intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

25
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn hướng đến mục đích đánh giá khách quan, toàn diện công tác kháng nghị phúc thẩm, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ QUỲNH ANH KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MẠNH HÙNG HÀ NỘI, 2019 1
  2. LỜI CAM OAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Người cam đoan Trần Thị Quỳnh Anh
  3. MỤC LỤC MỞ ẦU ...................................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ ........................................................... 7 1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự ....................................... 7 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm hình sự ......................................................................................................................... 18 Chương 2. THỰC TRẠNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HAI CẤP TỈNH THÁI NGUYÊN ..................... 34 2.1. Khái quát thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự tại tỉnh Thái Nguyên ......... 34 2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 36 2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên ............................................................................. 47 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC .. 61 KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ .............................................................. 61 3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm . 61 3.2. Tăng cường việc triển khai, áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm ............................................................................................ 62 3.3. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; công tác thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành Kiểm sát, trong đó có công tác kháng nghị phúc thẩm . 64 3.4. Nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ...................................................................... 68 3.5. Tăng cường sự chỉ đạo, phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Thái Nguyên ........................................................................................................................ 71 3.6. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong việc giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự .......................................................................... 73 3.7. Tăng cường công tác kiểm sát các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án ................. 74 3.8. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chính sách chế độ đối với cán bộ, Kiểm sát viên ......................................................................................................... 76 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 81
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT T T BLTTHS : ộ luật Tố tụng hình sự BLHS : ộ luật Hình sự CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa TAND : Tòa án nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKS : Viện kiểm sát
  5. MỞ ẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Điều này đã được quy định cụ thể tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Kể từ khi thành lập đến nay, ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố thông qua việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Đồng thời, VKSND còn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án với một quyền năng pháp lý quan trọng là kháng nghị phúc thẩm. Quyền năng này được quy định trong ộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp, trong trường hợp việc xét xử của Tòa án vi phạm pháp luật nghiêm trọng các quy định của Luật hình sự, Tố tụng hình sự hoặc sau phiên tòa xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy quá trình tố tụng từ khi khởi tố vụ án hình sự đến truy tố, xét xử có vi phạm pháp luật cả về hình thức và nội dung. Viện kiểm sát kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án 1
  6. theo trình tự phúc thẩm nhằm sửa chữa, khắc phục các sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm khi ra các bản án, quyết định có vi phạm. Trong những năm qua công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên đã có những chuyển biến tích cực, đa số các bản kháng nghị có bố cục chặt chẽ, lập luận rõ ràng, viện dẫn căn cứ pháp lý chính xác, tính tranh tụng trong kháng nghị đã được nâng lên. Do vậy, tỷ lệ kháng nghị được Viện kiểm sát cấp trên bảo vệ cũng cao hơn, số lượng kháng nghị năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát còn nhiều hạn chế chưa phát huy được hết chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Công tác kiểm sát bản án, biên bản nghị án, biên bản phiên tòa và các tài liệu khác thực hiện chưa tốt, dẫn đến vi phạm của cấp sơ thẩm không bị phát hiện, mặt khác do trình độ nhận thức của Kiểm sát viên không đầy đủ, chất lượng bản kháng nghị chưa đạt, nên có nhiều quyết định kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát ban hành chưa chính xác, dẫn đến nhiều vụ án Viện kiểm sát phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Tòa án chấp nhận còn thấp trong khi số lượng án sơ thẩm phải sửa, hủy án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ khá lớn. Công tác kháng nghị phúc thẩm chưa thật sự được quan tâm đúng mức nên chưa phát huy được hết vai trò, chức năng nhiệm vụ của Ngành trong quá trình giải quyết án hình sự. Với mong muốn từ quá trình nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự nói chung va kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên nói riêng, qua đó tìm ra nguyên nhân và kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm thời gian tới, học viên lựa chọn đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2
  7. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự dưới nhiều góc độ, phương diện khác nhau, cụ thể: - Các công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự: GS. TS Võ Khánh Vinh (2004), ình luận khoa học ộ luật TTHS, Nxb. Công an nhân dân; TS. Phạm Mạnh Hùng (2018), ình luận khoa học ộ luật TTHS, Nxb Lao động; Đại học Luật Hà Nội (2017) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; Đinh Văn Quế (2007), Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Kiểm sát (số 15); Ngô Thanh Xuyên (2012), Bàn về khái niệm kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số 6)… - Các công trình nghiên cứu về những bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự: Hoàng Thị Minh Sơn (2013), Một số bất cập trong quy định của Bộ luật TTHS về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, Tạp chí Luật học (số 8); Mai Thanh Hiếu (2015), Khái niệm hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật học (số 1)… - Các công trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về kháng nghị phúc thẩm hình sự: Vũ Đức Thành (2010), Đôi điều rút ra qua thực hiện công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tạp chí Kiểm sát (số 16); Lê Thành Dương (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự, VKSND tối cao… - Các công trình nghiêm cứu về các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự: Ngô Thanh Xuyên, Đỗ Mạnh Phương (2014), Hoàn thiện các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, Tạp chí Kiểm sát (số 17); Nguyễn Thị Lan 3
  8. (2017), Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Tạp chí Kiểm sát (số 3)… Nhìn chung, các bài viết và công trình nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm hình sự đã có sự phân tích, đánh giá ở những phương diện khác nhau, tuy nhiên thường chỉ tập trung giải quyết một hoặc một vài nội dung nhất định mà chưa có bài viết nào đi sâu nghiên cứu, phân tích về chế định kháng nghị phúc thẩm ở cả phương diện lý luận và thực tiễn công tác này của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn lựa chọn vấn đề phân tích, đánh giá về những kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm; lý giải những yếu tố ảnh hưởng và đê xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn hướng đến mục đích đánh giá khách quan, toàn diện công tác kháng nghị phúc thẩm, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào thực hiện những nhiệm vụ chính như: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát. - Phân tích, đánh giá toàn diện việc thực hiện pháp luật và thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. Từ đó, nêu lên được những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế trong 4
  9. việc thực hiện công tác kháng nghị phúc thẩm và chỉ ra nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nói chung và của VKSND tỉnh Thái Nguyên nói riêng. 4. ối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: luận văn đi vào nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKS, có sự so sánh đối chiếu giữa LTTHS năm 2003 với LTTHS năm 2015; Luật tổ chức VKSND năm 2002 và 2014, liên hệ với thực tiễn tỉnh Thái Nguyên. - Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu toàn diện thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là phép duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về cải cách tư pháp. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, hệ thống, thống kê, so sánh – đối chiếu… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời đề ra giải pháp hoàn thiện một số vấn đề lý luận về thủ tục phúc thẩm. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần đánh giá thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong 05 năm vừa qua 5
  10. và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục kháng nghị phúc thẩm của VKSND hai cấp tỉnh Thái Nguyên. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự Chương 2: Thực trạng kháng nghị phúc thẩm hình sự của viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh thái nguyên Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự 6
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự 1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự Theo khoản 1, Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Khoản 1, Điều 2, Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền công tố. Hoạt động này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn xét xử, VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố để bảo vệ quan điểm truy tố theo cáo trạng, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, VKSND còn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Nếu xét thấy bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng thì Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp sẽ sử dụng một quyền năng pháp lý đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm, đó là quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. 7
  12. Khoản 1, Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của VKSND theo quy định của pháp luật”. Như vậy, kháng nghị là một quyền năng pháp lý quan trọng của VKS khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình. Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “kháng nghị” là bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị [20, tr. 894]; “phúc thẩm” là xét lại những vụ án do Tòa án dưới đưa lên [20, tr. 1087]. Theo Từ điển Luật học, “kháng nghị” của VKS là việc VKS khi thực hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, gửi văn bản đến Tòa án có thẩm quyền làm ngưng hiệu lực thi hành đối với toàn bộ hoặc một phần bản án đó để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đảm bảo cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật [8, tr. 731]; “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm” chỉ có VKS cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp của VKS này mới có quyền kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm. Từ đó, có thể hiểu kháng nghị là hành vi tố tụng của VKS, thể hiện việc không đồng ý với toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án, với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, khách quan, công bằng đồng thời khắc phục, sửa chữa những sai sót trong bản án, quyết định của Tòa án [3]. Điều 232 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng 8
  13. nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Điều 36 LTTHS năm 2003 quy định: “…2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: i) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án”. Khoản 2, Điều 41 LTTHS năm 2015 quy định Viện trưởng VKS có quyền: “o) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này”. Khoản 3, Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật”. Như vậy, pháp luật đã quy định rõ khi xét thấy những bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý quan trọng, xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKS và xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự nước ta đó là bảo đảm hai cấp xét xử. Theo nội dung của nguyên tắc này, một vụ án có thể được xét xử qua hai cấp, từ đó những vấn đề của vụ án sẽ một lần nữa được xem xét, phân tích, đánh giá, làm cơ sở cho các phán quyết của Tòa án đảm bảo độ chính xác, khách quan cao hơn. Thông qua hoạt động xét xử vụ án hình sự qua hai cấp xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm có thể kịp thời sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Đồng thời, việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ giúp tìm ra nguyên nhân của những sai lầm hay những vi phạm pháp luật 9
  14. trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, kháng nghị của VKS không phải chỉ có trong trình tự phúc thẩm mà còn là căn cứ để xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cụ thể, kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục tái thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, nếu kháng nghị là căn cứ để xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì gọi là kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, do giới hạn của phạm vi nghiên cứu nên đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về kháng nghị phúc thẩm hình sự. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lý nước ta. Tuy nhiên, trong LTTHS hiện hành, các văn pháp pháp lý khác và trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học vẫn chưa đưa ra một định nghĩa thống nhất về khái niệm “kháng nghị phúc thẩm hình sự”. Có tác giả cho rằng kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý được Nhà nước giao cho VKSND để kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời [11]. Quan điểm khác lại định nghĩa kháng nghị phúc thẩm là một văn bản do VKS ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật [21]. Trên cơ sở phân tích nội dung, đặc điểm, đặc trưng, mục đích của kháng nghị phúc thẩm hình sự, nghiên cứu các tài liệu có liên quan cũng như tiếp thu các quan điểm của các nhà khoa học về tố tụng hình sự, tác giả đưa ra 10
  15. định nghĩa về kháng nghị phúc thẩm hình sự như sau: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm. Qua đó nhằm bảo đảm việc xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng pháp luật, việc xét xử nghiêm minh, kịp thời, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. 1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự có một số đặc điểm cơ bản như sau: - Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho VKSND. Đây là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS đã được quy định tại Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 và được cụ thể hóa trong Luật tổ chức VKSND năm 2014. Thông qua công tác kháng nghị, VKS đồng thời thực hiện được chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. ên cạnh chức năng thực hành quyền công tố thì VKS còn có nhiệm vụ quan trọng khác trong tố tụng hình sự, đó là chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo đó, VKS sẽ kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố 11
  16. và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự cho đến khi thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, hai chức năng này của VKS được thực hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự và thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, VKS phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm. Điều 23 LTTHS năm 2003, nay là Điều 20 LTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, cụ thể “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội”. Như vậy, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, pháp nhân phạm tội; khi kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự, VKS kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. - Hoạt động kháng nghị phúc thẩm xuất hiện khi VKS nhận thấy có những “vi phạm pháp luật nghiêm trọng” trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp. Vấn đề đặt ra ở đây là đánh giá mức độ vi phạm pháp luật của bản án, quyết định như thế nào? Có quan điểm cho rằng, khi đánh giá mức độ vi phạm thì chỉ cần xác định bản án, quyết định có sự vi phạm pháp luật là đã có căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Mặt khác, Điều 32 Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/2017/QĐ-VKSTC 12
  17. ngày 18/12/2017 của VKSND tối cao nêu căn cứ để kháng nghị phúc thẩm là có “vi phạm pháp luật”, tức là vi phạm trong việc áp dụng pháp luật nội dung (luật hình sự) và vi phạm pháp luật hình thức (luật tố tụng hình sự). Tuy nhiên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ mức độ vi phạm làm căn cứ cho việc kháng nghị phúc thẩm phải là “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”. Cụ thể Điều 5 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định VKSND có quyền kháng nghị, kiến nghị. Theo đó, quyền kháng nghị được thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có “vi phạm pháp luật nghiêm trọng”, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị; quyền kiến nghị được VKSND thực hiện khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có “vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng” không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật. Như vậy, không phải đối với vi phạm pháp luật nào trong hoạt động tư pháp VKS cũng ban hành kháng nghị mà kháng nghị của VKS chỉ được ban hành đối với những vi phạm pháp luật nghiêm trọng. - Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Hoạt động kháng nghị là một trong những căn cứ để Tòa án xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Theo quy định tại Điều 230 LTTHS 2003 nay là Điều 330 LTTHS 2015 thì xét xử phúc thẩm là một thủ tục tố tụng hình sự, tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Xét xử phúc thẩm góp phần bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu sót 13
  18. có thể xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, một bản án, quyết định sơ thẩm sẽ được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm khi có đủ hai điều kiện: bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Điều này khác với kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có đối tượng là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. - Kháng nghị phúc thẩm góp phần cho một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là chế độ hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được bảo đảm. Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Sau khi vụ án được xét xử phúc thẩm thì bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành, không phụ thuộc vào việc bản án, quyết định đó có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Còn giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là thủ tục “xét lại” bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (đối với thủ tục giám đốc thẩm) hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó (đối với thủ tục tái thẩm). - VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm do tính chất “xét lại” bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là đặc biệt nên thẩm quyền kháng nghị đã được giới hạn. Theo đó, thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về VKSND tối cao, TAND tối cao, Tòa án quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, VKSND cấp cao và TAND cấp cao; thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm chỉ 14
  19. có Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương và Viện trưởng VKSND cấp cao. Từ những phân tích trên về đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự có thể thấy, kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước giao cho VKSND. Kháng nghị phúc thẩm hình sự được VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp thực hiện khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án đó theo trình tự phúc thẩm nhằm kịp thời sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, vi phạm của Tòa án cấp dưới, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời, đồng thời bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức xã hội và Nhà nước. 1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm hình sự - Việc quy định và thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quy định này góp phần quan trọng vào việc thực thi pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của mình, VKS sẽ phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật nghiêm trọng, từ đó ban hành kháng nghị nói chung và kháng nghị phúc thẩm nói riêng làm căn cứ bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, không để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. - Việc quy định và thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm là căn cứ quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm có mục đích là kiểm tra lại tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm và xét xử lại vụ án 15
  20. về mặt nội dung. Từ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và của công dân được bảo vệ; những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm được khắc phục, sửa chữa; pháp luật được hướng dẫn, giải thích và áp dụng thống nhất. - Việc thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. Việc phát hiện ra những vi phạm để ban hành kháng nghị và yêu cầu Tòa án xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm sẽ góp phần bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, được áp dụng và thực thi thống nhất. Thật vậy, hiểu được tầm quan trọng của khâu công tác này, trong những năm quan Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành nhiều Chỉ thị về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự. Trên cơ sở đó đã tạo nhiều chuyển biến mới đối với công tác này trong ngành Kiểm sát nhân dân. 1.1.4. Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm hình sự Hiệu lực của kháng nghị phúc thẩm là sự phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và giới hạn việc thực hiện thẩm quyền xem xét và quyết định của tòa án trong giới hạn xét xử sơ thẩm, phạm vi và hướng kháng nghị theo quy định của pháp luật với điều kiện kháng nghị phúc thẩm hợp pháp về đối tượng, chủ thể, thời hạn, hình thức và thủ tục kháng nghị. Hiệu lực của kháng nghị là bảo đảm pháp lý cần thiết cho việc thực hiện đúng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm; bảo đảm cho việc xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, tìm ra nguyên nhân của sai lầm hay vi phạm về pháp luật trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng, từ đó tìm ra giải pháp thích 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2