Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định
lượt xem 8
download
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm, đảm bảo thực hiện các quy định về bị cáo trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bị cáo. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ PHƯƠNG QUANG BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ PHƯƠNG QUANG BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn HÀ NỘI, năm 2020
- LỜI CAM ĐOAN Học viên xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng bản thân. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ Võ Phương Quang
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................................................................................................................... 9 1.1. Những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự ....................................... 9 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ............................................................................ 15 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ............................................................................................................. 21 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỊ CÁO TẠI HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH ..................................... 43 2.1. Khái quát thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2015-2019) ............................................. 43 2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình sự tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (2015-2019) ............................................. 45 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............... 59 3.1 Quan điểm và yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện quy định của pháp luật về bị cáo trong tố tụng hình sự ...................................................................................... 59 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .......................................................................... 63 3.3. Các giải pháp khác ............................................................................................. 67 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADPL : Áp dụng pháp luật BLDS : Bộ luật Dân sự BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm ĐCS : Đảng cộng sản HĐXX : Hội đồng xét xử KSV : Kiểm sát viên LTTHS : Luật tố tụng hình sự NCTN : Người chưa thành niên NN : Nhà nước PL : Pháp luật QCN : Quyền con người TAND : Toà án nhân dân TGPL : Trợ giúp pháp lý THTT : Tiến hành tố tụng TNHS : Trách nhiệm hình sự TP : Thẩm phán TTHS : Tố tụng hình sự HTND : Hội thẩm nhân dân KSV Kiểm sát viên TKTA : Thư ký tòa án VAHS : Vụ án hình sự XXST : Xé xử sơ thẩm VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VP, TP : Vi phạm, tội phạm XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Như đã biết lịch sử phát triển xã hội loài người luôn quan tâm đấu tranh bảo vệ và phát triển QCN. Kể từ khi xã hội có giai cấp hình thành, NN ra đời thì pháp luật chính là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo thực hiện quyền con người. Ngày nay, vấn đề QCN càng được đề cao và phát triển thành một trong những tiêu trí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ của một quốc gia. Bản chất của NN Việt Nam là NN của dân, do dân, vì dân, vì thế vấn đề QCN đã luôn được ĐCS Việt Nam quán triệt, quan tâm. Điều này thể hiện rất rõ ràng trong việc Đảng và NN đã nhanh chóng điều chỉnh từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, giúp cho đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng được nâng cao, chính sách an sinh xã hội ngày càng được chú trọng quan tâm. Tuy nhiên thời gian gần đây, song song với việc phát triển kinh tế thị trường và bùng nổ công nghệ thông tin (4.0), thì tình hình vi phạm, tội phạm đang có chiều hướng gia tăng cả số lượng, lẫn các loại thủ đoạn phạm tội ngày tinh vi phức tạp hơn. Mặc dù, các cơ quan THTT đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong đấu tranh, phòng ngừa VP, TP. Nhưng có những thời điểm chất lượng công tác tư pháp còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và xây dựng NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vẫn còn tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các QCN. Đứng trước khó khăn, thách thức nêu trên Đảng và NN đã đề ra chiến lược cải cách tư pháp, với các Chỉ thị và Nghị quyết như: Nghị quyết 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 [7]; Nghị quyết 48/NQ -TW ngày 24/5/2005 [8]; Nghị quyết 49/NQ - TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [9]; và tiếp theo đó là Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội [36], yêu cầu TAND tối cao chỉ đạo các tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật… Những chủ trương, chính sách nêu trên cũng chính là việc Đảng và NN muốn nâng cao QCN trong hoạt động tư pháp. Và để cụ thể QCN trong hoạt động tư pháp, Hiến pháp Việt 1
