intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

29
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh hải dương trong thời gian qua; Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THANH NAM LÊ THANH NAM LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ KHÓA X HÀ NỘI, 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THANH NAM ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ HÀ NỘI, 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan, luận văn thạc sỹ với đề tài “Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, bản án, ví dụ trược trích dẫn, phân tích trong luận văn là trung thực, rõ ràng về nguồn gốc, kết quả nghiên cứu không trùng với bất kỳ đề tài khoa học nào khác và chưa được công bố. Tác giả Lê Thanh Nam
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM 10 DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm và đặc điểm định tội danh tội lạm dụng tín 10 nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm 10 1.1.2. Đặc điểm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm 11 đoạt tài sản 1.2. Ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm 14 đoạt tài sản 1.2.1. Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội 15 1.2.2. Ý nghĩa về phương diện pháp lý 16 1.3. Các giai đoạn và các yếu tố ảnh hưởng đến định tội danh 16 tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.3.1. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm 16 chiếm đoạt tài sản 1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến định tội danh tội lạm dụng 17 tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.4. Cở sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm 17 chiếm đoạt tài sản 1.4.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài 18 sản 1.4.2. Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm 20 đoạt tài sản 1.4.3. Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài 22
  5. sản 1.4.4. Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 23 tài sản 1.5. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với 23 một số tội danh khác trong luật hình sự 1.5.1. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 23 với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.5.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 25 với tội tham ô tài sản 1.5.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 26 với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản Tiểu kết chương 1 28 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG 29 TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. Những kết quả đạt được trong định tội danh tội lạm dụng 29 tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương 2.2. Những hạn chế, sai lầm trong định tội danh tội lạm dụng 31 tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương 2.2.1. Xác định dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để chiếm 32 đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đôi khi còn nhầm lẫn với một số tội phạm khác 2.2.2. Xác định dấu hiệu bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản 36 2.2.3. Xác định dấu hiệu sử dụng tài sản vào mục đích bất 38 hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản 2.2.4. Xác định hành vi đã thực hiện là tội phạm hay chỉ là 39 vi phạm dân sự, kinh tế
  6. 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong định tội danh tội 39 lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương Tiểu kết chương 2 41 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU 43 QUẢ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Yêu cầu bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín 43 nhiệm chiếm đoạt tài sản 3.1.1. Yêu cầu về chính trị - xã hội 43 3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn 44 3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự 46 3.2. Giải pháp bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín 46 nhiệm chiếm đoạt tài sản 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong 46 công tác xử lý các vụ án hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tội lạm dụng tín 48 nhiệm chiếm đoạt tài sản 3.2.3. Kịp thời hướng dẫn, giải thích pháp luật về tội lạm 51 dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 3.2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức các 52 cơ quan tư pháp trong việc giải quyết án hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 3.2.5. Bảo đảm hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan tư pháp 54 trong định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 3.2.6. Tổng kết kinh nghiệm xét xử 55 3.2.7. Ban hành án lệ 56
  7. Tiểu kết chương 3 56 KẾT LUẬN 57 DANH MỤC THAM KHẢO 59
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, hoạt động xét xử của Tòa án, Trong đó hoạt động mang tính định tội đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội là một hoạt động của chủ thể mang lại kết quả là có tội hay không có tội. Định tội danh là yếu tố cơ bản đảm bảo cho pháp luật hình sự được xét xử để đưa các quy định pháp luật tiếp cận với thực tiễn. Từ đó, xác định được những chủ thể là người có hành vi phạm tội đã thực hiện hành vi đó như thế nào, có vi phạm điều cấm nào của pháp luật hay không, có tác động tới điểm gì của khách thể, có bị áp dụng hình phạt hay không. Do đó, định tội danh đúng đắn, được xem là yếu tố tiên quyết, là cơ sở cho việc Toà án áp dụng một hình phạt đúng đắn đối với người phạm tội, góp phần tăng cường phòng chống oan sai, và bỏ lọt tội phạm. Và ngược lại, việc định tội danh không đảm bảo yếu tố chính xác, không thực hiện đúng quy định của pháp luật, sẽ xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của con người, làm ảnh hưởng đến hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm, làm suy giảm niềm tin của người dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh các quy định hiện hành như BLHS năm 2015, thì các quy định về việc định tội danh nói chung và định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng vẫn còn chưa có tính hệ thống, còn xuất hiện tại nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật khác nhau trong đó có thể kể đến như Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 1999", Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1999... từ đó làm giảm tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, gây khó khăn trong hoạt động áp dụng. Nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn hiện nay cho thấy, tình hình tội 1
  9. lạm dụng tín nhiệm đoạt tài sản có xu hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay thì các quan hệ dân sự, kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp dẫn đến những đối tượng có ý định chiếm đoạt tài sản bằng cách lợi dụng lòng tin của người khác ngày càng nhiều. Đây cũng là loại tội phạm có nhiều dấu hiệu bị trùng với các dấu hiệu của tội phạm khác và có những dấu hiệu liên quan đến pháp luật dân sự; vì vậy mà việc "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, kinh tế trong loại tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là khá nhiều. Thực tiễn khó khăn như vậy là do về mặt pháp lý, nhiều quy định về tội danh này cũng như những tội danh khác trong luật hình sự còn chưa thực sự hoàn thiện, chưa có sự rõ ràng về cấu thành, về hướng dẫn áp dụng. Bên cạnh đó, cách xây dựng pháp luật hình sự còn nhiều hạn chế, không có những điểm rõ ràng, hướng dẫn chi tiết cụ thể dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Tỉnh Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, có tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn, biến động dân cư và xã hội khá phức tạp. Trong những năm vừa qua, kết quả công tác xét xử của Toà án nhân dân 2 cấp tỉnh Hải Dương trong đó có hoạt động giải quyết các vụ án hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mang lại hiệu quả tương đối cao, có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, công tác này vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, nhiều quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa được đưa vào thi hành trên thực tế, nhiều vụ án định tội danh còn sai sót. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Hiện nay những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về định tội danh đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến như: 2
  10. - Phan Anh Tuấn (2001), Định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí khoa học pháp lý, (số 02), tr.45 - 49, Hà Nội. Trong bài viết của mình, tác giả đã đưa ra lý luận để định tội danh trong trường hợp một hành vi thoả mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm. Đây là một vấn đề lớn, phức tạp và khó khăn trong quá trình định tội danh nói chung, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Tác giả Nguyễn Ngọc Chí (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) “Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu”, Lê Cảm chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả tập chung phân tích về các dấu hiệu của cấu thành tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung được quy định trong Bộ luật hình sự trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Tác giả Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình Lý luận về định tội danh, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội. Tại công trình này, tác giả phân tích về những vấn đề có tính chất lý luận về định tội danh trong luật hình sự, tác giả cũng phân tích về khái niệm, đặc điểm, nội dung, các bước của định tội danh cũng như những kỹ năng định tội danh cơ bản. - Tác giả Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội. Trong công trình của mình, tác giả tập trung phân tích về những vấn đề lý luận có tính chất căn bản về định tội danh và quyết định hình phạt, trong đó tác giả phân tích về khái niệm, đặc điểm, các bước của quá trình định tội danh nói chung. Ngoài ra cũng có những công trình nghiên cứu về nhóm tội xâm phạm sở hữu như: - Tác giả Nguyễn Sỹ Đại (2001), Bình luận khoa học BLHS 1999 (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Tại công trình này, tác giả đưa ra các bình luận, diễn giải có tính chất khoa học về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong quá 3
  11. trình phân tích về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì các dấu hiệu pháp lý của tội này sẽ là cơ sở để định tội danh trên thực tế. - Tác giả Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học BLHS Phần các tội phạm, Tập II - Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Lao động, Hà Nội. Tại cuốn sách của mình, tác giả Đinh Văn Quế phân tích về những dấu hiệu pháp lý về định tội danh đối với tội phạm về xâm phạm sở hữu. Theo đó, các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đặc trưng nhất định về dấu hiệu pháp lý, cần phải xác định để từ đó định tội danh chính xác. 2.2. Những công trình nghiên cứu thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương Nghiên cứu về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn các tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu. Đối với công trình nghiên cứu về thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương cho đến nay mới có duy nhất một công trình nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Kim Chi, tuy nhiên tác giả Hoàng Thị Kim Chi nghiên cứu về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự năm 1999, đến nay tội danh này đã có những sửa đổi, bổ sung theo Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các công trình có thể kể đến như: - Tác giả Hồ Ngọc Hải (2012), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn của mình, tác giả phân tích về những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam. Trong đó có nội dung tác giả phân tích về thực tiễn định tội danh đối với tội phạm này trên địa bàn cả nước, cũng như xác định những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế này. - Tác giả Hoàng Thị Kim Chi (2017), Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực 4
  12. tiễn tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trong luận văn của mình tác giả đã phân tích về những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Trong đó, tác giả đưa ra phân tích về thực tiễn định tội danh đối với tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 2.3. Những công trình nghiên cứu yêu cầu và giải pháp bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới Hiện nay, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng như các tội xâm phạm sở hữu nói chung, có thể kể đến như: - Tác giả Hoàng Thị Kim Chi (2017), Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trong luận văn này tác giả phân tích vấn đề hoàn thiện pháp luật tại chương 3 của luận văn. Tại đây tác giả có đưa ra 02 nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Văn Điền (2019), “Một số vấn đề về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định của pháp luật hình sự”, Tạp chí Toà án nhân dân số 4/2019, Hà Nội. Trong bài viết của mình, tác giả đã phân tích về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Tác giả Trần Duy Bình (2020) “Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” - Một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Toà án nhân dân số 3/2020, Hà Nội. Trong bài viết của mình, tác giả phân tích về những hạn chế, vướng mắc của công tác áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và từ đó tác giả đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng đối với tội phạm này. 5
  13. Các công trình nghiên cứu, các bài viết, đề tài khoa học nói trên đều là những công trình có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn, tuy nhiên, nội dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong mối quan hệ tách biệt hoàn toàn với những kiến thức lý luận về định tội danh. Vì vậy, có thể nói có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề định tội danh và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhưng các công trình nghiên cứu ở góc độ hoàn chỉnh về định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa nhiều đặc biệt là nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn cụ thể là tỉnh Hải Dương. Mặc dù vậy, kết quả của những công trình nghiên cứu, bài viết đã công bố là một trong những nguồn tài liệu quan trọng tác giả có thể vận dụng để hoàn thiện luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận văn này là phân tích dưới góc độ khoa học để làm sáng tỏ hơn nữa các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, từ đó đưa ra các giải pháp bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu là làm rõ một số vấn đề sau: Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về định tội danh nói chung và định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như: Khái niệm, đặc điểm của định tội danh; cơ sở pháp lý, căn cứ pháp lý của việc định tội danh; định tội danh trong một số trường hợp đặc biệt; đặc điểm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; đặc điểm và yêu cầu định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thứ hai, nghiên cứu thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian qua, thông qua đó đánh giá 6
  14. các kết quả và tìm ra những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân. Thứ ba, đưa ra các định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài là quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn 2018 đến 2020 trên địa bàn tỉnh Hải Dương (thời điểm từ khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực) thuộc chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ Nghĩa Mác – Lê Nin; tư tưởng về nhà nước và pháp quyền của Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách hình sự, xử lý đối với tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận nêu trên, luận văn có các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích được luận văn sử dụng để nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quan điểm của các tác giả đã công bố về vấn đề định tội danh và định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; ngoài ra phương pháp phân tích còn được luận văn sử dụng để phân tích quy định của Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Phương pháp tổng hợp được luận văn sử dụng để tổng hợp các quan điểm về vấn đề nghiên cứu cũng như tổng hợp các số liệu, bản án về định tội 7
  15. danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Phương pháp thống kê được luận văn sử dụng để nghiên cứu thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua thống kê số liệu gồm có: số vụ án, số bị can, các dạng hình phạt đối với bị cáo; thống kê số bản án định tội danh về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong giai đoạn từ 2018 đến 2020 trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - Phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các quy định của pháp luật với nhau nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học luật hình sự hiện nay là nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với các tội phạm nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, đây cũng là một trong những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta giai đoạn hiện nay. 6.1. Về mặt lý luận Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu một cách hoàn chỉnh vấn đề định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. 6.2. Về mặt thực tiễn Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa cao, đôi khi còn bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người không phạm tội đó là sự yếu kém của một bộ phận những người tiến hành tố tụng trong việc nhận thức cũng như áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc nghiên cứu của tác giả nhằm làm sáng tỏ những khía cạnh pháp lý về định tội danh nói chung và định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Hải Dương nói riêng, qua đó góp phần bổ sung, hoàn thiện trên lý thuyết định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy 8
  16. định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Luận văn có thể là cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Thẩm phán thuộc Tòa án hai cấp tỉnh Hải Dương, góp phần giải quyết các vụ án hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được đúng đắn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian qua. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới. 9
  17. Chương 1 LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm và đặc điểm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm Để nghiên cứu khái niệm định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chúng ta đã xác định được hai khái niệm có liên quan là khái niệm định tội danh và khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính lôgic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành dựa trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Việc định tội được thực hiện nhằm đi đến các quyết định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không; xác định tội danh và khung hình phạt đối với hành vi phạm tội. Bộ luật hình sự là văn bản pháp luật duy nhất quy định tội phạm và hình phạt. Vì vậy, Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lí duy nhất của việc định tội danh, khi định tội danh, người định tội căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể quy định về tội phạm để xác định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định trong chương các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu. Theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự thì người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người có hành vi nhận được tài sản của người khác thông qua hình thức hợp đồng hợp pháp hoặc vay, mượn, thuê tài sản của người khác rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng trả nhưng cố tình không trả, hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp 10
  18. pháp dẫn đến không có khả năng hoàn trả tài sản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định từ mức bốn triệu đồng trở lên hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định trong Bộ luật hình sự. Như vậy, định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là dạng hoạt động của nhận thức, là quá trình áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành cụ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự, xác định chính xác người thực hiện hành vi có phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không để buộc người đó phải gánh chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi mà mình đã thực hiện. 1.1.2. Đặc điểm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Ngoài những đặc điểm chung với định tội danh các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn có đặc điểm riêng như: hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam là hoạt động có tính logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến hành bằng cách: trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thụ thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản do luật hình sự quy định, nhằm xác định được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hoá và phân hoá trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm là việc đưa ra nhận định sai khi định tội danh trong thực tiễn, do đó khi định tội danh cần được tiến hành tuần tự qua các bước sau [50]. Bước 1: Xác định tội phạm 11
  19. Trong đời sống xã hội có nhiều người có hành vi gây nguy hại cho xã hội, nhưng không phải tất cả các hành vi gây nguy hại cho xã hội đều là tội phạm. Trong Bộ luật hình sự hiện hành có quy định, có hành vi tuy có gây nguy hại cho xã hội nhưng không phải là tội phạm như là: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (quy định tại Điều 13 Bộ luật Hình sự); hoặc là hành vi phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm (quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự); hoặc là hành vi trong tình thế cấp thiết vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa tới lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa (quy định tại Điều 16 Bộ luật Hình sự). Như vậy, ngoài các trường hợp mà BLHS quy định không phải là tội phạm và tuổi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, thì người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi gây nguy hại cho xã hội đó là bị coi là tội phạm, thì họ phải chịu hình phạt của Nhà nước đối với hành vi gây nguy hại cho xã hội mà họ đã gây ra. Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [33]. Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự về khái niệm tội phạm, chúng ta có thể hiểu: Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một hành vi 12
  20. nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi nguy hiểm cho xã hội đó xâm phạm đến một trong các quan hệ xã hội quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự thi hành vi nguy hiểm đó là tội phạm. Đã từ lâu, các nhà khoa học về tội phạm học, cùng các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã xác định được các căn cứ để xác định tội phạm hay còn gọi là các yếu tố cấu thành tội phạm hoặc là các cấu thành bắt buộc của tội phạm. Các yếu tố cấu thành đó gồm: Một là, chủ thể của tội phạm: Là con người cụ thể, đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hai là, mặt chủ quan của tội phạm: Là động cơ, mục đích thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; lỗi khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý). Ba là, khách thể của tội phạm: Là quan hệ xã hội mà Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ. Bốn là, mặt khách quan của tội phạm: Là các hành vi của chủ thể, biểu hiện ra bên ngoài trong quá trình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Các hành vi này, có thể bằng hành động nhưng cũng có thể bằng không hành động. Phải có đủ bốn yếu tố này mới cấu thành tội phạm. Thiếu một trong bốn yếu tố này, thì không phải là tội phạm. Do đó, chúng ta thấy rằng: + Những hành vi có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm. + Những tội phạm được quy định trong các điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự được gọi là tội phạm. + Người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định, thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Bước 2: Đối chiếu hành vi của bị cáo bị truy tố với dấu hiệu cấu thành của tội bị truy tố. Nghiên cứu nội dung các điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, chúng ta thấy trong tổng điều luật có quy định rõ các cấu thành của tội trong điều luật đó. Các cấu thành này, tạo nên sự khác biệt giữa tội này với tội 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0