Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
lượt xem 3
download
Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện; Những quy định pháp luật Việt Nam về điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện; Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- NGUYỄN HOÀNG YẾN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- NGUYỄN HOÀNG YẾN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THANH DƯƠNG Hà Nội, năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN ............................................................ 7 1.1. Một số khái niệm cơ bản và đặc điểm điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện ........................................................................................ 7 1.2. Quy định chung về điều tra vụ án hình sự người chưa thành niên theo hướng dẫn của Liên Hợp Quốc ........................................................................ 18 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN ................. 26 2.1. Những quy định chung khi tiến hành tố tụng đối với người dưới 18 tuổi .................................................................................................................... 26 2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về thủ tục điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện ................................................ 32 Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ................................................. 47 3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tại thành phố Biên Hòa ......................... 47 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện .................................................................................................... 66 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta đã và đang diễn biến phức tạp, các đối tượng phạm tội ngày càng đa dạng hơn về tính chất hành vi phạm tội, phương thức thủ đoạn và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm trọng, nguy hiểm hơn. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội đó là những người chưa thật sự trưởng thành về cả nhận thức và hành động, có những hạn chế nhất định về thể chất và tâm lý. Do đó, nhằm tạo môi trường và điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của người dưới 18 tuổi, việc tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi phải đảm bảo tính thân thiện, sự tiếp xúc của cơ quan có thẩm quyền với họ phải mang tính tích cực, hỗ trợ vượt qua khó khăn, nhận thức được hành vi sai lầm của bản thân từ đó tránh mắc phải sai lầm tương tự trong tương lai, trở thành người có ích cho xã hội. Quá trình tiến hành TTHS nói chung và điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng luôn là vấn đề được quan tâm trong cơ chế ban hành và áp dụng pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có những nỗ lực và thành công nhất định trong việc nội luật hóa những quy định pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc gia, đồng thời luôn cố gắng xây dựng và hoàn hiện các quy định của pháp luật hiện hành, hoàn thiện nền tư pháp vừa đảm bảo trật tự, an toàn và công bằng nhưng vẫn tạo cơ hội để người dưới 18 tuổi phạm tội được tham gia vào quá trình tố tụng thân thiện. Qua nghiên cứu, đánh giá thì việc tiến hành điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện còn mang nặng tính hình thức, tồn tại một số bất cập, thiếu sót nhất định, ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng của quá trình tố tụng như: quy định pháp luật liên quan đến điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện còn thiếu thống nhất, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình áp dụng; khó khăn trong đánh giá tiêu chuẩn của chủ thể tiến 1
- hành hoạt động điều tra đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, chưa đảm bảo được quyền lợi cho họ, … Thành phố Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai là một trong những thành phố có vị trí kinh tế cửa ngõ của khu vực Đông Nam Bộ, giáp ranh với các tỉnh, thành phố phát triển nhanh như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương,… nên trên địa bàn cũng xuất hiện nhiều hành vi phạm tội với số lượng vụ và người phạm tội lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi và liều lĩnh hơn, trong đó đáng chú ý là phạm tội có xu hướng trẻ hóa. Do đó, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải nắm vững và vận dụng chính xác các quy định của pháp luật đối với người phạm tội là người dưới 18 tuổi, đặc biệt trong điều tra VAHS nhằm đảm bảo cao nhất quyền lợi cho người dưới 18 phạm tội. Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết các VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn thành phố Biên Hòa còn nhiều bất cập, hạn chế của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra VAHS, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất và nhân lực,… để đảm bảo thực hiện thủ tục điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Từ những bất cập, hạn chế trên, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định pháp luật liên quan điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hoạt động này trong thực tiễn. Vì những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thủ tục TTHS đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi nói chung và điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng đã được khai thác ở khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học, chủ yếu thể hiện dưới dạng các luận văn và sách chuyên khảo cũng như trong các bài viết ở các tạp chí chuyên ngành. Có thể kể đến một số công trình nổi bật như: Lê Thị Mỹ Vân 2
- (2017), “Thủ tục tố tụng đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật TP.HCM, Thủ tục tố tụng đối với bị can dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Tuấn Dũng, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020. Đây là luận văn ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu về thủ tục tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi theo quy định của BLTTHS 2015; Phạm Văn Hùng (2008), “Hệ thống điều tra thân thiện với người chưa thành niên”, Nghiên cứu lập pháp; Lê Minh Thắng (2011), “Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự”, Nhà nước và pháp luật; Lê Minh Thắng (2011), “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội – Nhìn từ phương diện tội phạm học và trách nhiệm xã hội”, Dân chủ và pháp luật; Lê Huỳnh Tấn Duy (2016), “Quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học pháp lý; Nguyễn Hữu Thế Trạch (2013), “Thủ tục tố tụng thân thiện đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên”, Tạp chí khoa học pháp lý, “Đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Lư Kế Trường, Học viện Khoa học xã hội bảo vệ năm 2020, “Cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động điều tra vụ án hình sự” của Lê Trọng An; Tạp chí Tạp chí Quản lý Nhà nước (2021), “ Kinh nghiệm thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Lê Xuân Quang”; (2021), “Những vướng mắc trong đối chất và thực nghiệm điều tra vụ án hình sự” của Lê Đình Nghĩa; Tạp chí Kiểm sát - 2021 - no.7 - tr.36-40, “Bảo đảm quyền của bị can chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” của Bùi Hạnh Phúc; Tạp chí Tạp chí Công Thương - 2020 - no.12 - tr.23-28, “Về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” của Hoàng Anh Tuyên; // Kiểm sát - 2019 - no.24 - tr.9-14, “Một số vướng mắc về thực nghiệm điều tra vụ án hình sự” của Lê Văn Quang; Tạp chí Kiểm sát - 2019 - no.18 - tr.45-47… 3
- Các công trình khoa học nói trên phần nào đã đưa ra các quan điểm khoa học, nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi, trong đó nhấn mạnh thủ tục điều tra thân thiện. Trên thực tiễn, tình hình tội phạm trên thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai có xu hướng trẻ hóa, đòi hỏi cần có một quá trình tố tụng đặc biệt nhằm đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của họ. Do đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhất là giai đoạn điều tra VAHS trên địa bàn thành phố Biên Hòa là một vấn đề quan trọng và cần thiết trên địa bàn góp phần trong công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Do vậy, đề tài “Điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” là đề tài mới, lần đầu được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 .Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ quy định pháp luật TTHS Việt Nam về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện và thực tiễn áp dụng tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu hoạt động này trong thời gian tới. 3.2 .Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn cần giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể sau: - Khái quát một số khái niệm cơ bản về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện, tìm hiểu mô hình điều tra thân thiện theo hướng dẫn của Liên Hợp quốc. - Phân tích làm rõ quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện và một số vấn đề có liên quan. 4
- - Khảo sát làm rõ thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. - Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 .Đối tượng nghiên cứu: Quy định của pháp luật TTHS và thực tiễn áp dụng các quy định trong điều tra các VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện. 4.2 .Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. - Về thời gian: từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê-Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện. Triển khai thực hiện luận văn, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm hệ thống những vấn đề có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của Luận văn như: quy định của pháp luật TTHS Việt Nam liên quan đến điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện, văn bản báo cáo, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bản thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai… - Phương pháp thống kê so sánh: Đây là phương pháp rất quan trọng, phục vụ cho việc đưa ra nhận định, kết luận trong luận văn, từ đó có phương hướng xử lý, giải quyết thích hợp. Trên cơ sở những báo cáo thống kê, những 5
- số liệu thực tế đã thu thập được, tác giả tiến hành so sánh với thực tiễn để đối chiếu, phân tích và đưa ra nhận định, đánh giá phù hợp với vấn đề đã lựa chọn nghiên cứu của luận văn. - Phương pháp phân tích tổng hợp: Tác giả phân tích, tổng hợp các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận văn; tài liệu, số liệu từ nhiều nguồn khác nhau liên quan điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện để xây dựng các luận cứ về lý luận, luận chứng trong nghiên cứu thực trạng, từ đó rút ra nhận xét, đánh giá làm căn cứ để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1 .Ý nghĩa lý luận Luận văn nhằm góp phần hoàn thiện lý luận các quy định của pháp luật TTHS về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy pháp luật TTHS. Dưới góc độ thực tiễn, kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao hiệu quả điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 7. Kết cấu của luận văn Nội dung của luận văn bao gồm lời nói đầu, nội dung chính, kết luận chung, danh mục tài liệu tham khảo và bảng phụ lục. Phần nội dung chính được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận về điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện Chương 2. Những quy định pháp luật Việt Nam về điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện Chương 3. Thực tiễn thi thành pháp luật tố tụng hình sự về điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và một số giải pháp nâng cao hiệu quả 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN 1.1. Một số khái niệm cơ bản và đặc điểm điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1.1. Điều tra vụ án hình sự Khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử là những giai đoạn trong quá trình tiến hành tố tụng của một VAHS được thực hiện bởi các cơ quan/người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS. Mỗi một giai đoạn đều có những giá trị pháp lý và ý nghĩa khác nhau trong việc giải quyết VAHS, giúp các cơ quan/người có thẩm quyền nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm và người phạm tội. Theo khoa học pháp lý định nghĩa: điều tra VAHS là giai đoạn của TTHS. Trong đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành hành các hoạt động tìm kiếm, phát hiện, thu giữ, bảo quản nguồn chứng cứ theo quy định của pháp luật TTHS để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc truy tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án [29]. Từ định nghĩa trên có thể rút ra một số đặc điểm của điều tra VAHS như: đây là một giai đoạn TTHS độc lập của quá trình tố tụng bắt đầu từ khi ra quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc bản kết luận điều tra đề nghị truy tố; chủ thể chính tiến hành là các CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; nội dung của điều tra VAHS là áp dụng mọi biện pháp điều tra cần thiết trong TTHS để thu thập chứng cứ làm rõ mọi vấn đề để xử lý đúng đắn và khách quan vụ án. 7
- Giai đoạn điều tra VAHS có những nhiệm vụ chính: thu thập chứng cứ để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc truy tố, góp phần đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; xác định chính xác tính chất, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra tạo cơ sở cho Tòa án xét xử và quyết định mức bồi thường thiệt hại được xác định; áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để ngăn chặn tội phạm, kịp thời khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra và phát hiện kịp thời những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Điều tra VAHS có vai trò trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và xác định người thực hiện hành vi phạm tội thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời góp phần loại trừ một số tiêu cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn TTHS tiếp theo. Đây là một giai đoạn TTHS cơ bản và quan trọng thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân quyền, các quyền lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. 1.1.1.2. Người dưới 18 tuổi Hiện nay, người CTN phạm tội là một hiện tượng, một thực tế tồn tại ở các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong pháp luật hình sự quốc tế chưa có khái niệm chính thức về “Người chưa thành niên”, thuật ngữ “Người chưa thành niên” là một thuật ngữ có nhiều cách hiểu khác nhau trong các văn bản pháp lý quốc tế, chẳng hạn như: Theo Điều 2 Quy tắc Bắc Kinh [19] quy định: “Người chưa thành niên là trẻ em hoặc thanh thiếu niên mà tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội, theo một phương thức khác với người lớn”. 8
