Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hà Nội
lượt xem 6
download
Mục đích của luận văn là nghiên cứu quan điểm, chính sách, quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, thực tiễn hoạt động của luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật Hình sự và Tố tụng Hình sự. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG KIM THOA HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG KIM THOA HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ Hà Nội, 2019
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................................................................................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của hoạt động bào chữa của luật sư giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................... 6 1.2 Các yếu tố tác động đến hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ............................................................................................................... 13 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................................................... 43 2.1. Khái quát tình hình tội phạm, tình hình hoạt động của cơ quan tố tụng trên địa bàn Hà Nội ............................................................................................. 43 2.2 Hoạt động bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình trên địa bàn thành phố Hà Nội.......................................................................................................... 48 2.3 Những hạn chế, tồn tại trong hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án trên địa bàn và nguyên nhân ....................................................... 51 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................................................................... 58 3.1 Yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền bào chữa của bị can, bị cáo ....................................................................................................... 58 3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa trong đoạn xét xử sơ thẩm .............................................................................................................. 65 3.3 Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .................. 66 3.4 Xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho người bào chữa, luật sư chủ động tham gia bào chữa ............................................................................................... 69 3.5 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật, tổ chức và xây dựng đội ngũ luật sư .......... 73 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 86
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự LLS Luật luật sư PLTTHS Pháp luật tố tụng hình sự CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng THTT Tiến hành tố tụng TAND Tòa án nhân dân TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao TANDTC Tòa án nhân dân tối cao HĐXX Hội đồng xét xử VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDCC Viện kiểm sát nhân dân cấp cao VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao KSV Kiểm sát viên NBBT Người bị buộc tội NBC Người bào chữa QBC Quyền bào chữa QCN Quyền con người TNHS Trách nhiệm hình sự VAHS Vụ án hình sự
- DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 .............................. 46 Biểu đồ 2.2. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 ......................... 47 Biểu đồ 2.3. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự ở cả hai cấp của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 ......................... 47
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân số hiện tại của nước Việt Nam là 97.436.770 người vào ngày 04/07/2019 - theo số liệu thống kê mới nhất từ Liên Hợp Quốc. Tỷ lệ trẻ em phụ thuộc ở nước ta hiện nay là khoảng 33,2% (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/). Như vậy, căn cứ theo thống kê và các quy định của pháp luật hình sự thì có khoảng 64 % công dân Việt Nam đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Khi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, công dân đó đã nhận thức được hành vi của mình và xã hội, công dân phải điều khiển được hành vi, phải ý thực được sự nguy hiểm của hành vi của mình, phải lựa chọn hành vi khác phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp 2013 cũng đã nêu rõ về quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Pháp luật Tố tụng Hình sự cũng quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, theo đó vấn đề bảo vệ, bào chữa cho người bị buộc tội trong vụ án hình sự của người bào chữa là luật sư là một vấn đề cấp thiết được đặt ra trong cả lý luận và thực tiễn, nếu làm tốt sẽ giúp cho chính sách pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta đến được với cuộc sống, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hạn chế được tội phạm trong tương lai, đem lại sự bình yên cho xã hội. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự hiện nay còn nhiều bất cập như: Thủ tục cấp Thông báo người bào chữa cho luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự gặp nhiều khó khăn, phiền hà từ thủ tục hành chính xuyên suốt từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Những rắc rối, vướng mắc phát sinh từ thủ tục cấp thông báo người bào chữa cho luật sư tham gia tố tụng xuất phát nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật, từ các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, từ tòa án. Ngoài ra, những vấn đề bất cập khác của hoạt động bào chữa như việc thu thập chứng cứ của luật sư, yêu cầu Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, triệu tập người làm chứng, triệu tập điều tra viên, triệu tập người giám định…vẫn còn nhiều cản trở tới hoạt động bào chữa của luật sư. Sự không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, các tổ chức liên quan dễ dẫn đến cách hiểu luật và áp dụng luật chưa thống nhất, làm ảnh hưởng đến hoạt động và kết quả bào chữa cho bị can, bị cáo của luật sư bào chữa. 1
- Hoạt động bào chữa của luật sư là vấn đề cấp thiết, hiện nay có rất ít công trình nghiên cứu khoa học về hoạt động bào chữa của luật sư, mới chỉ có những bài báo chí, tạp chí luật sư viết ngắn gọn về các hoạt động đơn lẻ, chưa mô tả hết hoạt động của luật sư bào chữa để cho các cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền và người dân hiểu rõ thế nào là hoạt động bào chữa của luật sư trong các vụ án hình sự sơ thẩm, từ đó gáp phần nâng cao nhận thức xã hội, để có sự phối hợp chặt chẽ từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với luật sư bào chữa. Để làm tốt được những vấn đề liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư, có thể thấy vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là đặc biệt quan trọng. Do đó, đề tài “Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” được tác giả chọn nghiên cứu với mục đích làm rõ hoạt động bào chữa, quyền và nghĩa vụ của luật sư trong vụ án hình sự theo quy định của hệ thống pháp luật hình sự hiện hành, đánh giá về những khó khăn, trong quá trình thực hiện hoạt động bào chữa, đồng thời đưa ra biện pháp bảo đảm hoạt động bào chữa, quyền bào chữa, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua việc tìm hiểu các nội dung của những tài liệu, đề tài nghiên cứu khoa học khác có liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư trong các vụ án hình sự, tác giả nhận thấy rất ít công trình, bài viết liên quan trực tiếp đến nội dung luận văn này. Có một số công trình, bài viết đề cập đến từng khía cạnh của hoạt động này, cụ thể như sau: - Ngô Thị Ngọc Vân (2016), “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Luận án tiến sĩ luật học [57]. - Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Tài liệu Hội thảo khoa học “Nâng cao vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự”, Hà Nội. - Bùi Minh Nghĩa (2017), “Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ [37] - Nguyễn Thị Thanh Hương (2017), “Hoạt động thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa của Luật sư trong Tố tụng hình sự”,Luận văn thạc sĩ [30]. - Các Tạp chí Luật sư Việt Nam. 2
- Và một số tài liệu nghiên cứu liên quan khác… 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu quan điểm, chính sách, quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, thực tiễn hoạt động của luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật Hình sự và Tố tụng Hình sự. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Làm rõ vấn đề lý luận về hoạt động của luật sư bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thông qua hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam. Phân tích các quyền, nghĩa vụ của người bào chữa trong quá trình tham gia tố tụng vụ án hình sự sơ thẩm, đối chiếu với thực tiễn trong hoạt động bào chữa của luật sư tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các giải pháp dựa trên cơ sở thực tiễn để góp phần hoàn thiện hơn nữa cho hệ thống pháp luật Hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật Hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các quy định luật hình sự như: BLTTHS, BLHS, Luật Tổ chức cơ quan điều tra Hình sự, Luật tạm giam tạm giữ, Luật Thi hành tạm giam tạm giữ, Luật giám định tư pháp, và các văn bản pháp luật liên quan ... Đối tượng nghiên cứu của luận văn còn là hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội dựa trên lý luận pháp lý và thực tiễn về khái niệm, bản chất, hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS; Các cơ sở, hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật của người bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp luật TTHS, từ đó đưa ra những kiến nghị mở rộng, nâng cao vai trò của người bào chữa là luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự. 3
- 4.2 Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội dưới góc độ thực hiện quyền và nghĩa vụ của NBC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, do người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Vì vậy, tác giả xin đưa ra giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự. Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự tại thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến hết tháng 6 năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Tác giả lựa chọn các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng các số liệu, tài liệu thu thập được, sử dụng kết quả để chứng minh cho việc luận giải, kết luận trong luận văn. - Phương pháp thống kê hình sự: Sử dụng những số liệu từ thống kê để phân tích hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội. - Phương pháp lựa chọn án điển hình: Trong luận văn giới hạn, tác giả chỉ sử dụng phương pháp chọn địa bàn Thành phố Hà Nội để phân tích, kết luận các nội dung liên quan đến luận văn. - Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn nêu cơ sở lý luận pháp luật về hoạt động người bào chữa (là luật sư) trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn với những trình bày, phân tích về địa vị pháp lý của luật sư, cơ chế đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam có thể bổ sung cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của luật sư, người bào chữa; sẽ là nguồn 4
- tư liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, giảng viên, người bào chữa sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo sinh viên, các chức danh tư pháp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu thành 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Chương 2: Thực trạng hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của hoạt động bào chữa của luật sư giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Các khái niệm: Giai đoạn tố tụng hình sự Giai đoạn Tố tụng Hình sự (TTHS) là quy trình TTHS tương ứng với mỗi giai đoạn nhất định nằm trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Theo Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà Nội: "Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật [55]. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án), người tiến hành tố tụng (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký phiên tòa), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bào chữa...), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hình sự". Giai đoạn điều tra vụ án hình sự TTHS có thể phân chia thành nhiều giai đoạn: Giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, gia đoạn xét xử sơ thẩm, giai đoạn xét xử phúc thẩm… Giai đoạn điều tra vụ án Hình sự là một bước của quá trình tiến hành TTHS có mục đích là xem xét có dấu hiệu của tội phạm hay không để đưa ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự và tiến hành thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội. Cơ quan điều tra Cơ quan điều tra là Cơ quan tiến hành tố tụng, có nhiệm vụ áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, tiến hành điều tra tất cả các tội phạm xảy ra theo thẩm quyền. Cơ quan điều tra gồm: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện; Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Cơ quan An ninh điều tra cấp tỉnh, Cơ quan An ninh điều tra cấp huyện. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao có Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và một số cơ quan khác. 6
- Chủ thể tiến hành tố tụng Giai đoạn điều tra vụ án Hình sự là Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Mỗi loại chủ thể khi tham gia tố tụng giai đoạn này tuy có hành vi tố tụng và thẩm quyền tố tụng khác nhau, nhưng tất cả các chủ thể này phải phục vụ cho mục đích chung của TTHS là phát hiện chính xác, xử lý, ngăn chặn kịp thời mọi hành vi phạm tội nhưng cũng không được làm oan, sai người vô tội. Điều tra vụ án Hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự mà theo đó Cơ quan Điều tra có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các quy định của hệ thống pháp luật Tố tụng Hình sự, dưới sự kiểm sát chặt chẽ của Viện Kiểm sát để tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ vụ án. Điều tra vụ án Hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động Tố tụng Hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm chứng minh hành vi phạm tội, người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm bằng các chứng cứ đã thu thập được khách quan, để thực hiện tốt cho việc áp dụng các nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự và cũng để tránh bỏ lọt tội phạm. Nó cũng giúp ngăn chặn kịp thời việc ra quyết định khởi tố bị can vội vã, tránh dẫn đến hậu quả xấu trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự không khách quan, không căn cứ, trái pháp luật, và tránh làm oan những người vô tội; Và điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng làm tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của mọi công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố bị can của Viện kiểm sát và trước khi xét xử bị cáo của Tòa án, góp phần làm cho hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Giai đoạn truy tố vụ án hình sự Truy tố vụ án hình sự là giai đoạn mà Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện vụ án hình sự và quyết định việc truy tố hay không truy tố vụ án. Viện kiểm sát Nhân dân Viện Kiểm sát Nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. 7
- Giai đoạn truy tố vụ án hình sự là giai đoạn đánh giá khách quan các tài liệu của vụ án hình sự, kết luận điều tra, quyết định đề nghị truy tố do Cơ quan điều tra có thẩm quyền gửi tới, trên cơ sở tài liệu có trong hồ sơ vụ án Viện kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng một bản cáo trạng. Khi thấy hồ sơ chưa đủ căn cứ, tài liệu chưa đầy đủ thì Viện Kiểm sát trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự. Đây là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng hình sự, giai đoạn truy tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, kiểm tra toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của Viện kiểm sát được đúng luật, khách quan, thể hiện việc truy cứu người có hành vi vi phạm pháp luật chính xác, đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Giai đoạn này được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu của vụ án hình sự của Cơ quan cảnh sát điều tra chuyển đến, các quyết định của Viện kiểm sát: quyết định Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, hay trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, hay đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hình sự. Giai đoạn này chủ yếu thể hiện chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà Cơ quan Cảnh sát Điều tra có thẩm quyền và loại trừ những hậu quả của sai lầm, tránh bị bỏ lọt trong các giai đoạn tố tụng hình sự trước đó. Bản Cáo trạng thể hiện việc chứng minh các tài liệu của hồ sơ của vụ án, tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của Tòa án, loại bỏ những thiếu sót, hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội. Có thể nói, truy tố là một giai đoạn tố tụng hình sự quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn tố tụng hình sự, trước khi xét xử tại Tòa án. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự khi mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập được đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp khai báo tại tòa án, được tranh luận, chất vấn những điều mà họ không có điều kiện thực hiện trong giai đoạn trước đây. 8
- Tòa án Nhân dân Tòa án Nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án Nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống, đưa ra các lý lẽ chính xác và thuyết phục. Tòa án sơ thẩm khi giải quyết vụ án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để tiến hành xem xét về thực chất vụ án, trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai của bên buộc tội và bên bào chữa, đưa ra phán xét về vấn đề tính chất tội phạm của hành vi phạm tội , có tội hay không có tội của bị cáo và cuối cùng đưa ra quyết định của Tòa án một cách công minh, đúng pháp luật, có căn cứ. Vai trò và đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, là giai đoạn quan trọng nhằm xác định một người là người có tội hay vô tội. Trong giai đoạn này, người bị Viện kiểm sát truy tố có thể đưa ra những lập luận để bào chữa cho mình hoặc nhờ người bào chữa, còn người bị hại có thể đòi quyền lợi của mình trong vụ án hình sự. Về phía mình, các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào các chứng cứ của vụ án để tìm ra tội phạm và đưa ra mức hình phạt phù hợp theo quy định pháp luật. Về giới hạn của việc xét xử Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, khi xét xử sơ thẩm Toà án có thẩm quyền chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy, Toà án có thẩm quyền không được xét xử bị cáo về tội năng hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Nhưng thực tế, khi xem xét hồ sơ vụ án, đưa ra xét 9
- xử sơ thẩm, qua phần xét hỏi, tranh luật tại phiên toà cả Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử đều thấy bị cáo phạm tội khác chứ không phải tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố thì đây là vấn đề đã có nhiều tranh luận đến nay vẫn chưa kết thúc. Thực tiễn xét xử những trường hợp này thì Tòa án hay trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại. Về Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự Khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự đã có quy định rõ về Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Người tiến hành tố tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án và Kiểm sát viên. Đối với Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thẩm phán được giao nhiều quyền, trừ quyền ra quyết định thay đổi biện pháp tạm giam. Thẩm phán có quyền quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, còn tại phiên toà thì thẩm phán còn có quyền bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định khi xét hỏi bị cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Đối với Hội thẩm: Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hình sự thì Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán chủ toạ phiên toà, mỗi quyết định của Hội đồng xét xử được biểu quyết theo đa số. Thư ký Toà án: Thư ký được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau: Phổ biến nội quy phiên toà; báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà; ghi biên bản phiên toà; tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án. Kiểm sát viên: Kiểm sát viên tham gia phiên toà hình sự sơ thẩm để thực hiện quyền công tố. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia phiên toà đã được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên là người công bố bản cáo trạng, bổ sung cáo trạng hoặc rút cáo trạng tại phiên toà; tham gia cùng với Hội đồng xét xử xét hỏi tại phiên toà, trình bày lời luận tội, tranh luận với người bào chữa hoặc bị cáo; đưa ra chứng cứ hoặc yêu cầu trong đó có quyền yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án. 10
- Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự thì người tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm bao gồm: Bị cáo; người bào chữa; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch. Bị cáo: Bị cáo chính là bị can đã bị Viện kiểm sát truy tố ra Tòa án. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng nhằm tới việc xác định bị cáo có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì phạm tội gì, mức hình phạt bao nhiêu, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thế nào... Là bị cáo, họ chưa bị coi là người có tội, họ chỉ là người bị cáo buộc về một tội phạm nào đó theo Bộ luật hình sự, nên họ phải được đối xử như đối với một người bình thường khác. Cũng chính vì vậy mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định quyền của bị cáo rất đầy đủ và cụ thể để họ tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ cho mình trước lời cáo buộc của Viện kiểm sát tại phiên toà. Để bảo vệ các quyền của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Người bào chữa: Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân công, Văn phòng luật sư, Công ty luật cử luật sư hoặc Trung tâm trợ giúp pháp lý cử bào chữa cho bị can, bị cáo nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giúp đỡ họ về mặt pháp lý. Luật sư: Luật sư là người tham gia tố tụng hình sự được cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền cấp Thông báo người bào chữa để bào chữa cho bị cáo theo quy định của pháp luật. Những người tham gia tố tụng khác: Bộ luật hình sự Việt Nam còn quy định những người tham gia tố tụng khác như: Người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng, người giám định; người phiên dịch; người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Trong số những người tham gia tố tụng trên, có người bị hại là người mà thực tiễn xét xử còn nhiều vướng mắc, hiện nay do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định chưa rõ ràng, phần còn lại là do nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chưa được thống nhất. Thực tiễn xét xử cho thấy có Toà án xác định là người bị hại, có Toà án chỉ xác định là nguyên đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. 11
- Về hình thức phiên toà sơ thẩm Phòng xử án, vị trí, chỗ ngồi của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, "Vành móng ngựa", chỗ ngồi của người bào chữa, luật sư và những người tham gia tố tụng khác cho đến nay đã có sự thay đổi, sơ đồ phiên tòa hình sự cho thấy Luật sư đã ngồi ngang hàng với Kiểm sát viên, thể hiện sự bình đẳng với Kiểm sát viên trong quá trình tranh tụng tại tòa án. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát vẫn có quyền rút quyết định truy tố và đề nghị Toà án đình chỉ vụ án khi Toà án vẫn đang thụ lý vụ án. Còn Tòa án có quyền trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Việc Tòa án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung cũng còn nhiều vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định chưa đầy đủ. Có nhiều vụ án sau khi điều tra bổ sung, Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án lại cho Toà án xét xử sơ thẩm bằng một công văn là không thay đổi bản cáo trạng. Đây là việc không đúng quy định pháp luật vì kết quả điều tra bổ sung cần phải được thể hiện trong bản cáo trạng, và việc không sửa đổi, bổ sung gì thêm khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung làm cho Hội đồng xét xử khó đảm bảo khách quan, toàn diện, gây bất lợi cho bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố. Về thủ tục tại phiên toà sơ thẩm Phiên toà sơ thẩm có các giai đoạn: Phần mở đầu, phần xét hỏi, phần tranh luận và tuyên án. Phần tranh luận chính là phần thể hiện tính tranh tụng nhiều nhất nhưng hầu như người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án hình sự chưa tranh luận triệt để, chi tiết từng vấn đề cần chứng minh trong vụ án. Còn Kiểm sát viên thì không tranh luận hoặc tranh luận không hết các ý kiến mà người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đưa ra. Vấn đề này dễ gây bức xúc, hiểm lầm cho những người tham gia tố tụng, tham dự phiên tòa làm giảm niềm tin vào pháp luật, giảm niềm tin vào những cán bộ thực thi nhiệm vụ. Việc Hội đồng xét xử nghị án cũng như thời gian nghị án cũngcòn nhiều vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định rõ ràng cũng như chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát về việc ra bản án. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư Theo quy định tại Điều 3 Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012: “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ 12
- của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.” Luật sư Theo quy định tại Điều 2 Luật Luật sư 2006: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng). Hoạt động bào chữa của luật sư Hoạt động bào chữa của luật sư bao gồm tính trợ giúp, hướng dẫn và phản biện: Tính trợ giúp: Trong bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những người rơi vào vị thế thấp kém như người nghèo, người già, người chưa thành niên, họ thường bị ức hiếp, bị đối xử trái pháp luật rất cần sự giúp đỡ, bênh vực vô tư, không vụ lợi của luật sư. Vì thế hoạt động trợ giúp của luật sư đối với họ là bổn phận, đạo đức của luật sư. Tính hướng dẫn: Luật sư là những người hiểu biết những quy định của pháp luật, tục lệ và bản sắc văn hoá của nhiều dân tộc. Hoạt động hướng dẫn của luật sư làm cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, hướng dẫn họ có ứng xử phù hợp với pháp lý và đạo lý. Tính phản biện: Luật sư đưa ra những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người người tham gia tố tụng khác, của các cơ quan tố tụng hình sự liên quan vụ án mà luật sư thấy không phù hợp pháp luật. Luật sư sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý. 1.2 Các yếu tố tác động đến hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Thực hiện quyền của người bào chữa, luật sư Người bào chữa: Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng hình sự yêu cầu, sau đó Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can (từ giai đoạn điều tra), bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết 13
- gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý. Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. Người bào chữa có thể là người đại diện hợp pháp của bị cáo. Người đại diện hợp pháp là bố mẹ để, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Và nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội trong một vụ án hình sự. Luật sư: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức, cơ quan tố tụng có thẩm quyền. Luật sư là người tham gia Tố tụng Hình sự được cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền cấp Thông báo người bào chữa để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can từ giai đoạn điều tra, truy tố, bị cáo theo quy định pháp luật, theo quy định của Luật Luật sư 2006 và Luật luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012 và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam nhằm góp phần bảo vệ công lý. Những người sau đây không được bào chữa: Người đã tiến hành tố tụng vụ án hình sự đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án hình sự đó; Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc. Thực hiện bào chữa của luật sư Thực hiện bào chữa của luật sư trong vụ án hình sự là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật TTHS quy định cho luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự nhằm thực hiện chức năng bào chữa cho người bị buộc tội hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hai, đương sự. Theo quy định tại khoản 4, Điều 31 Hiến pháp 2013 quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân. Luật sư có địa vị, vai trò rất cần thiết khi tham gia tố tụng với vai trò là người bào 14
- chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự. Sự có mặt của luật sư góp phần tốt hơn cho việc bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho mọi người tham gia tố tụng khác. Luật sư thực hiện nhiệm vụ, có điều kiện thực hiện các biện pháp bảo vệ cho khách hàng, thể hiện phẩm chất nghề nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp nhằm gỡ bỏ cáo buộc cho bị can, bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng, góp phần vào việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, bảo vệ pháp chế xã hội, tạo lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Quy định của pháp luật về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Vị trí người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự rất quan trọng, luật sư là người bào chữa chủ yếu cho bị can, bị cáo một cách đầy đủ nhất trước các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, Tòa án hình sự cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, do phạm vi hoạt động của luật sư đặc thù là theo mục đích yêu cầu của khách hàng là chính, nên luật sư có thể tham gia tố tụng với các mục đích khác nhau theo đề nghị của khách hàng. Nghề luật sư theo quy định hiện hành được cho là nghề tiêu biểu nhất và thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật. Nghề Luật sư ngoài rất nhiều yêu cầu về kiến thức, những trình độ chuyên môn cao, người luật sư còn phải tuân thủ theo những quy chế đạo đức nghề nghiệp riêng của nghề luật sư. Luật sư là những người được xã hội đánh giá cao bởi vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân và góp phần bảo vệ pháp chế, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Phạm vi hành nghề của luật sư trong vụ án hình sự Trong vụ án hình sự, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác và người bị tố giác; người bị tạm giữ, người bị bắt do phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; bị can, bị cáo và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền lợi hợp pháp hoặc người đại diện cho người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; Những vấn đề lưu ý với các quy định mới của pháp luật. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 77 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 48 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 61 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn