intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:74

82
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kết cấu của luận văn gồm 03 chương: Chương 1 - Những vấn đề lý luận chung và pháp luật về nguyên tắc suy đoán vô tội; Chương 2 - Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và thực tiễn áp dụng; Chương 3 - Một số yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tiễn. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM NGUYỄN VIẾT CƯỜNG NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM NGUYỄN VIẾT CƯỜNG NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên nghành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐINH THẾ HƯNG HÀ NỘI, năm 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Nguyễn Viết Cường
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI ...................................... 6 1.1. Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội .................. 6 1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và một số nguyên tắc khác trong tố tụng hình sự. .............................................................................. 17 1.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên thế giới ..................................................................................................... 21 CHƯƠNG 2. SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG BỘ LUẬT TTHS 2015 VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG ...... 26 2.1. Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về các quyền của người bị buộc tội ............................................................................ 26 2.2. Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định chứng minh và chứng cứ trong tố tụng hình sự................................................................... 27 2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự ..................................................................................................... 30 2.4. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong các giai đoạn của tố tụng hình sự ...... 34 2.5. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội ........................................ 42 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI .............................. 54 3.1. Một số yêu cầu bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội .............. 54 3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tiễn ........................................................................................................... 56 3.3. Một số giải pháp khác .............................................................................. 63 KẾT LUẬN ................................................................................................... 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra HĐXX : Hội đồng xét xử SĐVT : Suy đoán vô tội TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự THTT : Tiến hành tố tụng VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chúng ta đang Cải cách tư pháp trong bối cảnh xây xựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân - một Nhà nước mà ở đó quyền con người trong đó có quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự được tôn trọng và bảo vệ. Một trong những yêu cầu của nhà nước pháp quyền là phải xây dựng cho được hệ thống pháp luật thống nhất, chặt chẽ và đồng bộ. Pháp luật tố tụng hình sự với tư cách là cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nhằm phát hiện xử lý tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người cũng cần đáp ứng yêu cầu đó. Pháp luật tố tụng hình sự đáp ứng các đòi hỏi của nhà nước pháp quyền, trước hết thể hiện ở chỗ hệ thống nguyên tắc của nó với tư cách là những quan điểm chỉ đạo làm nền tảng và xuyên suốt các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, hoạt động tố tụng hình sự cần được thể hiện đầy đủ, toàn diện và đồng bộ. Là các nguyên tắc cơ bản, cốt lõi và quan trọng của tố tụng hình sự. Trong hệ thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự, nguyên tắc suy đoán vô tội đóng vai trò hết sức quan trọng và có thể nói đây là một trong những nguyên tắc cơ bản và là trụ cột chính kiến tạo nên hệ thống pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Việc nghiên cứu nguyên tắc này trên cả ba phương diện: lý luận, lập pháp và thực tiễn có vai trò rất lớn trong việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự cũng như hoạt động áp dụng nó nhằm đạt được mục đích của tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới đã mặc nhiên thừa nhận nguyên tắc SĐVT và coi nó là một trong những nguyên tắc của tố tụng hình sự của quốc gia mình. Không loại trừ nước ta, Nguyên tắc suy đoán vô tội được pháp luật Việt Nam ghi nhận một cách đầy đủ trong Bộ luật TTHS Việt nam 2015 với tư cách là một nguyên tắc cơ bản. Với tầm quan trong như vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội đã được quan tâm nghiên cứu trong khoa học pháp luật trong và ngoài nước từ lâu. Tuy nhiên, để nguyên tắc này được thể hiện đầy đủ, toàn diện và đồng bộ trong pháp luật TTHS 1
  7. và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế cần tiếp tục có những nghiên cứu về mặt lý luận nhằm nhận thức đúng đắn, đầy đủ nội dung của nguyên tắc này trong hệ thống thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam, đánh giá sự thể hiện nguyên tắc này trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng nó, đặc biệt là thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội kể từ khi nó được chính thức ghi nhận đày đủ là một nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam trong Bộ luật TTHS 2015. Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy vẫn còn tình trạng không nhận thức đúng đắn, đày đủ nguyên tắc suy đoán vô tội dẫn đến vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến tình trạng chẳng những bỏ lọt tội phạm mà còn làm oan người vô tội. Thực tiễn đó đòi hỏi có những giải pháp về pháp luật cũng như tổ chức thực hiện đúng đắn để đảm bảo cho nguyên tắc suy đoán vô tội được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền con người trong TTHS cũng như đảm bảo được mục đích của TTHS Việt nam là: Bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Do đó, việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc SĐVT; những điểm mới tích cực, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến SĐVT trong BLTTHS 2015. Từ đó làm cơ sở đánh giá sự hoàn thiện của nguyên tắc SĐVT thể hiện trong BLTTHS 2015. Bên cạnh đó, đề xuất, đưa ra một số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định về SĐVT trong thực tiễn là rất cần thiết hiện nay. Nhận thức như vậy, tác giả đã chọn đề tài “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở Việt Nam, hiện nay các công trình, bài viết của các nhà khoa học về nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật TTHS vẫn còn hạn chế. Các bài viết này 2
  8. được nghiên cứu dưới nhiều góc độ và phạm vi khác nhau nhưng về cơ bản vẫn cùng một nội dung, mục đích chung là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền của người bị buộc tội. Bảo đảm các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định BLTTHS trong quá trình tố tụng. Một số bài viết, công trình nỗi bật cụ thể, như: Luận án tiến sĩ “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự” của Nguyễn Quang Hiền; Bài viết “Nguyên tắc suy đoán vô tội” trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2006 của PGS TS Nguyễn Thái Phúc; Bài viết “Các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam” của GS TSKH Đào Trí Úc; Bài viết “Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” của Ts Đinh Thế Hưng; Bài viết “Nguyên tắc suy đoán vô tội – nguyên tắc hiến định quan trọng trong BLTTHS năm 2015” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Kiểm sát số 02 (2017); “Bình luận về nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi" (2015), Tạp chí Kiểm sát, số 09, của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc; Bài viết “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự - Khái quát các tiêu chuẩn quốc tế và quy định pháp luật Việt Nam” Tác giả: PGS. TS. Trần Văn Độ Viện Nhà nước và pháp luật; "Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự" (2013) của Trịnh Tiến Việt…Tác giả Nguyễn Văn Hiện có bài viết “ Tòa án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ chức” – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 8/1999. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội xuất bản cuốn “Quyền con người” (năm 2011) do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên…vv Các công trình khoa học, các bài viết của các tác giả trên đã nghiên cứu các vấn đề về nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự nhưng chủ yếu thực hiện trước khi Bộ luật TTHs 2015 được ban hành. Những công trình trên rất có ý nghĩa để thực thi được đề tài “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam” 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về lý luận và thực 3
  9. tiễn, luận văn khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nguyên tắc SĐVT là nguyên tắc cơ bản trong TTHS Việt Nam. Từ đó, đưa ra kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS cũng như các giải pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tiễn tố tụng hình sự Việt nam . 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về SĐVT; các biện pháp bảo đảm quyền SĐVT của người bị buộc tội Phân tích, đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc SĐVT trong TTHS Việt Nam Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc SĐVT trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự Đề xuất giải pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quan điểm lý luận về SĐVT. Pháp luật thực định về nguyên tắc SĐVT trong giải quyết vụ án hình sự (điều tra, truy tố, xét xử). Các phương thức, giải pháp bảo đảm quyền nguyên tắc SĐVT trong quá trình tố tụng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật thực định về SĐVT; Những tài liệu, bài viết, công trình đã được nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực SĐVT. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Cơ sở phương pháp luận của luận văn là Những quan điểm của Mác-Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền và Cải cách tư pháp 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp,...;Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các Hiến pháp, BLTTHS, các văn bản pháp luật có liên quan, tham khảo các công trình 4
  10. nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan. Trong đó, hai phương pháp nghiên cứu và phân tích là hai phương pháp chủ đạo của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về nguyên tắc SĐVT, những yêu cầu đặt ra đối với cơ quan THTT, chủ thể THTT trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đưa ra các giải pháp cụ thể trong từng giai đoạn, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng trong giai đoạn cải cách tư pháp. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và pháp luật về nguyên tắc suy đoán vô tội. Chương 2: Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tiễn. 5
  11. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI 1.1. Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội Trong tiếng Anh, thuật ngữ suy đoán vô tội được dịch từ “presumption of innocence” trong các tài liệu khoa học hay cụm từ “the right to be presumed innocent” trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Chẳng hạn, Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người 1948 nêu “Everyone charged with a penal offence has the right to be presumed innocent until proved guilty” (khoản 1, Điều 11), và tương tự, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966 nêu “Everyone charged with a criminal offence shall have the right to be presumed innocent until proved guilty” (khoản 2 Điều 14).[10] Nguồn gốc của thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng La tinh “praesumptino” hay trong tiếng anh “presump” được hiểu là coi vấn đề, hiện tượng nào đó là đúng đắn cho đến khi chưa có lý do bác bỏ vấn đề, hiện tượng đó. Luật học không sử dụng “presump” theo nghĩa suy đoán, theo từ điển Longman nêu rõ trong lĩnh vực luật, “presump” được hiểu là ‘chấp nhận một điều gì đó là đúng cho đến khi nó được chứng minh là không đúng’. Đây chính là khái niệm giả định, giả thiết trong tiếng Việt [10]. Như vậy với cách sử dụng thuật ngữ “presump” đã xuất hiện đến hai ý kiến với ý nghĩa khác nhau, “suy đoán” hoặc “giả định”. Dưới góc ngữ nghĩa tiếng Việt thì đây là hai thuật ngữ hoàn toàn khác nhau. Việc “Suy đoán" đòi hỏi phải có thông tin, dữ kiện, tài liệu, chứng cứ để khiến con người tin vào một điều gì đó. Còn Giả định được hiểu là “cho một cái gì đó là có thật để làm căn cứ để tiến hành làm cái gì đó”. Theo ngôn ngữ đời thường, suy đoán là dựa vào cái này mà đoán ra cái khác. Trong pháp luật, suy đoán là một trong những kỹ thuật lập pháp, là suy đoán pháp lý nên phải chịu sự ràng buộc của pháp luật. 6
  12. Cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội có từ thời La-mã cổ đại khi người ta cho rằng trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo và chỉ áp dụng trong tố tụng dân sự.[13] Tư tưởng này chỉ trở thành nguyên tắc pháp luật khi khi cách Cách mạng tư sản Pháp thắng lợi cùng với đó là đòi hỏi ngày càng gay gắt của xã hội: Cần phải có biện pháp hạn chế, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán xâm phạm thô bạo quyền con người trong tố tụng hình hình sự từ phía nhà nước. Suy đoán vô tội được ví như là nguyên tắc “vàng” trong TTHS, một thành tựu vĩ đại của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người và chứng minh trong TTHS đã được thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về Quyền chính trị, dân sự năm 1966 của Liên hợp quốc. Luật TTHS của nhiều nhà nước văn minh cũng đã ghi nhận suy đoán vô tội là nguyên tắc cơ bản trong luật TTHS. Nguyên tắc này có những nội dung sau đây: - Người bị tình nghi, bị can, bị cáo luôn vô tội cho đến khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của toà án. - Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình. - Mọi nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ đều phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo. - Bản án không được dựa trên những chứng cứ giả định. Hoạt động phát hiện, xử lý mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội trong tố tụng hình sự là một dạng của hoạt động nhận thức. Chính vì vậy những quan điểm triết học về nhận thức nói chung cũng ảnh hưởng rất nhiều đến nhận thức trong tố tụng hình sự. Lịch sử triết học đã cho thấy, xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là nguồn gốc của mọi tồn tại, ý thức quyết định vật chất…, các nhà triết học duy tâm cho rằng: Không phải thế giới vật chất mà chính các ý niệm tinh thần mới là đối tượng của nhận thức. Nhận thức là hoạt động của linh hồn nhằm hồi tưởng lại những ý niệm tuyệt đối nằm ngoài thế giới vật chất. Con người không nhận thức được bản chất mà chỉ nhận thức được những đặc tính bề ngoài của của sự vật hiện tượng, sự vật. Chính những quan niệm duy 7
  13. tâm về nhận thức này ảnh hưởng đến hoạt động chứng minh, thu thập chứng cứ và xử lý tội phạm của luật TTHS trong các nhà nước chiếm hữu nô lệ hay nhà nước phong kiến. Luật TTHS trong nhà nước này cho phép quan toà xử theo quan niệm, ý chí chủ quan của mình. Từ đó, việc kết luận có tội hay không có tội tuỳ thuộc vào quan tòa với những thủ tục tố tụng phản khoa học, những cách đối xử với người bị tình nghi phi nhân tính. Ví dụ: Quan niệm hòa đồng giữa công lý và thượng đế cho rằng nếu người phạm tội chịu được những nhục hình tra tấn như căng nọc, nhúng nước sôi, phơi nắng, đóng dấu bằng lửa…mà vẫn sống thì quan toà cho đó là ý chí của Thượng đế chứng nhận người này không phạm tội nên tha bổng. Với kiểu tố tụng như vậy tất yếu sẽ dẫn đến công lý bị xuyên tạc bởi sự vu cáo và thiên vị. Khác với quan điểm duy tâm về nhận thức, lý luận nhận thức Mác-xít khẳng định: Nhận thức là hoạt động của con người thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau giữa con người và thế giới xung quanh. Con người hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới. Nhận thức của con người không chỉ dừng lại ở những hiện tượng bề ngoài của đối tượng nhận thức mà có thể nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, lý luận nhận thức Mác-xít cũng chỉ rõ: Con người không thể ngay tức khắc nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng. Nhận thức là một quá trình từ thấp lên cao, từ chưa biết đến biết, từ biết chưa đầy đủ đến biết đầy đủ, từ hiện tượng đến bản chất…. Lê-nin đã tổng kết: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý. Trong quá trình nhận thức, con người luôn phải giải quyết các mâu thuẫn và mục đích cuối cùng là đạt đến chân lý. Chân lý là tri thức có nội dung phù hợp với thực tiễn khách quan mà nó phản ánh. Lê-Nin đã khái quát lý luận nhận thức Mác-xít như sau: Trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh từ không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào”. Cũng giống như hoạt động nhận thức khác, nhận thức trong tố tụng hình sự 8
  14. phải được bắt đầu bằng những giả thiết chứ không phải là những định kiến sẵn có. Khi có sự kiện pháp lý đem đến sự suy đoán về dấu hiệu tội phạm các cơ quan tiến hành tố tụng phải đặt giả thiết có thể có hoặc không có tội phạm và người phạm tội. “Có thể” chứ không phải là “chắc chắn” phạm tội hay vô tội. Ngay cả khi một nhân viên điều tra hay thẩm phán trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội đi chăng nữa thì vẫn không thể vì thế mà không bắt đầu quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự bằng sự suy đoán. Bởi vì, nhận thức của nhân viên điều tra hoặc thẩm phán trên là nhận thức của cá nhân anh ta về vụ án chứ không phải nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Mặt khác, nếu cá nhân điều tra viên, thẩm phán trực tiếp chứng kiến vụ việc thì địa vị pháp lý của anh ta trong vụ án phải là người làm chứng chứ không được là người tiến hành tố tụng. Từ phân tích trên, có thể khẳng định nhận thức trong TTHS trước hết phải bắt đầu bằng sự suy đoán: Suy đoán có tội và suy đoán vô tội chứ không phải là những định kiến có sẵn là có tội hay vô tội. Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân - một nhà nước mà ở đó, quyền con người được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Điều đó đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật TTHS nói riêng cần phải được hoàn thiện. Trong đó, những tư tưởng pháp lý tiến bộ được quốc tế thừa nhận như giá trị chung của văn minh nhân loại phải được nghiên cứu và ghi nhận về mặt lập pháp. Vì thế, việc ghi nhận cụ thể, đầy đủ nguyên tắc suy đoán vô tội như là nguyên tắc cơ bản là đòi hỏi cấp thiết của luật TTHS trong nhà nước pháp quyền. Với tư cách là nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam, nguyên tắc SĐVT là các quan điểm làm nền tảng, định hướng và chi phối toàn bộ tố tụng hình sự trong đó khẳng định một người luôn vô tội cho đến khi họ được chứng minh là có tội bằng bản có hiệu lực pháp luật của tòa án bằng thủ tục tố tụng công bằng do luật định. Suy đoán vô tội được coi là một trong những thành tựu lớn của khoa học pháp lý thế giới và được một số nước coi là nguyên tắc trong pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau của các nhà luật học về Suy 9
  15. đoán vô tội, song tựu lại có thể thấy 02 nhóm qua điểm: Một là, nhóm quan điểm không thừa nhận: Nhóm này cho rằng nếu không có lỗi cá nhận cụ thể trong những sự việc cụ thể thì không thể có điều tra và xét xử. Việc suy đoán lúc này mang tính chất có tội, vì nếu không có lỗi thì đã không có việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, người bị buộc tội bị suy đoán là có phạm tội và do vậy, luật cần quy định cho họ có nghĩa vụ chứng minh sự không phạm tội của mình giống như các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác định sự thật khách quan của vụ án đúng như những gì xảy ra trong thực tế là đủ mà không cần đến nguyên tắc suy đoán vô tội. Hai là, nhóm quan điểm thừa nhận: Hoạt động tố tụng hính sự khác với các hoạt động khác của con người, nơi mà hoạt động nhận thức có thể kết thúc bằng một kết quả nhận thức mới hoặc có thể chưa đem lại kết quả gì. Hoạt động tố tụng hình sự không thể kết thúc mà không có kết quả pháp lý cụ thể. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự không thể kết thúc hoạt động tụng mà vấn đề có phạm tội hay không phạm tội vẫn chưa thể kết luận được. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là khi kết thúc hoạt động tố tụng hình sự phải xác định rõ ràng hoặc người bị buộc tội là có tội hay không phạm tội. Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xuất phát từ chỗ hoặc là người bị buộc tội được áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội cho đến khi chứng minh được có phạm tội hoặc là người bị buộc tội bị áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội cho đến khi chứng minh được là không phạm tội. Lịch sử phát triển tố tụng hình sự trên thế giới đã không chấp nhận nguyên tắc suy đoán có phạm tội và đã phát triển theo hướng nhân đạo và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. [19] Từ những quan điểm khoa học pháp lý đó, pháp luật TTHS Việt Nam đã tiếp thu tư tưởng tiến bộ và ghi nhận SĐVT là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS để bảo đảm quyền con người và hoạt động TTHS. Trước khi BLTTHS 2015 ra đời thì thuật ngữ “suy đoán vô tội” chưa được quy định chính thức trong bất cứ điều luật điều luật nào. Tuy nhiên một phần của nội dung và tư tưởng của nguyên tắc cũng đã được xuất hiện ở một số văn bản quy phạm pháp luật cũ. Trước tiên tại thông tư số 2252/HCTP ngày 29/10/1953 cho 10
  16. rằng “Không nên có định kiến rằng, hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như người có tội; bị can trước khi tuyên án được coi như vô tội để toà án có thái độ hoàn toàn khách quan”. BLTTHS năm 1988 ra đời đã quy định rõ hơn nội dung này tại điều 10: “Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Hiến pháp 1992 kế thừa và khẳng định lại tinh thần SĐVT một lần nữa tại Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.[36] Trong Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001 nội dung của nguyên tắc SĐVT được quan tâm hơn và được quy định tại Điều 72 Chương V của Hiến pháp với tên gọi của chương là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. BLTTHS năm 2003 ra đời và cũng tiếp tục kế thừa phát huy những thành tựu của các Bộ luật trước, quy định rõ ràng hơn tại Điều 9, theo đó "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật". Tại Điều 10 BLTTHS 2003 “Xác định sự thật của vụ án” cũng quy định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Bản Hiến pháp 2013 mở ra một trang mới quyền con người khi đặt ra quy định tại Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Đây là một trong những nội dung chính là thể hiện đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng, Nguyên tắc SĐVT. Nếu như khoản 1 Điều 72 Hiến pháp cũ quy định chỉ cần một điều kiện là có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì một người bị coi là có tội và chịu hình phạt thì tại Hiến pháp 2013 đã nhấn mạnh và chỉ rõ, một người bị kết tội phải có 02 điều kiện: Một là, phải tuân theo một trình tự luật định và hai là có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Để cụ thể hóa Hiến pháp 2013, Bộ luật TTHS 2015 được ban hành và ghi nhận một nguyên tắc hoàn toàn mới có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động TTHS 11
  17. và góp phần bảo đảm quyền còn người, đó là “nguyên tắc suy đoán vô tội”. Nguyên tắc mở ra một định hướng tích cực hơn và được coi là nguyên tắc “vàng” trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện nay. Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS 2015 đã có sự tiến bộ khi thay đổi chủ từ nhân xưng “Không ai” thành “Người bị buộc tội”. Cách diễn đạt như vậy, không chỉ đơn thuần là thay đổi thuật ngữ mà sự thay đổi trên đã lột tả hết bản chất của SĐVT. Theo đó, các chủ thể SĐVT được xác định rõ gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Khắc phục được những hạn chế của BLTTHS 2003 khi không xác đinh rõ ai là người được SĐVT. Ngoài những chủ thể đầu tiên được SĐVT là bị can, bị cáo, Bộ luật hiện hành đã bổ sung người bị tạm giữ và người bị bắt cũng là hai chủ thể được SĐVT. (điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS). Người bị tạm giữ, người bị bắt là người tại thời điểm tạm giữ hay bị bắt họ chưa có bất cứ lời buộc tội nào từ phía cơ quan tố tụng, chỉ được biết như là tình nghi và có các căn cứ liên quan đến việc phạm tội. Việc ra các lệnh, quyết định bắt, tạm giữ như là một lời buộc tội gián tiếp đối với họ. Do đó, việc quy định thêm hai chủ thể này được SĐVT là phù hợp. Về cơ bản, Bộ luật hiện hành đã thể hiện đầy đủ phạm vi của các chủ thể cũng như thời gian được SĐVT 1.1.2. Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội. Suy đoán vô tội là nguyên tắc có tính nền tảng của tố tụng văn minh, vì thiếu nó chúng ta không thể đến được tư pháp công bằng và nhân đạo. BLTTHS 2015 quy định nguyên tắc SĐVT rất ngắn gọn (có 90 từ), nhưng hiểu như thế nào là đúng để thực hiện mới là vấn đề mà cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng cần quan tâm. Vì đến nay, chưa có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện nguyên tắc này. Theo nhận thức của chúng tôi, nguyên tắc “Suy đoán vô tội” có các nội dung chính sau đây: 1.1.2.1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu luật pháp luật. Một là, yêu cầu về lỗi phải được chứng minh theo trình tự thủ tục. Đây là yêu 12
  18. cầu đầu tiên của nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo GS.TSKH Đào Trí Úc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội thì việc điều tra, truy tố và xét xử một người phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định [41]. Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục TTHS và ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản của TTHS tại Điều 7, “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này…”. Để đáp ứng được điều kiện về trình tự thủ tục, BLTTHS 2015 đã quy định và tổng hợp một chương riêng về một số biện pháp điều tra đặc biệt như: Ghi âm bí mật, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều 233). Pháp luật tố tụng hình sự đã xác định chặt chẽ những căn cứ để đảm bảo cho việc giữ bí mật nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp quy định (Điều 21 Hiến pháp năm 2013). Những yêu cầu pháp lý chặt chẽ liên quan đến các lý do hạn chế quyền con người, quyền công dân trong TTHS được cụ thể hóa trong BLTTHS năm 2015 liên quan đến 3 yếu tố; Một là về loại tội; Hai là về thẩm quyền, Bà là về thời hạn áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt; Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định nghiêm ngặt việc sử dụng các thông tin, tài liệu thu thập từ các biện pháp này. Mục đích nhằm bảo đảm vụ án được giải quyết một cách khách quan, toàn diện, làm rõ các căn cứ xác định có tội và những căn cứ xác định vô tội. Từ những phân tích trên có thể thấy yêu cầu về trình tự thủ tục đảm bảo việc khởi tố, điều tra, truy tố xét xử là đúng quy định pháp luật. [41] Hai là, yêu cầu phải có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đây là hợp phần thứ hai của khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội. Bộ luật thay cụm từ “người phạm tội” bằng các cụm từ “người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm” (Điều 179, 180, 280…) nhằm nhấn mạnh, tạo sự nhận thức rõ ràng cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chừng nào chưa có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là có tội; những người có thẩm quyền THTT không được đối xử với người bị buộc tội như người có tội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định Tòa án nhân 13
  19. dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Tòa án thực hiện quyền tư pháp thông qua hoạt động xét xử để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Tòa án chính là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước có quyền ra bản án kết tội khi có các căn cứ theo quy định pháp luật. Tính duy nhất của Tòa án thể hiện ở chỗ ngoài Tòa án ra, không có bất cứ cơ quan nào khác có thể ra quyết định đó, kể cả Quốc hội, chính phủ..vv Như vậy chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán quyết, xác định một người có tội bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Bản án là một văn bản pháp lý ghi nhận phán quyết của Tòa án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, và phản ánh những kết quả của phiên tòa, ý kiến phân tích, kết quả tranh tụng và đánh giá của hội đồng xét xử. Bản án quyết định bị cáo là người có tội hoặc không có tội. 1.1.2.2. Trách nhiệm chứng minh lỗi của người bị buộc tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình là vô tội Trách nhiệm chứng minh tội phạm được quy định tại Điều 15 BLTTHS 2015 theo đó “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”..vv Có thể thấy, quy định trên không chỉ thuộc nội dung nguyên tắc xác định sự thật của vụ án mà thuộc về nội dung của nguyên tắc SĐVT. Bởi vì, cùng với việc khẳng định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh này thuộc về bên buộc tội. Như vậy, để có thể ra một trong các quyết định khởi tố, điều tra, truy tố…đòi hỏi các cơ quan THTT phải có trách nhiệm chứng minh và xác định rõ ràng các căn cứ là có tội được quy định trong BLHS. Trường hợp nếu xác minh không đủ các căn cứ để ra một trong các quyết định trên thì cơ quan tố tụng phải ra quyết định trả tự do hoặc tuyên bố người bị buộc tội không phạm tội. 14
  20. Về vấn đề quyền chứng minh của người bị buộc tội. Người bị buộc tội có quyền được chứng minh sự vô tội của mình. Người bị buộc tội có thể trực tiếp bào chủa để bảo vệ mình hoặc gián tiếp thông qua người khác làm người bào chữa. Quyền chứng minh của người bị buộc tội thể hiện tính công bằng và khách quan của TTHS nhằm bảo đảm sự bình đẳng và bảo vệ công lý. BLTTHS năm 2015 cho phép người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều có quyền đưa ra chứng cứ mà không chỉ là đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Họ có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ do các chủ thể tố tụng khác đưa ra, yêu cầu người có thẩm quyền THTT kiểm tra, đánh giá chứng cứ đó. Bên cạnh đó, người bào chữa còn có quyền thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Đây là một trong những điểm mới rất quan trọng và có ý nghĩa lớn trong việc giúp người bị buộc tội tự bảo vệ và thực hiện quyền suy đoán vô tội. 1.1.2.3. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo quy định của BLTTHS thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội Nguyên tắc SĐVT đã đưa ra một phương án tốt nhất để đảm bảo quyền và lợi ích cho người bị buộc tội. Tức là nếu không đủ chứng cứ chứng minh bị cáo phạm tội thì tòa án phải tuyên bố người đó không phạm tội. Một thực trạng thường hay xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng hay cụ thể là chủ thể tiến hành tố tụng thường bắt gặp những trường hợp chứng cứ còn mập mờ, không rõ ràng. Dù đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng vẫn không thể xác định và thu thập chứng cứ để ra quyết định. Sau một thời gian các cơ quan THTT vẫn không thể làm rõ, dẫn đến sự hoài nghi, có mâu thuẫn giữa các chứng cứ, hướng giải quyết. Để chống khuynh hướng buộc tội theo kiểu tư duy: “thà làm oan còn hơn bỏ lọt”, BLTTHS năm 2015 mở ra một hướng mới cho những trường hợp còn tồn tại những hoài nghi. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2