- Nam năm 2013 đã khẳng định các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật [33]; Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp về QCN trong hoạt động TTHS, tại BLTTHS 2015 đã tiếp nối bằng rất nhiều các quy định về quyền, nghĩa vụ cũng như các nguyên tắc để bảo vệ những người tham gia tố tụng như: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại …; Trong đó tại Điều 61 BLTTHS 2015 [29], các nhà làm luật đã rất chú trọng đến việc ban hành các quyền về con người để đưa vào BLTTHS nhằm mục đích để bảo vệ được nhiều những quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Ở địa phương huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định - nơi học viên công tác trong những năm qua tình hình VP, TP nói chung diễn biến ngày càng phức tạp, trung bình mỗi năm TAND huyện Hoài Nhơn thụ lý XXST hơn 100 VAHS [50]. Nhìn chung các HĐXX của TAND luôn quan tâm áp dụng đầy đủ các quy định của luật TTHS về quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử thì vẫn còn dấu hiệu vi phạm các quy định và quyền và nghĩa vụ của bị cáo, dẫn đến việc vị trí, vai trò của bị cáo trong TTHS có những thời điểm chưa được nhận thức và đánh giá đúng mức, dẫn đến khi áp dụng các quy định của pháp luật về bị cáo trong XXST các VAHS không bảo đảm QCN theo quy định của PL. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, trong đó bị cáo - là chủ thể tham gia tố tụng chưa nhận thức và thực hiện đày đủ, các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Vì vậy việc nghiên cứu các quy định của luật TTHS về người tham gia tố tụng nói chung và bị cáo nói riêng, một cách khoa học không những bổ sung thêm về mặt lý luận bị cáo còn giúp cho những người làm công tác thực tiễn thực hiện tốt các quy định của PL về quyền và nghĩa vụ trong xét xử các VAHS, góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng PL, không kết tội oan sai, bản án được nhân dân đồng tình ủng hộ, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp là đề tài có tính thời sự cấp thiết. Xuất phát từ yêu cầu việc nghiên cứu khoa học trong chương trình đào tạo thạc sĩ luật học của Viện hà lâm khoa học xã hội Việt Nam, học viện khoa học xã hội và nhu cầu phục vụ thực tiễn công tác xét xử của bản thân, học viên đã chọn đề tài: “Bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tình Bình Định” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2
- Bảo vệ QCN nói chung, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội nói riêng là một đề tài được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Trong thời gian gần đây đề tài về bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng bắt đầu thu hút được sự chú ý quan tâm, nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thảo, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2015 [44]. Đây là đề tài nguyên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng, gồm tất cả các giai đoạn kể từ khi tội phạm xảy ra, được các cơ quan THTT phát hiện khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử … và những người tham gia tố tụng với những tư cách như: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, người bào chữa (Luật sư, trợ giúp viên pháp lý)… Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, của tác giả Võ Quốc Tuấn, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2017 [58]. Đây là đề nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm quyền của bị cáo trong phiên tòa XXST của TAND cấp tỉnh. Điểm trọng tâm và mấu chốt của đề tài, do đây là giai đoạn chuyển giao giữa BLTTHS 2003 và 2015, lên tác đã rất thành công khi đưa ra những so sánh giữa hai BLTTHS để tìm ra những điểm mới, điểm tiến bộ trong các quy định của pháp luật TTHS. Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phan Thị Thanh Tâm, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [42]. Đây là đề nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS về bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi phạm tội) từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Tác đã thành công công khi phân tích và so sánh những điểm khác nhau giữa hai cụm từ: “Người chưa thành niên”, theo quy định của BLHS 1999, BLTTHS 2003 và “Người dưới 18 tuổi” của BLHS và BLTTHS 2015 để qua đó thấy được những điểm mới về quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) giữa Luật hình sự và TTHS mới 2015 với các Luật trước đấy. 3
- Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Hữu Hậu, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [19]. Luận văn thạc sĩ luật học: “Người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của tác giả Lê Viết Kiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật - 2015[22]. Luận văn thạc sĩ luật học: “Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Dương Văn Công, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật - 2017 [15]. Luận văn thạc sĩ luật học: “Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Đinh Hải Ninh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2017[24]. Đây là đề tài nghiên cứu về quyền của người bị buộc tội, trong đó tác giả cũng đã nêu ra được trong các giai đoạn điều tra, truy tố thì người bị buộc tội được pháp luật TTHS gọi với tư cách tham gia tố tụng là Bị can; Còn trong giai đoạn xét xử thì người bị buộc tội, được gọi với tư cách là Bị cáo…; tác giả cũng đã so sánh được quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được quy định trong hai BLTTHS 2003 và 2015 và đã nêu nên được thực tiễn áp dụng các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng hình sự tại địa phương thành phố Hà Nội. Luận văn thạc sĩ luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Phạm Hồng Khải, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [21]. Luận văn thạc sĩ luật học: “Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Phan Hùng, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [20]. Luận văn thạc sĩ luật học: “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Phạm Nguyễn Việt Cường, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [13]. 4
- Bài viết: Một số kiến nghị hoàn thiện chế định người tham gia tố tụng trong BLTTHS, của các tác giả Thái Chí Bình - Tạp chí Nghề Luật số 2/2015[4]. Bài viết: Quy định pháp luật quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân của các tác giả Võ Quốc Tuấn - Tạp chí Nghề Luật số 4/2015[57]. Bài viết: Trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị buộc tội trong Tố tụng hình sự Việt Nam, của các tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy, Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2015[16]. Bài viết: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát, của các tác giả Nguyễn Hữu Hậu, Tạp chí Kiểm sát số 12/2015[18]. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về người bị buộc tội, người tham gia TTHS Việt Nam. Nhưng đối với việc nghiên cứu một cách toàn diện về Bị cáo trong luật TTHS Việt Nam thông qua thực tiễn xét xử ở TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thì chưa có công trình nào đề cập đến. Từ thực tiễn trong công tác xét xử sơ thẩm các VAHS của bản thân học viên tại TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Cũng như trước yêu cầu của sự nghiệp cải cách tư pháp, tổ chức thực hiện Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức TAND 2014 và thi hành BLTTHS 2015 cùng các văn dưới bản luật trong lĩnh vực TTHS quy định về Bị cáo, thì việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, và thực tiễn để đưa ra giải pháp đảm bảo thực hiện tốt những quy định của pháp luật TTHS về Bị cáo trong XXST các VAHS là cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của PL về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm, đảm bảo thực hiện các quy định về bị cáo trong TTHS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về bị cáo trong XXST các VAHS tại TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình; qua đó, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của luật THHS về bị cáo trong XXST các VAHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
- Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm, như: Khái niệm Bị cáo, đặc điểm của bị cáo; quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các VAHS; - Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của Bị cáo trong TTHS Việt Nam, từ sau Cách mạng tháng 8.1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu những quy định cụ thể về bị cáo của BLTTHS 2015, từ đó thấy được những điểm mới, tiến bộ cũng như một số điểm còn bất cập của các chế định về Bị cáo trong BLTTHS 2015, để từ đó đề xuất quan điểm về hướng sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2015; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về bị cáo trong XXST các VAHS theo luật TTHS Việt Nam trên địa bàn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó; - Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về bị cáo trong XXST các VAHS theo luật TTHS Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong XXST các VAHS trong thực tiễn ở nước ta trước yêu cầu tiếp tục cải cách tư pháp và xây dựng NN pháp quyền. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về bị cáo trong xét xử án hình sự sơ thẩm qua thực tiễn xét xử ở Toà án nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề bị cáo trong XXST các VAHS theo luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của PL tố tụng về quyền và nghĩa vụ của bị cáo tại TAND Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc ADPL quy định về bị cáo trong TTHS tại các phiên tòa XXST các VAHS ở TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định giai đoạn 2015-2019. 5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
- 5.1. Cở sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của ĐCS Việt Nam về NN và PL, xây dựng NN pháp quyền, về cải cách tư pháp và bảo vệ QCN trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác, như phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp logic... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thực hiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về bị cáo trong XXST các VAHS theo yêu cầu cải cách tư pháp, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới quyền và nghĩa vụ của bị cáo theo luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Nghiên cứu việc đảm bảo ADPL về quyền, nghĩa vụ của bị cáo trong XXST nhằm bổ sung những vấn đề lý luận về hoàn thiện PL bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong xét xử hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay; - Tổng hợp các quan điểm khoa học của một số nhà khoa học về bị cáo trong tố tụng hình sự để đưa ra quan niệm của học viên về bị cáo trong tố tụng hình sự; - Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của chế định bị cáo trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị cáo tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó; 7
- - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện các chế định về bị cáo trong XXST các VAHS trong giai đoạn xây dựng NN pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay. - Bản thân tác giả là TP công tác TAND cấp huyện, đã tham gia XXST nhiều VAHS, từ việc nghiên cứu và trải nghiệm bản thân, những kiến nghị trong luận văn không chỉ có ý nghĩa như một đề xuất mang tính khoa học có giá trị tham khảo cho các cơ quan, tổ chức trong xây dựng, hoàn thiện PL bảo đảm thực hiện các quy định về bị cáo trong TTHS. Học viên cũng hy luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy và học viên chuyên ngành luật học; và phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ làm công tác thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan VKSND, TAND trong quá trình giải quyết VAHS được khách quan, có căn cứ và đúng PL. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương và 8 tiết. 8
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm bị cáo trong tố tụng hình sự Như đã biết theo quy định của pháp luật TTHS thì các giai đoạn từ khởi tố, điều tra cho đến truy tố chỉ là giai đoạn thu thập nguồn chứng (tìm kiếm thông tin) chứng minh sự việc phạm tội xảy ra mà chưa phải là qúa trình xác định VP, TP. Do đó xét xử tại phiên tòa mới là giai đoạn quan trọng nhằm xác định có phạm tội hay không phải là tội phạm của một người thực hiện hành vi trái PL. Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định khởi tố VAHS, khởi tố bị can. Bị can sẽ trải qua quá trình điều tra, truy tố, cho đến khi TAND ra quyết định đưa bị can (người bị VKS buộc tội) ra xét xử thì bị can lúc này được gọi là bị cáo. Theo quy định tại Điều 50 BLTTHS 2003 thì “Bị cáo là người bị Tòa án quyết đưa vụ án ra xét xử” [28]. Vậy nên khái niệm bị cáo được hiểu trong phạm vi hẹp nhưng cũng đã nêu lên được, sự việc một người bị truy cứu TNHS hay bị VKS truy tố thì chưa được gọi là bị cáo, chỉ đến khi TAND ra quyết định đưa VAHS ra xét xử thì bị can mới được gọi là bị cáo. Về mặt ngôn ngữ học, có thể hiểu bị cáo là người cụ thể trong xã hội, có hành vi gây ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến sự việc, đối tượng cụ thể. Theo từ điển luật học, thì bị cáo là người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử [59], định nghĩa pháp lý về khái niệm bị cáo, bị cáo là người bị truy cứu TNHS trước Tòa án. Như vậy, có thể hiểu là sau khi có quyết định truy tố của VKS và hồ sơ VAHS được chuyển đến TAND, thì vẫn coi người bị VKS truy tố là bị can, chỉ khi có quyết định của TAND đưa VAHS ra xét xử mới coi người đó là bị cáo. Bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, tham gia phiên tòa, đề nghị thay đổi người THTT, người giám định, người phiên dịch, đưa ra chứng cứ và những yêu cầu, tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, nói lời sau cùng trước khi nghị án, kháng cáo bản án và quyết định sơ thẩm. Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của tòa án. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng, thì có thể bị áp giải. 9
- Bị cáo là người bị TAND đưa ra xét xử, là người bị VKS truy tố và buộc tội, là người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS và được gọi là VAHS. Tuy nhiên không đồng nghĩa với việc bị cáo được coi là nghười có tội vì theo quy định tại Điều 31 Hiếp pháp 2013 thì: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật” [33]. Mặc dù bị tình nghi là người đã thực hiện hành vi vi phạm PL hình sự dẫn đến là người bị TAND đưa ra xét xử nhưng khi chưa có bản án kết tội của TAND có hiệu lực hoặc đã có bản án mà bản án nhưng bản án đó vẫn chưa có hiệu lực pháp thì cũng chưa được xem người đó là có tội. Vậy nên, khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với chủ thể của tội phạm. Bị cáo chỉ là một trong những chủ thể tham gia TTHS được quy định tại khoản 7 Điều 55 BLTTHS 2015 [29], bị cáo tham gia vào quá trình giải quyết VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ. Trong BLTTHS 2015 đã quy định khái niệm bị cáo trong phạm vi rộng hơn, bổ sung thêm pháp nhân cũng có thể là bị cáo. Mà cụ thể tại khoản 1 Điều 61 quy định: Bị cáo là pháp nhân được thực hiện qua người đại diện hợp pháp của pháp nhân theo quy định của BLHS 2015 [29]. Tức là những người hoặc pháp nhân đã bị TAND quyết định đưa xét xử mới gọi là bị cáo, bị cáo tham gia trong giai đoạn xét xử khi đó họ mới có đầy đủ quyền và nghĩ vụ bị cáo được luật TTHS quy định. Nếu pháp nhân thực hiện hành vi phạm thì đều bị TAND quyết định đưa ra xet xử như mọi công dân với tư cách xét xử là bị cáo. Quyết định đưa ra xét xử của TAND đối với bị cáo là pháp nhân sẽ được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, Do đó, tư cách tham gia TTHS của bị cáo sẽ xuất hiện kể từ khi TAND ra quyết định đưa VAHS ra xét và chấm dứt khi VAHS được đình chỉ hoặc khi có bản án kết tội có hiệu PL được thi hành. Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bị cáo trong tố tụng hình sự như sau: Bị cáo là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại bị Tòa quyết định đưa ra xét xử về hành vi vi phạm pháp luật. Chỉ những người, pháp nhân bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử mới được gọi là bị cáo và bị cáo không đồng nghĩa với người có tội, không được xem bị cáo là người có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa hoặc bản án kết tội đó chưa có hiệu 10
- lực thi hành. Khi tham gia tố tụng bị cáo có quyền và nghĩa vụ được PL quy định và bảo đảm thực hiện. 1.1.2. Đặc điểm bị cáo trong tố tụng hình sự Một là: Bị cáo là người tham gia tố tung Bị cáo là một trong những chủ thể tham gia TTHS có quyền được PL bảo vệ nhưng không mang quyền lực NN, bị cáo tham gia TTHS nhằm để xác định sự thật của VAHS, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội. Khi tham gia TTHS, bị cáo được hưởng quyền và thực hiện quyền của bị cáo theo quy định tại Điều 61 BLTTHS 2015 [29]. Tuy nhiên do bị cáo tham gia TTHS với vai trò là người bị đưa ra XXST vụ án hình sự. Nên bị cáo luôn ở trong tình thế bất lợi hơn những người tham gia TTHS khác vì họ phải gánh chịu ảnh hưởng của dư luận xã hội. Với quan điểm bị cáo luôn là người có tội vì không có thì làm sao lại bị TAND đưa ra xét xử, bị cáo chưa bị HĐXX kết tội nhưng quan hệ xã hội của bị cáo cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Vì đại đa số người dân đều cho rằng bị cáo là người phạm tội trước khi chưa có bản án, quyết định của TAND. Bị cáo là người tham gia TTHS nhằm xác định sự thật của VAHS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo có quyền được biết mình bị buộc tội về tội gì? Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa khác bào chữa cho mình; Quyền được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền được khiếu nại các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng; Quyền được tham gia phiên tòa và được tranh luận tại phiên tòa; Quyền không bị xét xử một cách qúa chậm trễ thể hiện các quy định về thời hạn tạm giữ để khởi tố VAHS; thời hạn điều tra; thời hạn truy tố, thời hạn xét xử ..., cụ thể như: Khi hết thời hạn tạm giữ hình sự nếu Cơ quan CSĐT Công an huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định không có căn cứ để khởi tố VAHS và khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị bắt tạm giữ; Nếu hết thời hạn điều tra không chứng minh được tội phạm thì phải đình chỉ điều tra VAHS và đình chỉ VAHS đối với bị can, hủy bỏ hết quyết định khởi tố bị can và các quyết định TTHS về biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với bị can, trả lại cho bị can đầy đủ quyền công dân, có thể phải công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại theo quy định của PL. 11
- Ngoài ra bị cáo tham gia trong TTHS cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với bản thân họ, là nhằm mục đích đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị cáo, để đảm bảo quyền lợi của bị cáo, cơ quan THTT phải xác định sự xuất hiện của tư cách bị cáo. Tham gia hoạt động TTHS với tư cách là bị cáo, họ sẽ được thực hiện các quyền đặc thù như: Nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án; xem biên bản phiên tòa; yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa, quyền kháng cáo mà chỉ có bị cáo mới có quyền, còn những người tham gia TTHS khác thì không. Hai là, Bị cáo xuất hiện trong vụ án hình sự Bị cáo xuất hiện trong VAHS để chứng minh hành vi phạm tội có xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Đây là những vấn đề đầu tiên cần phải chứng minh trong VAHS. Trong mỗi VAHS cần phải chứng minh một cách khẳng định rằng hành vi bị khởi tố, điều tra, truy tố đã xảy ra trên thực tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện nhất tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng hay sai và suy cho cùng nó có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn VAHS. Đó là những dấu hiệu thuộc chủ thể và mặt khách quan của tội phạm. Ngoài ra bị cáo xuất hiện trong VAHS là để chứng minh có thực hiện hành vi phạm tội hay không, có lỗi hay không có lỗi, do lỗi vô ý hay cố ý, có năng lực chịu TNHS hay không?, động cơ, mục đích thực hiện tội phạm là gì?. Chứng minh bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội, nghĩa là xác định chủ thể của tội phạm. Sau đso là để xác định chủ thể đó có lỗi hay không?. Nếu có lỗi thì là lỗi cố ý hay vô ý?. Mục đích và động cơ phạm tội cần được chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản thuộc chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm được làm sáng tỏ. Cùng với thì việc bị cáo xuất hiện trong VAHS có ý nghĩa quan trọng giúp HĐXX chứng minh sự thật khách quan, trung thực chính xác làm cơ sở để xét xử đúng người, đúng tội. Làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, nó có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng tính chất và hành vi của tội phạm giúp cho việc giải quyết VAHS đảm bảo đúng quy định của PL. Ba là, Bị cáo là người bị buộc tội 12
- Tính từ thời điểm VAHS được TAND huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Đình có quyết định đưa vụ án ra XXST thì lúc này bị can đã trở thành bị cáo. Và để nhận biết đó là bị cáo thì đồng thời cũng là việc đảm bảo của NN đối với công dân vì không ai bị TAND đưa ra xét xử khi không có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chỉ có những người đã bị TAND quyết định đưa ra xét xử VAHS mới được gọi là bị cáo, còn những người mặc dù thực hiện hành vi vi phạm PL hình sự (tội phạm được quy định trong BLHS), đã được VKSND truy tố nhưng chưa được TAND ra quyết định đưa vụ án ra XXST thì cũng chưa được gọi là bị cáo. Vì theo tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 thì: Bất kỳ người nào bị buộc tội đều có quyền được coi là chưa có tội cho đến khi TAND công khai, nơi người đó đã có được tất cả những đảm bảo cần thiết để bào chữa cho hành vi của bản thân, chứng minh được tội phạm của người bị buộc tội trên cơ sở các quy định của pháp luật [23]. Cũng theo quy định của Hiến pháp 2013 [33], quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội: Người bị buộc tội được TAND xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của PL thì việc tuyên án phải được công khai. Tại phiên tòa sơ thẩm VAHS việc xét xử kịp thời, công khai là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo được xét xử trong một phiên tòa có nhiều Cơ quan THTT và nhiều người tham dự. Sự công bằng thể hiện ở việc bị cáo được xét xử theo những quy định chung của PL hình sự và TTHS. Trong đó tại phiên tòa XXST các VAHS, thì HĐXX thực hiện việc điều tra công khai, trực tiếp các tài liệu chứng cứ liên quan đến VAHS với sự tham gia của VKSND (bên buộc tội) và bên gỡ tội (bị cáo và người bào chữa cho bị cáo). Thông qua việc xét xử công khai, HĐXX vừa có thể thu thập thêm các chứng cứ quan trọng để xem xét, đánh giá những chưgs cứ khác, khắc phục được những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động TTHS trước đấy. Để qua đó đảm bảo bản án, quyết định của HĐXX dược ban hành một cách chính xác, công bằng và kịp thời. Với việc nguyên tắc suy đoán vô tội đã lần đầu tiên được quy định và áp dụng trong BLTTHS 2015 thì bị cáo được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật TTHS quy định và có bản án, quyết định kết tội của TAND đã có hiệu lực thi hành....[29]. Khi bản án, quyết định của TAND chưa có hiệu 13
- lực thi hành thì bị cáo vẫn chưa bị coi là tội phạm. Vậy nên các cơ quan THTT hình sự không được đối xử với bị cáo như là tội phạm. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục theo quy định tại BLTTHS thì Cơ quan điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội (vô tội). Nghĩa là, nếu trong giai đoạn TTHS nào đã áp dụng đầy đủ các biện pháp cần thiết nhưng vẫn không đủ và không thể có đủ nguồn tài liệu, chứng cứ để chứng minh tội phạm thì cơ quan, người THTT phải kết luận người buộc tội là không có tội và phải giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Bốn là, Bị cáo xuất hiện trong giai đoạn xét xử Đây chính là đặc điểm để nhận biết và phân biệt rõ bị cáo, và cũng là sự bảo đảm của NN đối với công dân vì không ai bị TAND đưa ra xét xử khi không có quyết định đưa VAHS ra XXST. Chỉ có những người bị TAND quyết định đưa ra xét xử mới được gọi là bị cáo, những người tuy có hành vi phạm tội, đã bị VKSND truy tố nhưng chưa được TAND ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì cũng không gọi là bị cáo. Bị cáo là người được TAND đưa ra xét xử nhưng không vì thế mà xem bị cáo là người có tội (là tội phạm), khi chưa có bản án, quyết định kết tội của TAND có hiệu lực PL được thi hành. Nên bị cáo được đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Các quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp 2013 chính là những giá trị xã hội có ý nghĩa to lớn về mặt mọi mặt cần phải được tôn trong và bảo vệ một cách có hiệu quả. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được quy định trong Điều 8 BLTTHS 2015: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc thấy không còn cần thiết” [29]. Nghĩa là, khi có các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ không còn cần thiết hoặc những biện pháp này không còn cần thiết nữa thì cắc cơ quan, người có thẩm quyền phải kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp đó. Nguyên tắc này đảm bảo không một công dân nào bị xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 14
- Năm là, Bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đã có hiệu lực PL. Bị cáo là người bị TAND đưa ra xét xử sơ thẩm VAHS nhưng không có nghĩa bị cáo đã là tội phạm và đồng thời nếu có là người thực hiện hành vi vi phạm PL hình sự thì bị cáo cũng được thực hiện quyền của bị cáo. Cho nên dù là người bị TAND có quyết định đưa án ra xét xử thì bị cáo vẫn được thực hiện đầy đủ các quyền của công dân, đến khi có bản án, quyết định kết tội đã có hiệu lực của PL bị cáo vẫn được thực hiện quyền bào chữa (tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa) nhằm giảm bớt TNHS của bản thân bị cáo. Vậy nên, khi TAND chưa ra bản án, quyết định để kết tội bị cáo, và kể cả khi Tòa đã ra bản án, quyết định kết tội nhưng bản án, quyết định ấy vẫn chưa có hiệu lực PL được thi hành thì bị cáo vẫn được thực hiện quyền bào chữa bằng cách tự đưa ra lý lẽ, chứng cứ, tài liệu của mình để nhằm giúp bị cáo trong việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ lời buộc hoặc giảm TNHS cho bị cáo, giúp làm sáng tỏ sự thật, minh oan cho bản thân bị cáo; giúp cho bị cáo về mặt pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Bên cạnh đó thì ngoài quyền tự bào chữa của bị cáo, thì bị cáo còn có thể nhờ hoặc thuê người khác bào chữa cho bị cáo, để nhằm mục đích trao cho bị cáo có cơ hội bảo vệ, quyền và lợi ích chính đáng của bản thân trước sự buộc tội của VKSND và của các chủ thể có thẩm quyền khác. Trong khi điều kiện để thực hiện quyền tự bào chữa của bị cáo hạn chế do bị các cơ quan và người THTT áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo hoặc do chính bản thân bị cáo không có đủ khả năng và trình độ, kiến thức để thực hiện quyền tự bào chữa cho mình, thì bị cáo có quyền được đề nghị, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định (mời) người bào chữa (có thể là Luật sư hoặc Trợ giúp viên pháp lý). Việc cơ quan TTHS chỉ định (mời) người bào chữa còn đảm bảo tính nhân đâọ của NN Pháp quyền XHCN Việt Nam và góp phần hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền THTT xác định sự thật khách quan của VAHS. 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bị cáo trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 1.2.1. Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về bị cáo từ sau cách mạng tháng 8.1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 72 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 137 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 178 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 105 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 45 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 121 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 66 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 58 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn