intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

27
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn hướng đến là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, làm rõ thực tiễn thực hiện những quy định đó trên địa bàn thành tỉnh Bắc Ninh để đưa ra các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH HẠNH ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH HẠNH ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI, 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Minh Hạnh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................... 7 1.1. Lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................................................................................... 7 1.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................................................................... 21 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH BẮC NINH .......................................................................................... 36 2.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh ........... 36 2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân .. 41 Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................................................................................ 58 3.1. Yêu cầu nâng cao địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................................................................... 58 3.2. Các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................................... 58 KẾT LUẬN .................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát XHCN Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Tổng hợp các vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung ............................... 37 Bảng 2.2: Tình hình thụ lý và giải quyết án hình sự sơ thẩm tại tỉnh Bắc Ninh ..... 39 Bảng 2.3: Tổng hợp các vụ án có kháng cáo, kháng nghị .............................. 42
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều Nghị quyết để đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nêu rõ nhiệm vụ: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”[05]. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [20]. Tòa án thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua đội ngũ Thẩm phán – là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt trong quá trình cải cách tư pháp nói chung và thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” nói riêng. Thẩm phán chính là những người đại diện cho Tòa án để thực hiện các chức năng nêu trên. Họ có vị trí, vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong các vụ án hình sự, vai trò của Thẩm phán xét xử được thể hiện rõ nét nhất. Thẩm phán với tư cách là người đại diện cho Nhà nước, họ được pháp luật quy định quyền ban hành các quyết định công nhận, hướng dẫn và quyết định các vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Để từ đó, qua các chứng cứ chứng minh, sự thật khách quan của vụ án được đưa ra làm rõ. Trên cơ sở tranh tụng khách quan, Hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ áp dụng pháp luật một cách đúng đắn để đưa ra phán quyết hợp tình, hợp lý, công minh. Từ khi các Tòa án được hình thành và phát triển đến nay, đội ngũ Thẩm phán nước ta đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Tuy nhiên Nghị quyết 49 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: “Công tác tư pháp nước ta còn bộc lộ nhiều hạn 1
  8. chế. Đội ngũ Thẩm phán xét xử còn thiếu, nhất là ở các toà án cấp huyện; một số không ít các Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, thiếu thận trọng, tỉ mỉ thậm chí còn cẩu thả nên dẫn đến tình trạng có nhiều sai sót trong thực tiễn xét xử...”[05]. Tại báo cáo tổng kết công tác năm 2012 TAND tối cao cũng đã khẳng định:“Một số Thẩm phán, cán bộ chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, chưa tích cực học tập để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nên nhiều vấn đề đã được quy định trong pháp luật đã được hướng dẫn cụ thể nhưng chưa nắm được để áp dụng trong công tác xét xử”[30]. Trước tình hình trên và trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập với thế giới, nhất là đang thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc nghiên cứu địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự nói chung và trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng, xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn, không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của các chức danh tư pháp nói riêng mà còn góp phần xây dựng các văn bản pháp luật về Thẩm phán và Tòa án cũng như việc chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động nghiệp vụ của các Tòa án. Việc xác định đúng địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự góp phần quan trọng trong việc thực thi có hiệu của thủ tục tố tụng hình sự (TTHS). Từ những phân tích trên, Học viên chọn Đề tài “Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu đề tài về cải cách tư pháp và vị trí, vai trò của đội ngũ Thẩm phán. Cụ thể có thể kể đến một số công trình khoa học như: - Cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam, đề tài cấp nhà nước độc lập, mã số: 92-98-353 do ông Nguyễn Văn Yểu làm Chủ nhiệm đề tài,1993; - Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền do PGS.TSKH Lê Cảm, và TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb ĐHQGHN, 2004; 2
  9. - Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền của tập thể tác giả do PGS.TS.Nguyễn Đăng Dung chủ biên. Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005. Ngoài ra còn có các bài viết của nhiều tác giả liên quan đến đội ngũ Thẩm phán được công bố trên các tạp chí chuyên ngành luật học và tại các hội thảo khoa học: - Bài viết Tư duy về quyền tư pháp: thực trạng và tiếp tục đổi mới được đăng trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội – 09 – 8 – 2019 của PGS. TS Trần Văn Độ. - Bài viết “Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân dân” của PGS. TS Trần Văn Độ đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp của Viện nghiên cứu lập pháp Ủy ban thường vụ Quốc hội số 20/2014. - Bài viết “Tư duy về xét xử” được đăng trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội của TS. Phạm Minh Tuyên. - Bài viết “Tiếp tục đổi mới tư duy về tư pháp trong sự vận động và phát triển của xã hội Việt Nam” được đăng trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”, Viện hàn lâm hoa học xã hội Việt Nam (2019), Hà Nội – 09 – 8 – 2019 của PGS. TS Nguyễn Tất Viễn. Có thể nói, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận án, các bài báo khoa học đã công bố ở Việt nam trong thời gian qua đã lý giải một số vấn đề khá sâu sắc về chế định Thẩm phán, và đề ra một số giải pháp cho việc tăng cường địa vị pháp lý của Thẩm phán. Nhưng trong điều kiện thực tiễn hiện nay đã phát sinh nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và cần được tổng kết rõ, do vậy luận văn này nghiên cứu là không trùng lặp bởi lẽ: luận văn đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố nêu trên là những tài liệu tham khảo cơ bản và là cơ sở nền tảng để tác giả nghiên cứu và thực hiện luận văn. 3
  10. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn hướng đến là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, làm rõ thực tiễn thực hiện những quy định đó trên địa bàn thành tỉnh Bắc Ninh để đưa ra các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, làm rõ được những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự nói chung; phân tích các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; - Phân tích đánh giá đúng thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các Tòa án tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua, làm rõ những ưu điểm, những khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh; - Trên cơ sở những yêu cầu của cải cách tư pháp và từ thực tiễn để đề xuất các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (đi sâu chủ yếu là các quy định của Bộ luật TTHS). Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu việc thực hiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015 - 2019. 5. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp. 4
  11. Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu tại bàn thông qua nghiên cứu văn bản, tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê và khảo sát thực tiễn để giải quyết những vấn đề mà Luận văn đặt ra. 6. Ý nghĩa của luận văn Luận văn là công trình khoa học đi sâu nghiên cứu có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. Do đó luận văn bao hàm những ý nghĩa sau: * Ý nghĩa lý luận: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận để đề xuất một số vấn đề cần quan tâm với các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đúng với mục tiêu mà Đảng ta đã đặt ra. * Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu thực tế việc thực hiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại các Tòa án tỉnh Bắc Ninh để đưa ra các giải pháp tăng cường địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, luận văn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Thẩm phán tỉnh Bắc Ninh nói riêng và của ngành Tòa án nói chung. Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ đang làm công tác tại Tòa án, nhất là các Thẩm phán được phân công giải quyết án hình sự sơ thẩm. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng trong việc giảng dạy, nghiên cứu tại các trường, các cơ sở có đào tạo chuyên ngành Luật Hình sự. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn chia làm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. 5
  12. Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 6
