Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
lượt xem 5
download
Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề chung về giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự; Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự; Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai và một số kiến nghị.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH NGỌC GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH NGỌC GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ GIA LÂM HÀ NỘI, 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả đề tài Nguyễn Thị Minh Ngọc
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ .................................................................................... 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .............. 8 1.2. Cơ sở của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự ............. 13 1.3. Ý nghĩa của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .......... 22 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ ........................................... 27 2.1. Khái quát lịch sử lập pháp của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .... 27 2.2. Quy định về giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ................................................................................................... 29 Chương 3. THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............. 47 3.1. Thực tiễn thi hành quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân Quận Hoàng Mai ................... 47 3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai ....................... 61 KẾT LUẬN ........................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 79
- DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSĐT Kiểm sát điều tra KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TANDTC Toà án nhân dân tối cao TTHS Tố tụng hình sự THQCT Thực hành quyền công tố VKS VKS VKSND VKS nhân dân VKSNDTC VKS nhân dân tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 3.1. Tổng số bị cáo/vụ án TAND quận Hoàng Mai ........................ 49 thụ lý và xét xử từ năm 2016 đến năm 2020 ........................................... 49 Bảng 3.2. Số vụ khi xét xử Tòa án thay đổi khung hình phạt nhẹ hơn so với VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 .......................................... 50 Bảng 3.3. Số vụ khi xét xử Tòa án áp dụng khung hình phạt nặng hơn so với khung hình phạt VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 ................ 51 Bảng 3.4. Số vụ khi xét xử tòa án thay đổi tội danh .............................. 52 so với VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 ...................................... 52 Bảng 3.5. Số liệu trả hồ sơ điều tra bổ sung của TAND ......................... 53 quận Hoàng Mai từ 2016-2020 .............................................................. 53
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc cải cách tư pháp hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án, thiết chế duy nhất được giao quyền xét xử các vụ án. Để có thể thực hiện tốt quá trình cải cách tư pháp đối với hoạt động xét xử của Tòa án, những chế định, quy định có liên quan đến việc xét xử trong đó có quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm của Tòa án cần phải được nghiên cứu chuyên sâu để có cái nhìn từ tổng quát đến chi tiết các quy định của pháp luật, từ đó phát huy những kết quả đạt được và đồng thời khắc phục những quy định còn hạn chế. Giới hạn xét xử là một quy định rất quan trọng của Tố tụng hình sự . Quy định giới hạn xét xử vừa đảm bảo mục đích xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm vừa đảm bảo được vị thế độc lập của Hội đồng xét xử, của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Quy định về giới hạn xét xử của Tòa án lần đầu tiên được đề cập đến tại Điều 170 của Bộ luật Tố tụng hình sự 1988: “Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử.” Tuy nhiên, quy định này lại quá khát quát nên khi đưa vào thực tiễn áp dụng đã xảy ra tình trạng nhận thức không thống nhât giữa VKS và Tòa án. Tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, chế định này đã được sửa đổi, bổ sung mở rộng thẩm quyền của Hội đồng xét xử: “Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.” Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy 1
- định trong các BLTTHS trước đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung và cơ bản hoàn thiện được những vấn đề bao quát nhất của quy định về giới hạn xét xử tại Điều 298 Bộ luật này. Đây được coi là một sự tiến bộ trong quá trình lập pháp của nước ta. Thực tế cho thấy, chế định này đã và đang mang đến những hiệu quả nhất định mà các nhà làm luật đã mong đợi, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm, đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm củaTòa án trong xét xử để Tòa án thực sự độc lập, thực hiện đúng chức năng của mình. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều chế định khác, hiện nay việc nhận thức quy định về giới hạn xét xử vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chính vì vậy mà dẫn đến những vướng mắc, khó khăn nhất định khi áp dụng quy định này trong thực tiễn tố tụng, gây khó khăn trong giải quyết các vụ án hình sự của nhiều địa phương trong cả nước. Quận Hoàng Mai là một đơn vị hành chính cấp huyện thuộc thành phố Hà Nội với diện tích rộng lớn, mật độ dân cư đông đúc, tình trạng tội phạm diễn biến phức tạp về cả tính chất, mức độ trên phạm vi toàn quận. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai trong việc đấu tranh phòng chống, đẩy lùi tội phạm ngày càng được chú trọng. Tuy nhiên, những vướng mắc, bất cập trong quá trình xét xử nói chung và trong việc thực hiện quy định về giới hạn xét xử tại địa phương nói riêng đã gây không ít khó khăn cho Tòa án địa phương khi thực hiện chức năng xét xử của mình. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của giới hạn xét xử sơ thẩm phải được nhanh chóng đẩy mạnh, tạo ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho Thẩm phán, Hội thẩm có thể áp dụng chính xác, giải quyết nhanh chóng vụ án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 2
- Xuất phát từ những lý do về tầm quan trọng của giới hạn xét xử đã nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Dưới góc độ khoa học, việc nghiên cứu về giới hạn của việc xét xử cũng được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp ở một số công trình nghiên cứu được công bố như : Ở cấp độ luật văn thạc sĩ luật học đã có một số tác giả nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như: Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hoàn, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; Luận văn Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Phan Thị Ánh Tuyết, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2018; Luận văn Giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự của tác giả Ngô Thị Ánh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2007; Luận văn Giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự của tác giả Trần Văn Tín, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1997; Luận văn Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận 12, thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần Thùy Liên, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2017; Luận văn Giới hạn xét xử theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Hồ Quốc Bình, Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện khoa học xã hội, năm 2016. Ở cấp độ giáo trình, bài viết đăng trên tạp chí đã có đề cập trực tiếp và gián tiếp về giới hạn xét xử như: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt 3
- Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2019; Bài viết Những hạn chế trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn việc xét xử sơ thẩm của tác giả Nguyễn Thị Kim Thanh, Tạp chí Tòa án nhân dân số 20, năm 2010; bài viết Một số vấn đề về tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm của tác giả Nguyễn Hữu Chính, Tạp chí Tòa án nhân dân số 13, năm 2012; bài viết Hoàn thiện mối quan hệ giữa Tòa án và VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của tác giả Hồ Sĩ Sơn, Nhà nước và pháp luật, năm 2005; bài viết Một số vấn đề cần chú ý khi xét xử vụ án hình sự của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Luật học số 9, năm 2012; bài viết Kiến nghị sửa đổi Điều 196 của Bộ luất Tố tụng hình sự 2003 về giới hạn của việc xét xử của hai tác giả Hoàng Minh Sơn và Vũ Quang Huy, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14, năm 2015. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy nhiều công trình nghiên cứu dựa trên những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 nên đã không còn phù hợp. Vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn có nhiều quan điểm khác nhau, từ thời điểm BLTTHS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực thi hành đến nay có ít công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đặc biệt, chưa có công trình nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gắn với thực tiễn áp dụng tại một địa bàn cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài Luận văn Thạc sĩ “Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” vẫn là một nội dung mang tính mới, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề (lý luận) chung và những quy định của pháp luật về giới hạn xét xử; nội dung của 4
- giới hạn xét; nghiên cứu thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS về giới hạn xét xử, làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng để từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiểu quả xét xử nói chung cũng như hiệu quả thi hành quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Để có thể đạt được mục đích trên, nhiệm vụ được đặt ra là phải phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, Hội đồng xét xử khi áp dụng giới hạn xét xử. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá, thực tiễn hoạt động áp dụng quy định về giới hạn xét xử tại Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai. Từ đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá về nguyên nhân và kiến giải hợp lý. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Để có thể đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu những đối tượng cụ thể : + Những vấn đề chung về giới hạn xét xử trong vụ án hình sự sơ thẩm. + Nội dung quy định về giới hạn xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai. + Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự từ thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về giới hạn xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Cụ thể là từ khi VKS 5
- chuyển hồ sơ cho Tòa án và Tòa án tiến hành thụ lý vụ án cho đến khi có bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về giới hạn xét xử dựa trên công tác hoạt động của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong năm năm (từ năm 2016 năm đến năm 2020). 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Đề tài được phân tích, nghiên cứu cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, chính sách hình sự, TTHS của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng một số phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học luật tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra án điển hình... để làm rõ và giải quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. 6. Ý nghĩa của đề tài Về lý luận, đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình , quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử gắn với thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong năm năm vừa qua. Do đó, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Về thực tiễn, các kiến giải được đưa ra trong đề tài là một kênh tham khảo hữu ích cho các đơn vị như Tòa án nhân dân các cấp nói chung và đơn vị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng trong thực tiễn thực hiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong vụ án 6
- hình sự. Ngoài ra, kết quả của đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo cho các đối tượng nghiên cứu, áp dụng pháp luật có liên quan đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luân văn Chương 1: Những vấn đề chung về giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự. Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự Chương 3: Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân quận Hoàng Mai và một số kiến nghị. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự 1.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự Tố tụng hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của Nhà nước, mà hệ quả của nó có tác động lớn đến quyền con người, quyền công dân. Chính vì vậy, các vấn đề liên quan đến TTHS luôn được sự quan tâm, nghiên cứu nhất là hoạt động xét xử của Tòa án. Xét dưới góc độ tranh tụng, xét xử là một trong ba chức năng cơ bản của TTHS đó là: chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội (bào chữa); chức năng xét xử. Xét xử chỉ được thực hiện bởi một chủ thể duy nhất là Tòa án. Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 xác định: "Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt nam, thực hiện quyền tư pháp" [40]. Xét dưới góc độ TTHS, xét xử là một giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, do Tòa án có thẩm quyền tiến hành. Thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa, HĐXX nhân danh Nhà nước xem xét công khai, khách quan, toàn diện kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa để đưa ra phán quyết về vụ án. Theo quy định của pháp luật TTHS, có hai cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, theo đó mỗi cấp Tòa án sẽ có thẩm quyền xét xử nhất định đối với các vụ án hình sự. Việc xét xử của Tòa án nói chung được thực hiện theo chế độ hai cấp xét xử, đó là chế độ xét xử sơ thẩm và chế độ xét xử phúc thẩm. Qua nghiên cứu các công trình và tài liệu chuyên ngành TTHS đã công bố cho 8
- thấy, khái niệm “xét xử sơ thẩm” trong TTHS được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau: Như vậy, trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đối với khái niệm này. Mỗi góc độ tiếp cận đều chứa đựng những hạt nhân hợp lý nhất định, song xét tính chính xác và đầy đủ thì hầu hết chỉ mang tính tương đối. Theo quan điểm của tác giả: Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần đầu vụ án hình sự do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do CQĐT, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận chất vấn những điều mà tại CQĐT họ không có điều kiện thực hiện. Do đó, xét xử sơ thẩm là thủ tục tố tụng vô cùng quan trọng đối với toàn bộ quá trình tố tụng. Tuy nhiên, để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, kết quả xét xử (bản án hoặc quyết định) của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử tại cấp phúc thẩm. Theo quan điểm của tác giả, giới hạn của việc xét xử là mối quan hệ tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát và Toà án ở giai đoạn xét xử từ sơ thẩm. Mối quan hệ này xuất hiện từ khi Viện Kiểm sát gửi cáo trạng và hồ sơ vụ án sang Toà án và nó được thể hiện thông qua Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát uỷ quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, làm cáo trạng và giữ quyền công tố trước toà cùng với Thẩm phán được giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ toạ phiên toà nếu vụ án 9
- được đưa ra xét xử. Giới hạn xét xử là quy định pháp lí quan trọng có liên quan đến nhiều đến các chức năng của tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử là phạm vi những vấn đề thuộc nội dung vụ án mà hội đồng xét xử được phép xét xử tại phiên tòa. Phạm vi đó không phải là vô hạn mà ngược lại nó được hạn chế trước hết bởi phạm vi những người và những hành vi mà VKS truy tố trong cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thì cơ sở pháp lý để xác định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong mọi trường hợp chính là nội dung quyết định truy tố của VKS và nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án hình sự trong phạm vi truy tố của VKS và quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán. Tòa án không có quyền xét xử đối với những bị cáo và những hành vi mà VKS không truy tố hoặc không được Thẩm phán quyết định đưa ra xét xử. Trên cơ sở những phân tích và lý giải nêu trên, có thể đưa ra khái niệm khoa học về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau: "Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự là phạm vi mà Tòa án cấp sơ thẩm được xem xét, giải quyết cũng như mức độ xem xét, giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát và quyết định đưa vụ án ra xét xử của thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. 1.1.2. Đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự Thứ nhất, giới hạn xét xử sơ thẩm thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa Tòa án với VKS trong TTHS (quan hệ giữa cơ quan thực hành quyền công tố-buộc tội với cơ quan thực hiện quyền tư pháp- xét xử mà thực chất là quan hệ giữa hai chức năng của Tố tụng hình sự). Giới hạn xét xử sơ thẩm thể hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau giữa VKS và 10
- Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền. Quyết định truy tố của VKS sẽ làm căn cứ pháp lý thứ nhất để Tòa án khi tiến hành xét xử để xác định sự thật khách quan của vụ án nhằm bảo vệ quyền con người, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,cá nhân. Hành vi bị truy tố, tội danh mà VKS viện dẫn để truy tố tại bản cáo trạng là cơ sở để Tòa án xem xét thực hiện chức năng xét xử của mình, còn VKS thực hiện chức năng buộc tội trong suốt giia đoạn điều tra và được kéo dài cho đến khi Tòa án cấp có thẩm quyền ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đối tượng bị Tòa án xét xử sơ thẩm là hành vi và bị cáo mà Tòa án sơ thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở quyết định truy tố của VKS. Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo về những hành vi phạm tội của họ mà VKS truy tố, có nghĩa là Tòa án không được xét xử thêm hành vi hoặc bị cáo khi chưa được VKS truy tố. VKS quyết định truy tố bằng cáo trạng ra trước Tòa án sơ thẩm cấp có thẩm quyền là cơ sở pháp lý đầu tiên để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án thực hiện chức năng xét xử chứ không phải là bên buộc tội, nên Tòa án không thể đưa ra xét xử những bị cáo ngoài diện VKS truy tố. Thứ hai, giới hạn xét xử sơ thẩm khẳng định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tính độc lập của Tòa án và VKS. Mặc dù VKS đã có cáo trạng quyết định truy tố bị can ra Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền để xét xử về hành vi phạm tội do bị can đó gây ra theo điểm, khoản, điều được quy định trong BLHS, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa, khi nghiên cứu hồ sơ nếu xét thấy có căn cứ cho rằng bị can phạm một tội khác, hoặc có đồng phạm khác, hoặc trong trường hợp tài liệu, chứng cứ đã thu được trong giai đoạn điều tra cho thấy bị can phạm một tội khác nặng hơn tội mà VKS đã truy tố, thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để 11
- điều tra bổ sung hoặc truy tố về một tội nặng hơn. Trường hợp tội đó nhẹ hơn hoặc bằng tội VKS truy tố thì Thẩm phán không nhất thiết phải ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung... Sau khi Thẩm phán trả hồ sơ điều tra bổ sung, hoặc đề nghị VKS truy tố lại về tội nặng hơn mà VKS vẫn giữ nguyên tội danh quyết định truy tố thì Thẩm phán quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ngoài ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán còn có thể ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật TTHS. Như vậy không phải lúc nào VKS truy tố bị can ra trước Tòa án thì Tòa án đều sẽ quyết định đưa vụ án ra xét xử. Do vậy, Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa không quyết định đưa vụ án ra xét xử thì không có việc tiếp theo là mở phiên tòa và Tòa án chịu tác động của giới hạn xét xử mà VKS đặt ra trong bản cáo trạng, vì vậy mọi quyết định truy tố của VKS phải được Tòa án xem xét và thông qua bằng việc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên toà, VKS giữ quyền công tố, thực hiện việc buộc tội, đề nghị kết tội bị cáo theo nội dung của quyết định truy tố hoặc có thể rút toàn bộ quyết định truy tố. Quyết định nhũng vấn đề này thuộc về toà án theo đúng nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật ” (Điều 9 BLTTHS). Thực hiện chức năng của mình, toà án xét xử các bị cáo trong phạm vi quyết định truy tố của VKS đồng thời phải xét xử trong phạm vi quyết định đưa vụ án ra xét xử của thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Thứ ba, việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hướng đến mục tiêu bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội (bị can, bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm) đồng thời thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật hình sự, sự tuân thủ pháp chế. Mỗi cơ quan khác nhau có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng đều hướng đến mục tiêu chung nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người và giữ vững bản chất 12
- của Nhà nước pháp quyền XHCN. Với tư cách là chủ thể thực hiện quyền tư pháp Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án có thẩm quyền sau khi nghiên cứu toàn diện, khách quan hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử công khai nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, người đã bị VKS buộc tội là có tội hay không có tội, nếu có tội thì phạm tội gì, để có thể ra bản án, quyết định phù hợp với hành vi mà VKS đã truy tố. Chế định về giới hạn xét xử sơ thẩm của Tòa án góp phần thực hiện mục tiêu của TTHS đó là: Không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đảm bảo quyền công tố của VKS cũng như sự độc lập của Tòa án (thẩm phán, hội thẩm) giúp việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tóm lại, phạm vi xem xét, giải quyết cũng như mức độ được xem xét, giải quyết khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án được không phải là vô hạn, bởi nó bị hạn chế trong phạm vi những người và những hành vi mà VKS truy tố trong bản cáo trạng cũng như quyết định đưa vụ án ra xét xử của thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa. 1.2. Cơ sở của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự Pháp luật TTHS quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKS, Tòa án trong TTHS; các nguyên tắc cơ bản của TTHS; mối quan hệ giữa các giai đoạn trong TTHS; vai trò của Tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; nhu cầu cần giải quyết những quan điểm chưa thống nhất giữa VKS và Tòa án; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm dựa trên những cơ sở sau: 1.2.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự xuất phát từ quan điểm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt nhất quyền con người, từ yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới và hoàn thiện thủ tục 13
- TTHS, từ vị trí, vai trò của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành TTHS, cụ thể: Thứ nhất, xuất phát từ quan điểm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt nhất quyền con người. Những nguyên tắc về quyền con người luôn được ghi nhận và khẳng định trong BLTTHS và các văn bản pháp lý là tất yếu và được hoàn thiện dần theo thời gian. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, cụ thể: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948; Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị 1966 (ICCPR), gia nhập ngày 24-9-1982; Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1966, gia nhập ngày 24-9- 1982… Một trong những quyền con người cơ bản là quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay các hình thức nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND; quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Trong tiến trình cải cách tư pháp sâu rộng hiện nay thì vấn đề bảo vệ tốt nhất quyền con người càng được quan tâm đẩy mạnh hơn nữa. Ở đâu có buộc tội, ở đâu có xét xử thì ở đó cần có sự bảo vệ (bào chữa) cần được tiến hành trong phạm vi, giới hạn của sự buộc tội cũng như sự xét xử. Mặt khác, bên bảo vệ (bào chữa) cần biết giới hạn xét xử (trên cơ sở giới hạn buộc tội) để có thể chuẩn bị tốt các điều kiện để bảo vệ (bào chữa). Do vậy nhu cầu bảo vệ quyền con người nói chung, quyền bào chữa nói riêng đặt ra nhu cầu phải có giới hạn xét xử sơ thẩm trong vụ án hình sự. Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới và hoàn thiện thủ tục TTHS. Nhiệm vụ của TTHS là đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 75 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn