intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

26
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với các tội phạm về ma túy nói riêng, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VIẾT HUẤN ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VIẾT HUẤN ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, nội dung cũng như các số liệu trích dẫn trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết quả trong luận văn chưa từng được công trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Tác giả luận văn Nguyễn Viết Huấn
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ............................................................................. 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh các tội phạm về ma túy ........................................................................................... 8 1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội phạm về ma túy ..................... 13 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG ...................................... 20 2.1. Khái quát tình hình các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ......................................................................................................................... 20 2.2. Thực tiễn định tội danh các tội phạm về ma túy trên đại bàn tỉnh Cao Bằng ................................................................................................................ 38 Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ....................................... 53 3.1. Các yêu cầu hoàn thiện pháp luật về định tội danh các tội phạm về ma túy .................................................................................................................... 53 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về định tội danh các tội phạm về ma túy .................................................................................................................... 55 3.3. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội phạm về ma túy .......... 64 KẾT LUẬN .................................................................................................... 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TAND Tòa án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự VAHS Vụ án hình sự
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Số vụ và số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm về các tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018) .............................................. 20 Bảng 2.2. Tỷ lệ các tội phạm về ma túy trong tổng số tội phạm nói chung đã được xét xử trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018) .......................... 21 Bảng 2.3. So sánh số vụ phạm tội về ma túy với số vụ phạm tội nói chung và một số nhóm tội khác trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018) .......... 22 Bảng 2.4. So sánh số bị cáo phạm tội về ma túy với số bị cáo phạm tội nói chung và một số nhóm tội khác trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (2014 - 2018) 23 Bảng 2.5. Cơ cấu theo tội danh ..................................................................... 26 Bảng 2.6. Cơ cấu của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS) theo hành vi phạm tội .............. 26 Bảng 2.7. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội....................................................... 27 Bảng 2.8. Cơ cấu theo loại chất ma túy bị thu giữ ...................................... 29 Bảng 2.9. Cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã được áp dụng ................. 29 Bảng 2.10. Cơ cấu theo hình thức phạm tội ................................................. 30 Bảng 2.11. Cơ cấu theo động cơ phạm tội ................................................... 31 Bảng 2.12. Cơ cấu theo nghề nghiệp của người phạm tội........................... 31 Bảng 2.13. Cơ cấu theo đặc điểm về lý lịch tư pháp của người phạm tội .. 33 Bảng 2.14. Cơ cấu theo đặc điểm người phạm tội là người nghiện hay không nghiện ma túy ...................................................................................... 34 Bảng 2.15. Cơ cấu theo trình độ học vấn của người phạm tội .................... 35 Bảng 2.16. Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội ................................... 35 Bảng 2.17. Cơ cấu theo giới tính của người phạm tội ................................. 36 Bảng 2.18. Cơ cấu theo đặc điểm dân tộc của người phạm tội ................... 37 Bảng 2.19. Tội danh do các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đối với các vụ án về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng từ năm 2014-2018 ................. 38
  7. Bảng 2.20. Số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết sơ thẩm các vụ án về ma túy của TAND hai cấp tỉnh Cao Bằng (2014-2018)..................................... 40 Bảng 2.21. Số liệu thống kê giải quyết phúc thẩm các vụ án về ma túy của TAND tỉnh Cao Bằng (2014-2018) ............................................................... 41
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã có những quy định rất rõ về người bị buộc tội qua đó làm căn cứ để các Nhà làm luật xây dựng các quy định về định tội danh cho người có tội. Như vậy, điều đó có nghĩa chừng nào chưa có bản án kết tội của TAND đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa có tội. Một người khi thực hiện các hành vi của bản thân với tư cách từ “người phạm tội” trở thành “người có tội” nhất định phải có một bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của TAND và được chứng minh theo trình tự luật định. Phán quyết của TAND mang tính tuyệt đối vì xét xử là hoạt động của TAND nhằm đưa ra phán quyết cuối cùng mà quyết định này liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng nhất như tự do, danh dự, tài sản, nhân thân, thậm chí cả tính mạng con người. Do đó, để TAND các cấp xem xét và xét xử sau đó đưa ra một bản án công bằng, có căn cứ và đúng pháp luật đòi hỏi việc định tội danh và quyết định hình phạt là các hoạt động cơ bản và quan trọng mang tính quyết định, xác định một người có tội hay không có tội. Vì thế, công tác định tội danh của TAND các cấp được thực hiện đúng không những để quyết định hình phạt đúng, mà còn phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và tự do của con người, của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Ngược lại, nếu TAND các cấp thực hiện việc định tội danh cho người có tội sai sẽ dẫn đến một loại hậu quả tiêu cực như: không bảo đảm được tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật của hình phạt do TAND quyết định, truy cứu TNHS người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo danh dự và nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân…, làm giảm uy 1
  9. tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và TAND, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Thực tiễn xét xử các VAHS cho thấy, hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy. Trong giai đoạn qua, tình hình tội phạm về ma túy trên thế giới nói chung và Việt Nam có sự biến đổi cả về số lượng và tính chất các vu ̣án, số đối tượng và số lượng ma túy, diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nghiêm trọng đến an ninh, trật tự chung của xã hội cũng như sức khỏe của cộng đồng, người dân với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. Trong quy định của pháp luật hình sự hiện hành có khá nhiều trường hợp khi tập hợp các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm có những dấu hiệu giống nhau nên thường dễ bị lúng túng gây nhiều tranh cãi và dẫn đến định tội danh thiếu chính xác. Bên canḥ đó, các quy định trong BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đều có các ý kiến đề nghị sửa đổi các tội phạm về ma túy, điều đó cho thấy xung quanh tội này còn nhiều vấn đề cần được tiếp tiếp tục trao đổi, nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn để hoàn thiện hơn nữa các tội phạm về ma túy, tạo điều kiện cho việc định tội danh được chính xác. Trong thời gian từ năm 2013 đến hết năm 2018, TAND cấp tỉnh cũng như cấp huyện tỉnh Cao Bằng đã nhận thức rõ được tầm quan trọng, tính cấp thiết và không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử đúng người đúng tội các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm bảo các quyết định của TAND đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao và có tính khả thi đặc biệt đối với định tội danh các tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác 2
  10. xét xử vẫn còn một số ít các cá nhân, trường hợp thực hiện, áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội cũng như sự ảnh hưởng đến xã hội của tội phạm ma túy nên dẫn đến việc định tội danh cho các tội phạm về ma túy còn thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại ở các tội phạm về ma túy. Với lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Định tội danh các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả tìm đọc các tác phẩm khoa học về tội phạm ma túy cũng như định tội danh đối với loại tội phạm này, cụ thể: Cuốn sách “Định tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành)”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 của GS.TSKH. Lê Văn Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản cho thấy đó là những nghiên cứu lý luận chung về định tội danh mà không có công trình nào định tội danhđối với một nhóm tội phạm cụ thể. Còn trong nước, người viết chia thành các nhóm vấn đề sau: Nhóm thứ nhất - Hệ thống các giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo liên quan đến vấn đề định tội danh và tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, có thể kể đến các công trình sau:GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, Chương I - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003 và 2007; PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999; GS.TS. Võ Khánh Vinh, Giáo trình Lý luận chung về định tội danh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tái bản năm 2010; 3
  11. Nhóm thứ hai - Hệ thống các luận văn, luận án tiến sĩ luật học, nói chung, chỉ có một số công trình đề cập riêng rẽ đến vấn đề định tội danh hoặc về các tội phạm về ma túy như: Nguyễn Thanh Dung, định tội danh đối với các tội phạm về ma túy, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; Đoàn Thị Thu Thúy, định tội danh đối với các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Đắc Lắk, luận văn Thác sĩ luật học, Học viên Khoa học xã hội Việt Nam, 2018… Nhóm thứ ba - Hệ thống các bài viết khoa học, đề tài nghiên cứu khoa học và trên Tạp chí TAND và một số tạp chí khác cũng đăng nhưng chỉ mang tính chất đơn lẻ và phân tích các dấu hiệu pháp lý giữa các tội phạm, cũng như định tội danh đối với từng vụ án cụ thể, như: Phan Anh Tuấn, định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001; Nguyễn Thị Hợp, Pháp luật về xác định tội danh và thực tiễn áp dụng, Tạp chí TAND, số 15/2011; Như vậy, những bài nghiên cứu hoặc một số công trình sách báo đã nêu mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động định tội danh và thực tiễn định tội danh; phân tích, đánh giá một số nhận định liên quan đến yếu tố định tội danh…Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh đối với các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với các tội phạm về ma túy nói riêng, cũng như đánh giá 4
  12. thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, từ đó đưa ra đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy trên địa bàn Cao Bằng nói riêng, cả nước nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về định tội danh các tội phạm về ma túy; phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy; cũng như các giai đoạn định tội danh đối với các tội phạm về ma túy; - Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản; - Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy từ thực tiễn Cao Bằng nói riêng, cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động định tội danh đối với các tội phạm về ma túy của TAND các cấp tỉnh Cao Bằng 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với các tội phạm về ma túy theo luật hình sự Việt Nam (như: khái niệm, phân loại, cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học, các giai đoạn của việc định tội danh đối với tội phạm này), đánh giá thực tiễn định tội 5
  13. danh các tội phạm về ma túy (Theo Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015). Về không gian: trên địa bàn tỉnh Cao Bằng Về thời gian: trong giai đoạn 05 năm từ 2014 - 2018 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các lý luận về khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách pháp luật hình sự; quan điểm, đường lối xử lý đối với các tội phạm nói chung và các tội phạm về ma túy nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cấp TAND tối cao và TAND tỉnh Cao Bằng để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân hiện nay, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với các tội phạm về ma túy nói riêng trên địa bàn tỉnh Cao Bằng góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận về định tội danh trong pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, lý luận về định tội danh đối với một tội phạm 6
  14. cụ thể - các tội phạm về ma túy nói riêng, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự xã hội. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh đối với các tội phạm về ma túy nói riêng tại TAND các cấp ở địa phương từ những thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Cao Bằng, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền và tự do của con người nói riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật trong thực tiễn giải quyết các VAHS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh đối với các tội phạm về ma túy Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với các tội phạm về ma túy tại tỉnh Cao Bằng. Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng đối với các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Cao Bằng 7
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh các tội phạm về ma túy 1.1.1. Khái niệm định tội danh các tội phạm về ma túy Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là hoạt động nhận thức mang tính logic, để hoạt động nhận thức này được tiến hành một cách hiệu quả, chủ thể nhận thức. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, đề tài luận văn làm rõ hơn các nội dung về các tội phạm ma túy. Cụ thể, các hành vi được xác định là cấu thành thành tội phạm về ma túy: Hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (Điều 192); Các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý; chiếm đoạt chất ma tuý (Điều 193, Điều 194); Các hành vi tổ chức sử dụng trái phép, chứa chấp việc sử dụng trái phép, cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197, 198, 200); Các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý (Điều 195); Các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 196); Hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác (Điều 201). Theo quy định của BLHS năm 2015 thì thấy hầu hết các các tội phạm về ma túy đều được quy định là tội phạm có cấu thành hình thức nên hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm. 8
  16. Về độ tuổi chịu TNHS, theo quy định tại Điều 12 BLHS 1999 thì: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, về độ tuổi chịu TNHS thì đối với các tội tại Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển tráiphép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) là từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, còn lại đối với các tội phạm về ma túy khác thì độ tuổi chịu TNHS là đủ 16 tuổi. Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh thì định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định [50, tr.27]. Do đó dưới góc độ khoa học luật hình sự, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn theo quan điểm của học viên thì định tội danh có thể được hiểu là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và TAND), người tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, từ đó xác định một người có phạm tội hay không, và phạm tội theo điều luật nào của BLHS. 9
  17. Từ những phân tích trên và trên cơ sở khái niệm định tội danh, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn có thể hiểu về định tội danh các tội phạm về ma túy như sau: định tội danh các tội phạm về ma túy là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án, nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội trên thực tế với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm về ma túy, được quy định trong Chương XVIII từ Điều192 đến Điều 201 của BLHS năm 1999 (Chương XX từ Điều 247 đến 259 của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017), từ đó xác định một người có phạm tội về ma túy hay không và phạm tội theo điều luật nào của Chương này. 1.1.2. Đặc điểm định tội danh các tội phạm về ma túy Định tội danh các tội phạm về ma túy là định tội danh đối với một loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành của một quốc gia và là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan liên quan. Định tội danh các tội phạm về ma túy liên quan đến nhiều vấn đề trong đó liên quan rất nhiều đến vấn đề chứng cứ đã được thu thập, kiểm tra, đánh giá. Định tội danh đối với tội phạm về ma túy có những đặc điểm được dựa trên những đặc điểm đặc trưng của tội phạm ma túy; Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy phải dựa vào cấu thành tội phạm vật chất của tội phạm được quy định trong BLHS. Định tội danh đối với tội phạm về ma túy phải được tiến hành trước, trên cơ sở đó mới có thể tiến hành được việc quyết định hình phạt. 10
  18. 1.1.2. Phân loại các trường hợp định tội danh các tội phạm về ma túy “Trong lý luận về Luật Hình sự căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh và hậu quả của việc định tội danh, người ta phân biệt thành hai loại định tội danh:định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức” [50, tr.27]. Như vậy, theo cách tiếp cận này, có thể phân chia định tội danh các tội phạm về ma túy ma túy làm hai dạng: định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức. 1.1.2.1. Định tội danh chính thức các các tội phạm về ma túy Định tội danh chính thức đối với tội phạm về ma túy là hoạt động mang tính tổ chức - quyền lực Nhà nước, chủ thể tiến hành hình thức định tội danh này được quy định trong BLTTHS, đó là các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. 1.1.2.2. Định tội danh không chính thức các tội phạm về ma túy Chủ thể tiến hành định tội danh không chính thức đối với tội phạm về ma túy có thể là bất kỳ ai quan tâm đến VAHS và nắm được các tình tiết của vụ án đó, tuy nhiên chủ thể phổ biến của hoạt động định tội danh không chính thức đối với tội phạm về ma túy là các nhà khoa học, những người đang nghiên cứu luật hình sự [50]. Kết quả của định tội danh không chính thức đối với tội phạm về ma túy không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của người bị định tội danh vì không xuất phát từ quyền lực nhà nước và không đại diện choquyền lực nhà nước nên chủ thể của hoạt động định tội danh không chính thức không có quyền áp đặt các biện pháp cưỡng chế cho kết quả định tội danh của mình. 11
  19. 1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh các tội phạm về ma túy Định tội danh đối với tội phạm về ma túy là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp luật.định tội danh đúng đối với các tội phạm về ma túy có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý rất lớn. 1.1.3.1. Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội Định tội danh đối với tội phạm về ma túy nhằm mục đích bảo vệ quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, bảo vệ an ninh và trật tự xã hội; định tội danh đối với tội phạm về ma túy góp phần đưa các quy định của pháp luật, nhất là quy định của BLHS vào thực tiễn cuộc sống. Không chỉ có tính chất chính trị, định tội danh đối với tội phạm về ma túy còn là hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, thể hiện qua một số khía cạnh cụ thể sau đây: Thông qua định tội danh đối với tội phạm về ma túy, Nhà nước ta thực hiện nghiêm những cam kết quốc tế về quyền con người thông qua việc bảo đảm về an toàn và an ninh, trật tự xã hội đấu tranh phòng chống lại hành vi phạm tội này. 1.1.3.2. Ý nghĩa về phương diện pháp lý Đối với pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự: hoạt động định tội danh đối với tội phạm về ma túy của TAND các cấp là cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử đúng, xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử cũng như thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù hợp với quy định của BLTTHS hiện hành đối với người phạm tội nói chung Đối lập với định đúng tội danh là trường hợp có sự sai lầm trong định tội danh đối với tội phạm về ma túy. Định tội danh sai không chỉ làm choviệc quyết định hình phạt không đúng, không công bằng, xâm phạm đến 12
  20. quyền con người, quyền công dân mà còn dẫn đến việc áp dụng pháp luật hình sự không có căn cứ, trái pháp luật. 1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội phạm về ma túy Có nhiều quan điểm của các nhà luật học về các căn cứ pháp lý của định tội danh: Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì những căn cứ pháp lý của định tội danh được hiểu dưới hai khía cạnh rộng và hẹp: “Ở khía cạnh rộng thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở duy nhất (trực tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm. 1.2.1. Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh các tội phạm về ma túy Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh đối với tội phạm về ma túy làcác văn bản pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự, mà trước hết và chủ yếu là BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành. BLHS là cơ sở pháp lý duy nhất có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất trong việc định tội danh. Trong thực tiễn định tội danh, các điều luật của BLHS là căn cứ pháp lý duy nhất các cơ quan tiến hành tố tụng viện dẫn trong các quyết định và văn bản tố tụng khác khi quy kết TNHS cho người phạm tội. Những quy định của BLHS là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác xác định hành vi xảy ra trong thực tế có cấu thành tội phạm về ma túy đã nêu trên hay không; nếu phạm tội thì phạm tội gì và thuộc vào điều khoản cụ thể nào. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1