Nam là một thành phần trong cộng đồng các dân tộc Viêt Nam, được hưởng mọi quyền lợi và thực hiện mọi nghĩa vụ của công dân Việt Nam. Trong việc giải quyết mọi vấn đề của người Hoa ở Việt Nam, Đảng đều xuất phát từ quan điểm và lập trường của giai cấp công nhân và coi đó là một bộ phận trong vấn đề chung của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc ở Việt Nam, nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam. Có thể nói chủ trương, chính sách của Đảng ta đối với cộng đồng người Hoa từ trước đến nay là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quyền lợi của người Hoa và quy luật phát triển tất yếu của lịch sử. Những chủ trương, chính sách ấy thể hiện sự quan tâm đặc thù đến các mặt của cộng đồng người Hoa nhằm phát huy tính tích cực, hạn chế tiêu cực trong cộng đồng người Hoa ở Việt Nam.
  18. Ở Đồng Nai, trước sự kiện “nạn kiều”, tháng 5/1980, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai đã chỉ đạo Ban dân vận Mặt trận tỉnh tổng kết công tác người Hoa và tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành thông tri số 21 – TT/TU (ngày 30/05/1980) chỉ đạo “về một số công tác trước mặt đối với vùng Hoa, Nùng, Tày di cư ở nông thôn” và Thông tri số 43/TT – TU (ngày 17/03/1981) về “Tăng cường công tác tuyên truyền vận động đối với người Hoa”. Ở vùng nông thôn, tình trạng người Hoa chỉ làm nhà tạm bợ, không kiên cố, đầu tư sản xuất không bền vững là có xảy ra, còn ở thành phố Biên Hòa cũng xảy ra tình trạng nghỉ việc, vượt biên. Mặc dầu có bị ảnh hưởng bởi sự kiện trên, nhưng trong thời gian này, Đồng Nai lại trở thành nơi tếp nhận 3.300 hộ /17.600 người Hoa từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung vào đây lập nghiệp. Điều đó cho thấy Đồng Nai là vùng đất trù phú, giàu tiềm năng và nhiều hứa hẹn. Và kể từ khi có chỉ thị 62 – CT/ TW, Tỉnh ủy Đồng Nai có công văn số 678 – CV/TU, ngày 20/11/1995, chỉ đạo các cấp ủy Đảng quán triệt chỉ thị 62 – CT/TW của Ban Bí thư; đồng thời tổ chức hội nghị quán triệt cho tất cả cán bộ chủ chốt. Ban Dân vận Tỉnh ủy, cơ quan tham mưu của Tỉnh ủy về công tác dân vận, ngày 1/11/1996, đã có kế hoạch số 02 – KH/DV Hướng dẫn triển khai thực hiện Chỉ thị 62 – CT/TW của Ban Bí thư. Tiếp đến, ngày 27/11/1996, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ra chỉ thị số 53/CT – UBT về thực hiện một số nhiệm vụ công tác đối với người Hoa. Từ đó, người Hoa ở Đồng Nai yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ Việt Nam, một bộ phận khá đông đã đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, xây dựng nhà cửa, trường học, cơ sở tín ngưỡng… Tóm lại, chính sách của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa đối với người Hoa ở Việt Nam : Về chính trị : người Hoa được gia nhập các đoàn thể chính trị, kinh tế, được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Về kinh tế : người Hoa được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ như mọi công dân Việt Nam. Về văn hóa : Giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc người Hoa. Về giáo dục : Có quyền và nghĩa vụ học tập như các dân tộc khác. Như vậy, người Hoa tại Việt Nam, mà đại đa số là công nhân và nhân dân lao động, có một vận mệnh gắn bó chặt chẽ với nhân dân các dân tộc Việt Nam và cách mạng Việt Nam. Người Hoa ở Việt Nam đã trở thành một thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, đó là một thực tế, là sự phát triển tất yếu, khách quan của quy luật xã hội, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bất cứ chính quyền nào trong xã hội Việt Nam. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, các chính quyền đều có những chính sách khác nhau đối với người Hoa đã và đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Những chính sách đó đều nhằm mục đích quản lý người Hoa, khuyến khích họ hội nhập vào xã hội Việt Nam, cũng như tận dụng những ưu thế của họ trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam. 1.2 Quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai 1954 - 2005
  19. 1.2.1 Thời kỳ trước năm 1954 Khi nhà Thanh đánh bại nhà Minh năm 1697, thống trị toàn bộ đất Trung Hoa, thì nhiều cuộc di tản lớn từ Trung Hoa đến những vùng lân cận đã xảy ra. Việc xin tỵ nạn chính trị của hai vị tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch (Tổng binh quận Long Môn, tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa) cùng phó tướng Hoàng Tiến và Trần Thượng Xuyên (Tổng binh các quận Cao - Lôi – Liêm, tỉnh Quảng Đông) cùng phó tướng Trần An Bình, không chịu hàng nhà Thanh mang 3.000 quân bản bộ là một trong những đợt di tản đó. Những người này đa số là binh lính, thương nhân và một số quý tộc phong kiến thuộc các nhóm Hải Nam, Triều Châu, Hẹ và Quảng Đông. Khi đến Đồng Nai họ đã vỡ đất phá rừng, đào kênh, cất phố, lập chợ... Khi định cư, người Hoa thường chọn những vị trí thuận lợi cho việc giao thông (những vùng đất cao cạnh mé sông), để tiện lợi cho hoạt động thương mại và tập trung khai thác những vùng đất mới. Nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên dẫn đầu đã nhìn thấy Cù Lao phố có những điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh, buôn bán và đã phát triển Cù Lao Phố thành một thương cảng lớn ở Nam Bộ. Khi định cư ở đất Đồng Nai, người Hoa đã lấy vợ là con gái người Việt, con gái người Khơme (cư dân bản địa), sinh con và xây dựng gia đình. Trong quá trình chung sống với cư dân người Việt và người bản địa, người Hoa vẫn duy trì nền văn hóa của dân tộc mình, đồng thời phổ biến nền văn hóa đó. Sau khi tạm ổn định việc cư trú và muốn phát triển vùng đất mới, một số thương nhân gốc Hoa từ Singapo, Mã Lai theo lời kêu gọi của Trần Thượng Xuyên cũng đã đến Đồng Nai lập nghiệp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc định dư lâu dài của người Hoa và người Việt ở vùng đất mới, năm 1698, chúa Nguyễn đã cho tổ chức lại xứ Đồng Nai – Gia Định. Chúa Nguyễn đã xác lập được chủ quyền của mình ở đất Đồng Nai, đồng thời với việc xác lập chủ quyền đó thì chúa Nguyễn cũng tổ chức và sắp xếp cho người Hoa tập trung tại xã Thanh Hà (清河), kéo dài từ Bàn Lân đến Bến Gỗ, là xã đầu tiên được thành lập tại Đông phố, Trấn Biên dinh. Từ đó người Hoa trở thành công dân Việt Nam với đầy đủ nhiệm vụ và quyền lợi. Sau khi ổn định cuộc sống, người Hoa đã cùng với người Việt xây dựng Cù Lao Phố trở thành một thương cảng sầm uất một thời nhờ giao thương đuợc với nước ngoài. Những biến động chính trị lớn từ Trung Hoa thường là nguyên nhân của những đợt di tản lớn của người Hoa đến các nước lân cận. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, nhiều nhóm người Hoa thuộc các bang Hải Nam, Triều Châu, Quảng Đông đã di cư sang Việt Nam. Họ là những thương nhân, thợ thủ công đến lập nghiệp tại Biên Hòa, Đồng Nai. Nhất là khi thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929), nhiều đợt di dân lớn từ Trung Hoa được Pháp cho nhập cư vào Việt Nam để khai thác mỏ quặng tại miền Bắc và trồng cây công nghiệp tại Đồng Nai. Khác với những đợt di dân trước, lớp người Hoa này phần lớn đến đất Đồng Nai mang theo đầy đủ thân tộc, thành phần nữ giới cũng được tăng cường hơn so với trước. Và sau khi chính phủ Pháp và
  20. chính quyền Tưởng Giới Thạch ký thỏa ước Trùng Khánh ngày 28/2/1948, dành cho Hoa kiều quy chế tối huệ quốc, một số người Hoa đến Đồng Nai sinh sống và cư trú ở các địa bàn: Phước Thiền (huyện Nhơn Trạch), Bến Gỗ (Long Thành), Bến Cá (Vĩnh Cửu), Long Khánh và thành phố Biên Hòa. Về sau, do ảnh hưởng điều kiện kinh tế, xã hội, nhóm người Hoa này sinh sống tập trung tại thành phố Biên Hòa và một bộ phận ở Long Khánh. Người Hoa ở Đồng Nai là một trong những cư dân cùng với người Việt và cư dân bản địa mở mang, khai phá vùng đất ở buổi đầu hoang sơ. Và cùng với quá trình ấy cộng đồng người Hoa đã được hình thành. Thời kỳ này đặt nền móng cho quá trình hình thành cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai. 1.2.2 Thời kỳ từ 1954 đến 1975 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, chiến tranh chấm dứt trên toàn Đông Dương, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền. Một làn sóng di cư mới của người Hoa đến các tỉnh Nam Bộ, trong đó có Đồng Nai đã diễn ra một cách ồ ạt, trên một quy mô lớn. Nếu như ở thời kỳ trước nơi xuất phát của làn sóng di cư là các tỉnh cưc Nam của Trung Quốc, thì điểm xuất phát của làn sóng di cư thời kỳ này là các tỉnh giáp biên giới phía Bắc của nước ta, chủ yếu là tỉnh Hải Ninh (nay là tỉnh Quảng Ninh). Vào năm 1954, 1/3 dân số của tỉnh Hải Ninh, khoảng 30.000 người, đã di cư vào Nam, dưới sự chỉ huy của Voòng A Sáng (tỉnh trưởng tỉnh Hải Ninh) cùng một số binh lính. Họ đã mang theo gia quyến vào miền Nam, khi vào Nam họ đã tập kết ở khu vực sông Mao (huyện Bắc Bình – Bình Thuận). Một đặc tính rất cơ bản của người Hoa khi chọn nơi sinh sống thường là những nơi có điều kiện giao thông thuận lợi, đất đai màu mỡ. Trong khi đó, khu vực sông Mao (Bình Thuận) khí hậu khắc nghiệt, đất ở đây thì nhiều cát, thiếu nước tưới tiêu không phù hợp với việc làm ruộng của người Hoa khi di cư đến đây. Vì vậy mà khu vực sông Mao (Bình Thuận) không phải là lựa chọn dừng chân trong quá trình di cư vào miền Nam Việt Nam của họ. Vùng đất Đồng Nai, với những thành công của những lớp người Hoa đi trước đã thu hút số người Hoa này. Khi đến đây, họ sống tập trung thành từng khu vực ở xã Bàu Hàm – Sông Thao (Thống Nhất) trên 9.500 người, xã Phú Lộc trên 5.500 người, xã Cây Gáo 6.700 người. Tập trung đông nhất là ở xã Phú Hoa (nay là 3 xã: Phú Vinh, Phú Lợi, Phú Tân) thuộc huyện Định Quán gần 29.000 người. Ngoài ra, họ còn tập trung ở các phường: Tân Phong, Bình Đa (Biên Hòa); xã Bảo Bình, Xuân Bảo (Cẩm Mỹ); thị trấn Xuân Lộc (Long Khánh). Số cư dân người Hoa đến Đồng Nai trong giai đoạn này chiếm hơn 80% dân số người Hoa ở Đồng Nai hiện nay. Đa số họ sống ở nông thôn, là những nông dân chuyên làm rẫy: trồng lúa, các loại đậu, thuốc lá, cây ăn trái ngắn và dài ngày. Số cư dân người Hoa đến Đồng Nai giai đoạn này quyết định cả số lượng và cơ cấu dân cư người Hoa ở Đồng Nai hiện nay [64].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0