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Lý luận về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1.1. Khái niệm Thẩm phán: Hoạt động xét xử là yêu cầu khách quan, là một trong những chức năng của Nhà nước xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Tuy nhiên, đội ngũ Thẩm phán ra đời khá muộn (chỉ vào cuối chế độ phong kiến, đầu chế độ tư bản mới xuất hiện Thẩm phán) khi mà quyền lực Nhà nước được chia thành 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập, kiềm chế đối trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự tách biệt của Toà án ra khỏi quyền hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ chuyên làm nhiệm vụ xét xử là Thẩm phán ra đời. Theo từ điển Luật học và điều 65 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 định nghĩa: Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử. Thẩm phán là một chức danh tư pháp, nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia vào hoạt động xét xử. Hiện nay, quá trình TTHS Việt Nam được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, với nhiều cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, mà trong đó vị trí, vai trò của mỗi cơ quan là khác nhau. Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng được xác lập quyền và nghĩa vụ thông qua các chủ thể khác nhau gọi là những người tiến hành tố tụng. TAND là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí và vai trò quan trọng, là cơ quan cuối cùng kết thúc của quá trình tố tụng. Trong TAND, Thẩm phán là người có vị trí và vai trò then chốt để thực thi nhiệm vụ tố tụng của Tòa án. Ở nước ta, từ năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND đã ghi nhận Thẩm phán là một chức danh tư pháp mà trước đó về mặt pháp lý Thẩm phán 7
  14. chỉ được coi là một chức vụ. Qui định này đánh dấu một bước ngoặt lớn về nhận thức để xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động xét xử, nhất là xét xử các vụ án hình sự. Mặc dù chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước quy định cụ thể về khái niệm chức danh tư pháp, nhưng trên thực tế có quan điểm cho rằng những người nào trực tiếp thực hiện quyền lực tư pháp thì mới là chức danh tư pháp. Vì vậy có thể hiểu chức danh tư pháp bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán, Thư ký Toà án, Hội thẩm. GS. TS Võ Khánh Vinh cho rằng chức danh tư pháp bao gồm những người thực hiện nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành nghề và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp đứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật [42, tr.5]. Trong các chức danh tư pháp thì Thẩm phán được xác định là một chức danh tư pháp quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán (hoặc cùng với Hội thẩm) nhân danh Nhà nước để đưa ra phán quyết và khi bản án có hiệu lực pháp luật thì tất cả cơ quan, tổ chức và mọi công dân đều phải chấp hành, kể cả những cơ quan nhà nước. Dưới góc độ xã hội, Thẩm phán được xem như là một nghề theo sự phân công của xã hội. Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các nghề nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ phải có kiến thức uyên thâm trên mọi lĩnh vực bởi lẽ họ là người đại diện cho nền công lý, cho công bằng của toàn xã hội. Tính chuyên nghiệp của Thẩm phán trong hoạt động xét xử là một trong những đặc tính quan trọng không những thể hiện trình độ cao về nghề nghiệp của Thẩm phán mà còn khẳng định vị thế của Thẩm phán trong bộ máy Nhà nước và đối với xã hội. Theo đó, hoạt động xét xử của Thẩm phán có những đặc trưng riêng: - Thứ nhất là tính đặc thù trong áp dụng pháp luật: điều này thể hiện ở chỗ Thẩm phán với vai trò là người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách 8
  15. quan, thực tế, không định kiến với mục đích bảo vệ công lý. Hoạt động tranh tụng tại phiên Toà phải đảm bảo sự bình đẳng. Mọi hành vi ép buộc làm ảnh hưởng tới sự thật khách quan của vụ án, đối với phán quyết của Thẩm phán đều trái với mục đích áp dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng định Thẩm phán phải là người hết sức vô tư, tôn trọng bằng chứng, xem xét đúng đắn các chứng cứ thực tế mà các bên tranh tụng đưa ra trong quá trình xét xử. - Thứ hai: hoạt động xét xử chính là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và kiến thức cần thiết nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn trên cơ sở bằng chứng thực tế và diễn biến tại phiên tòa. Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu người Thẩm phán phải thực sự toàn tâm toàn lực và nhạy bén. Để không bị cám dỗ, lung lay về ý chí trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh về tinh thần của người Thẩm phán đòi hỏi bản thân họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý chí. Mục tiêu cuối cùng mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục đích mà toàn bộ nhân dân hướng tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu tình đạt lý, đảm bảo tính đúng đắn của bản án, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán quyết đó còn mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong cộng đồng dân cư. Chính vì thế hoạt động xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát. Nguyên tắc “Toà án xét xử công khai, khi xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân” chính là sự giám sát ở bên trong phiên toà. - Thứ ba là hoạt động này đòi hỏi Thẩm phán phải là một con người toàn diện, bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, vô tư khách quan. Đây không những là đặc thù nghề nghiệp của người Thẩm phán mà còn là các tiêu chuẩn mà pháp luật đặt ra đối với người Thẩm phán hiện nay. Chỉ có thể có kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu tranh cho sự công bằng vô tư, một tâm hồn trong sáng và một bản lĩnh vững vàng thì nghề Thẩm phán và người Thẩm phán mới tạo dựng được sự tin tưởng và tôn kính. Bởi lẽ cần thiết có một chuẩn mực lý tưởng được xã hội thừa nhận, nắm giữ cán cân công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng hướng của nó. 9
  16. Người Thẩm phán phải bênh vực cho người bị hại, không thiên vị hay dao động ý chí trước bất kỳ sự việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo dựng nên hình ảnh một nghề biểu tượng cho sự khát khao công lý. - Thứ tư là hoạt động xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định. Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới sinh mạng chính trị, quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm phán quyết đó thấu tình, đạt lý thì hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ. Việc quy định như vậy tránh sự tuỳ tiện, lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, bản án dù có hiệu lực pháp luật cũng sẽ được Toà án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa khái niệm Thẩm phán như sau: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án. 1.1.1.2. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phát sinh khi có cáo buộc từ cáo trạng của Viện kiểm sát (VKS) và được thực hiện bởi chức năng của Tòa án trên cơ sở tranh tụng tại phiên tòa nhằm xem xét và giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản án, quyết định bị cáo có tội hay không có tội, nếu bị cáo có tội thì hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ tuyên án và nêu hình phạt kèm theo các biện pháp tư pháp (nếu có) theo quy định của pháp luật. Xét xử là hoạt động duy nhất chỉ do Tòa án thực hiện còn các cơ quan Nhà nước khác, các tổ chức và cá nhân ngoài Tòa án không có chức năng này, chính vì vậy bản án của Tòa án được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và đưa ra phán quyết một người có tội hay không có tội, đó là tội gì, hình phạt và các biện pháp xử lý. Vì vậy có thể hiểu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử lần đầu toàn bộ vụ án hình sự theo thẩm quyền mà pháp luật quy định. Theo pháp luật TTHS Việt Nam, thì xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác 10
  17. định là một giai đoạn kết thúc một vụ án hình sự, mọi chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra thu thập được trong quá trình điều tra cũng như cáo trạng của Viện kiểm sát đều được xem xét công khai tại phiên toà, những người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận những vấn đề mà trước khi vụ án được đưa ra xét xử không có điều kiện thực hiện. Như vậy có thể nói xét xử sơ thẩm được xem là trung tâm của quyền tư pháp, là giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đều phải tập trung trí tuệ để xử lý các tình huống một cách chính xác, nhanh chóng, đúng pháp, thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Tại phiên Tòa HĐXX điều khiển phiên tòa, thực hiện việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, còn Toà án thực hiện chức năng xét xử, làm trọng tài phân xử đưa ra các phán quyết giải quyết vụ án. Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án, sau đó Tòa án thực hiện các công việc chuẩn bị xét xử, khi có đủ điều kiện thì Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử. Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm: xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử với tính chất xét xử lần đầu, toàn diện, đầy đủ toàn bộ các vấn đề của vụ án, thể hiện qua các hành vi tố tụng từ thời điểm tòa án nhận hồ sơ, thụ lý vụ án cho đến khi HĐXX tuyên án và bế mạc phiên tòa với mục đích cuối cùng là giải quyết triệt để một vụ án. 1.1.1.3. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Theo từ điển Luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội thì địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Là sự thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật. 11
  18. Từ những phân tích trên về khái niệm Thẩm phán và khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, ta có thể rút ra khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán là tổng thể các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ pháp lý của Thẩm phán khi tiến hành các hành vi tố tụng được pháp luật quy định. Từ khái niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy, nội hàm địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTHS được thể hiện và phản ánh ở những phương diện: - Các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong TTHS. - Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTHS. 1.1.2. Cơ sở xác định địa vị của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.2.1. Phương cách tổ chức bộ máy nhà nước Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”[20]. Nội dung mới này có ý nghĩa rất quan trọng, nó nhằm mục đích phân định quyền lực của nhà nước theo hướng: “TAND” là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Theo PGS.TS Trần Văn Độ “quyền tư pháp là quyền xét xử, tức quyền áp dụng pháp luật để ra phán quyết về các vi phạm pháp luật và các tranh chấp xảy ra trong xã hội. Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước thực hiện quyền tư pháp”[10]. Như vậy có thể hiểu nội dung cốt lõi của quyền tư pháp là sử dụng quyền lực để xét xử các vụ việc nhằm mục đích duy trì công lý và trật tự xã hội. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, thực hiện quyền tư pháp chính là thực hiện quyền tư pháp hình sự, nghĩa là thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự và ở Nhà nước Việt Nam, quyền năng này được pháp luật quy định cho Tòa án. Theo quy định của Luật tổ chức TAND: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân…; trong thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự Tòa án có quyền: a) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, KSV, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp 12
  19. ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, VKS, KSV thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp; c) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung; yêu cầu VKS bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; d) Yêu cầu Điều tra viên, KSV và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; e) Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự” [34]. Như vậy có thể thấy rõ, thực hiện chức năng xét xử vụ án hình sự, nhiệm vụ đầu tiên đặt ra đối với Tòa án đó chính là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” và để thực hiện nhiệm vụ này, pháp luật đã quy định trao cho Tòa án “các quyền” mà không cơ quan, tổ chức nào có được và chỉ có Tòa án mới có được mà thôi. Thông qua việc thực hiện các quyền này, Tòa án nhân danh Nhà nước ra bản án kết luận bị cáo có tội hay không có tội và áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” trong đó đã đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch…; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [5]. Như vậy có thể nói, Tòa án được xác định là trung tâm trong quá trình cải cách tư pháp bởi Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng, phán quyết của Tòa thể hiện kết quả cuối cùng của quá trình tố tụng. Tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý, cũng là công cụ bảo vệ công lý, công bằng xã hội. 1.1.2.2. Các nguyên tắc hoạt động của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự * Nguyên tắc suy đoán vô tội Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện tại Hiến pháp năm 13
  20. 2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”[20, Điều 31, Khoản 1, tr.20] và tại Bộ luật TTHS: “Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”[20, Điều 9, tr.12]. Theo đó, nội dung cơ bản và quan trọng nhất của nguyên tắc này được hiểu: bị can, bị cáo phải được coi là không có tội khi mà lỗi của bị can, bị cáo đó chưa được chứng minh tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa xét xử theo một trình tự do pháp luật quy định và được xác định bởi một bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, nguyên tắc này cũng yêu cầu mọi nghi ngờ phải được giải thích theo hướng có lợi cho bị cạn, bị cáo; nếu có sự nghi ngờ mà không thể bổ sung gì hơn về chứng cứ thì phải tuyên bị cáo là vô tội. Chẳng hạn một người có hành vi phạm tội nhưng người này không đương nhiên bị coi là có tội khi thời điểm phát hiện ra tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Hay trong việc miễn trách nhiệm hình sự, khi quyết định miễn trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền đã phải chứng minh được người được miễn trách nhiệm hình sự là người phạm tội. Như vậy, một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà người trực tiếp quyết định bản án kết tội này chính là Thẩm phán. Từ nguyên tắc này, ta có thể thấy rõ vai trò của Thẩm phán trong TTHS nói chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Thẩm phán là người đại diện cho Tòa án khi thực hiện chức năng xét xử và chỉ có Tòa án, chứ không phải là một cơ quan nào khác, mới có thẩm quyền để thực hiện chức năng xét xử, chỉ có Tòa án mới được nhân danh Nhà nước để phán quyết những vấn đề liên quan khi thực hiện chức năng xét xử. * Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nguyên tắc này đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2