- Trong khi đó, Điều 1 Công ước về Quyền trẻ em [13] lại định nghĩa: “Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Tại Điều 11(a) trong văn bản “Những quy tắc của LHQ về việc bảo vệ người CTN bị tước quyền tự do 1990 (Quy tắc Havana)” quy định: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên” [18]. Như vậy, thuật ngữ “người chưa thành niên” theo hướng dẫn này lại tương đồng với thuật ngữ “trẻ em” trong Công ước về quyền trẻ em, theo đó, “người chưa thành niên” là người dưới 18 tuổi. Ngoài ra, Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) cũng xác định“tất cả người dưới 18 tuổi nên được xử lý như người chưa thành niên” [14]. Tóm lại, pháp luật quốc tế chưa có khái niệm thống nhất về người CTN. Thông qua việc nghiên cứu các văn bản quốc tế về người CTN có thể thấy khi xây dựng khung pháp lý cho đối tượng đặc biệt này pháp luật quốc tế dựa vào đặc điểm tâm – sinh lý của họ, đồng thời đưa ra giới hạn độ tuổi đối với người CTN ở mức dưới 18 tuổi nhất định nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của họ trong hệ thống tư pháp hình sự. Các quốc gia thành viên có thể dựa vào khung pháp lý này nội luật hóa thành các quy định pháp luật quốc gia để xác định độ tuổi phù hợp cho khái niệm người CTN tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội của quốc gia mình. Ở nước ta, khái niệm người CTN được quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật như: Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám 9
- tuổi là người chưa thành niên.” Bộ luật dân sự 2015 tiếp tục kế thừa quy định này khẳng định người CTN là người chưa đủ mười tám tuổi [22]. Bên cạnh đó, tại Điều 161 Bộ luật lao động 2012 cũng quy định “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLTTHS 2015), nhà làm luật không sử dụng thuật ngữ “người chưa thành niên” mà trực tiếp thay thế bằng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi”. Như vậy, trong pháp luật TTHS Việt Nam xác định người CTN là người dưới 18 tuổi. Việc thay đổi này về bản chất không có gì thay đổi song với việc khẳng định người CTN là người dưới 18 tuổi giúp việc áp dụng pháp luật đối với đối tượng này được xác định cụ thể, rõ ràng, áp dụng pháp luật thống nhất. Phạm vi áp dụng thủ tục TTHS đối với người dưới 18 tuổi bao gồm người bị buộc tội, người bị hại và người làm chứng là người dưới 18 tuổi [27]. Như vậy, thuật ngữ người CTN được sử dụng “kép” vừa là chủ thể của tội phạm (người bị buộc tội), vừa là đối tượng tác động của tội phạm (người bị hại, người làm chứng). Dưới góc độ là chủ thể của tội phạm, độ tuổi của người 18 tuổi bị buộc tội có phạm vi hẹp hơn so với các ngành luật khác. Bởi vì pháp luật hình sự quy định tuổi tối thiểu chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi [24], do đó, với tư cách là chủ thể của tội phạm thì người dưới 18 tuổi có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Qua nghiên cứu các quy định của văn bản pháp lý khác nhau từ quốc tế cho đến pháp luật Việt Nam, tuy đưa ra nhiều khái niệm khác nhau, không quy định thống nhất nhưng tóm lại trong TTHS, thuật ngữ “người chưa thành niên” nên được hiểu là người dưới 18 tuổi. 1.1.1.3. Điều tra thân thiện Quá trình giải quyết VAHS, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói chung và người phạm tội là người dưới 18 tuổi nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan/người 10
- có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong đó, giai đoạn điều tra VAHS cũng là một giai đoạn tố tụng hình sự mà quyền con người nói chung và những quyền đặc biệt của người dưới 18 tuổi nói riêng dễ bị xâm phạm nhất. Xuất phát từ yêu cầu đó, quá trình điều tra điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện được đặc biệt chú trọng, đòi hỏi các nhà làm luật cần xây dựng trình tự và cách thức thực hiện các hành vi và hoạt động tố tụng hình sự đặc biệt đối với VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện. Trên thực tế, trong các văn bản pháp lý của LHQ và pháp luật TTHS Việt Nam không có khái niệm cụ thể thế nào là “điều tra thân thiện” hay “điều tra nhạy cảm”. Tuy nhiên, khái niệm này ngày càng phổ biến và được nhắc đến nhiều trong đời sống pháp lý quốc tế. Theo đó, ĐTTT được hình thành dựa trên các chuẩn mực quốc tế được quy định trong các văn bản pháp lý như: Công ước của LHQ về quyền trẻ em (1989), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về Tư pháp người chưa thành niên (1985), Bộ quy tắc ứng xử cho các nhân viên thực thi pháp luật (1979), Hướng dẫn phòng, chống tội phạm ở người CTN (1990), Quy tắc về bảo vệ người CTN bị tước đoạt quyền tự do (1990), Hướng dẫn của LHQ về các vấn đề tư pháp liên quan tới nạn nhân và nhân chứng trẻ em (2005),.. Qua các văn kiện và thông lệ quốc tế, các quan điểm khoa học nêu ra hai hướng tiếp cận về khái niệm ĐTTT như sau: “Thứ nhất, ĐTTT được tiếp cận như một thiết chế tố tụng tiền xét xử với yếu tố bộ máy, nhân lực, cơ sở vật chất và phương thức làm việc với người CTN trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ; Thứ hai, ĐTTT là phương thức tiến hành tố tụng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN tham gia tố tụng với sự ghi nhận quyền của họ đồng thời với việc ghi nhận trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng” [11]. Theo cả hai cách tiếp cận thì mô hình ĐTTT chỉ được đặt ra khi có sự tham gia tố tụng của người CTN. Trong cách tiếp cận thứ nhất coi ĐTTT là 11
- quá trình điều tra VAHS, trong đó các cơ quan/người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, đề ra các phương thức xử lý các vấn đề trong vụ án phù hợp dựa vào các yếu tố như hệ thống pháp luật, người tiến hành tố tụng, cơ sở vật chất để trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng tối đa các quyền của người CTN, làm tiền đề phục vụ cho giai đoạn xét xử được chính xác và khách quan. Trong khi cách tiếp cận thứ hai xem ĐTTT là phương thức đối xử với người CTN, phương thức xử lý các vấn đề trong vụ án người CTN, chính tên gọi ĐTTT đã quy định nội hàm, bản chất của mô hình điều tra này. Tuy nhiên, để thực hiện được những phương thức cần đòi hỏi các điều kiện về hệ thống pháp luật, bộ máy nhà nước, con người tiến hành tố tụng, cơ sở vật chất… mà cách tiếp cận thứ nhất đưa vào nội dung khái niệm. Đây được xem là những yếu tố điều kiện để bảo đảm cho mô hình ĐTTT. Như vậy, có thể thấy mô hình ĐTTT xuất phát từ nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em: “Mọi trẻ bị cáo buộc, buộc tội hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của người khác, và giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về sự tái hòa nhập cộng đồng” [13]. Trong đó, nhấn mạnh đến phương thức đối xử của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với người CTN theo hướng tôn trọng danh dự, nhân phẩm cho họ. Trong mối quan hệ này, đặt ra yêu cầu trước hết trách nhiệm, nghĩa vụ đối xử của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chính là phương thức cho các quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN được bảo đảm. Qua nghiên cứu nhiều quan điểm khác nhau, tác giải nhất trí với khái niệm sau: “Điều tra thân thiện là phương thức điều tra được tiến hành theo những nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, cân nhắc nhu cầu và quan điểm của 12
- người chưa thành niên, cân bằng quyền được bảo vệ của họ với luật pháp quốc gia và lợi ích của cộng đồng” [10]. 1.1.1.4. Điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra định nghĩa về điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện như sau: Điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện được hiểu là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó các cơ quan/người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để xác định hành vi phạm tội của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử nhằm giải quyết khách quan, đúng đắn vụ án hình sự và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Thông qua định nghĩa này sẽ cung cấp cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng hơn về nội hàm của điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu các vấn đề phía sau. 1.1.2 Đặc điểm điều tra vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện Điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện là quá trình điều tra VAHS được áp dụng đối với chủ thể đặc biệt thực hiện hành vi phạm tội người dưới 18 tuổi, do đó quá trình điều tra này có những đặc điểm riêng so với điều tra VAHS thông thường: Thứ nhất, các quy định pháp luật về điều tra VAHS do người dưới 18 thực hiện có mối quan hệ chặt chẽ, gắn liền và không thể tách rời với những quy định chung về điều tra VAHS. Tại Điều 413 BLTTHS năm 2015, sửa đổ bổ sung năm 2017 (BLTTHS 2015) quy định thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được áp dụng theo quy định của Chương XXVIII BLTTHS, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật nhưng không trái với quy định của Chương XXVIII. Như đã phân tích ở trên điều tra VAHS nói chung và điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi nói riêng là một giai đoạn của quá trình tố tụng. Do đó, khi thực hiện các hoạt động điều tra VAHS do người 13
- dưới 18 tuổi thực hiện trước hết phải đảm bảo được tiến hành theo các quy định chung giống nhau như: thẩm quyền điều tra, thời hạn điều tra, các hoạt động điều tra, các biện pháp ngăn chặn…Tuy nhiên, đối tượng của hoạt động điều tra này khá đặc biệt là người dưới 18 tuổi phạm tội nên ngoài áp dụng các quy định chung nêu trên khi tiến hành hoạt động điều tra còn tuân theo một số quy định đặc trưng, riêng biệt so với điều tra VAHS thông thường. Như vậy, điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện có mối quan hệ gắn bó và không thể tách rời với điều tra VAHS thông thường. Điều này có nghĩa khi điều tra các VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện ngoài việc phải tuân thủ các quy định về thủ tục đặc biệt còn bắt buộc phải tuân theo quy định điều tra thông thường. Thứ hai, đối tượng áp dụng điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên không phải người nào từ đủ 14 tuổi cũng chịu trách nhiệm hình sự, mà còn phụ thuộc vào loại tội phạm, cụ thể: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự [25]. Việc xác định tuổi của người phạm tội dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu như giấy chứng sinh; giấy khai sinh; chứng minh nhân dân; thẻ căn cước công dân; sổ hộ khẩu; hộ chiếu. Trong trường hợp các giấy tờ, tài liệu này có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan/người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phối hợp với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh làm rõ mâu 14
- thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của người đó. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể để xác định tuổi của họ [27]: - Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. - Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh. - Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. - Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh. - Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi. Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ xác định được khoảng độ tuổi của người bị buộc tội, người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi của họ. Theo quy định của pháp luật TTHS, việc xác định độ tuổi của người tham gia tố tụng nói chung và người phạm tội nói riêng làm cơ sở xác định thời điểm áp dụng các thủ tục tố tụng. Điều này được hiểu là, tại thời điểm áp dụng các quy định về điều tra VAHS mà người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thì được áp dụng các quy định điều tra đặc thù so với người đủ 18 tuổi phạm tội. Thứ ba, với đối tượng điều tra đặc biệt là người dưới 18 tuổi đòi hỏi cần có cách thức điều tra riêng biệt, đặc biệt là trong tiến hành các hoạt động tố tụng. Chính vì vậy, điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện có 15
- những điểm khác biệt so với điều tra VAHS do người đủ 18 thực hiện, cụ thể như sau: Về người tiến hành tố tụng: khi tiến hành điều tra các VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện, người tiến hành tố tụng bên cạnh tuân thủ các quy định chung về điều kiện, thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nghiệm do BLTTHS 2015 quy định, họ còn phải đáp ứng một số điều kiện như đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết cần thiết về tâm lý khoa học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi [27]. Về các vần đề cần được chứng minh: người tiến hành tố tụng điều tra VAHS do người dưới 18 tuổi ngoài chứng minh các vấn đề được quy định tại Điều 85 BLTTHS 2105 thì cần phải xác định rõ một số vấn đề: Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi; điều kiện sinh sống và giáo dục của họ; có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục phạm tội; nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội [27]. Về biện pháp giám sát, biện pháp ngăn chặn: người tiến hành tố tụng có thể ra quyết định giao người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền [27]. Trong các trường hợp thật cần thiết người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi mới bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp áp giải. Đồng thời, luật quy định trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định áp dụng các biện pháp này đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, cơ quan điều tra phải thông báo cho người đại diện của họ biết. Và việc áp dụng này tuân thủ các quy định về điều kiện áp dụng, thời gian áp dụng, các trường hợp cụ thể được áp dụng tùy vào từng độ tuổi của người bị buộc tội [27]. Về sự tham gia của người bào chữa, người đại diện, nhà trường, tổ chức: quá trình điều tra các VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện, một số 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 76 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 103 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam
91 p | 54 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng án treo từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
76 p | 70 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn