intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

22
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH VĂN SỰ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH VĂN SỰ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HỒ SỸ SƠN Hà Nội, năm 2020.
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ HUỲNH VĂN SỰ
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU………………………………………………………………………. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN…………………………………………………………………………….. 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…...................................... 6 1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung của thực hành công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…………………………………... 19 1.3. Các yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản…….……………………. 22 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH…………………………………………………... 26 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản………………….... 26 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh………….. 39 Chương 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN…………… 52 3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa dảo chiếm đoạt tài sản …………………………. 52 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản………………………….. 57 KẾT LUẬN……………………………………………………………………. 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………..…….. 77
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra ĐTV: Điều tra viên KSV: Kiểm sát viên TNHS: Trách nhiệm hình sự TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND để không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nghị quyết số 08 của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 đã nhấn mạnh mốt số nội dung của công tác tư pháp, trong đó có nội dung: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội…” [2]. Yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013, luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015. Những năm qua, hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND có những chuyển biến rõ rệt và tích cưc, chất lượng từng bước được nâng lên. Với vai trò chủ động, tích cực của các Kiểm sát viên của VKSND các cấp trong quá trình giải quyết VAHS, đã hạn chế được tình trạng oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, qua đó đã góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Thực hành quyền công tố nói chung và trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, nhằm bảo vệ công lý, quyền con người, quyền cơ bản của công dân, là một trong những hoạt động quan trọng của VKSND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo khảo sát trong những năm qua, hoạt động này đã thu được những kết quả to lớn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn có những hạn chế bất cập nhất định, vẫn còn những trường hợp khởi tố, bắt, giam giữ không đúng pháp luật làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, trong đó một phần là do một số KSV chưa nhận thức đúng về nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình giải quyết VAHS. Vì vậy còn có tâm lý chủ quan, chưa chủ động, tích cực 1
  7. tham gia vào việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của VAHS, chưa nhận thức đúng đắn về sự quan trọng của mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động điều tra VAHS. Bên cạnh đó, chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND còn bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có quy định của pháp luật, một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay còn chưa được nhận thức thống nhất, còn có những vướng mắc nhất định nhưng chưa có đủ các văn bản hướng dân thực hiện, chưa phát huy được vai trò chủ động của kiểm sát viên trong việc chứng minh tội phạm và người phạm tội. Do đó vẫn còn những yêu cầu khởi tố, điều tra của VKSND chưa được CQĐT tôn trọng và thực hiện đầy đủ, tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các vụ án phải tạm đình đình chỉ điều tra vì không chứng minh được tội phạm vẫn còn tồn tại. Đặt trong điều kiện xã hội mới và yêu cầu bảo vệ tốt hơn, đầy đủ hơn công lý, quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, cần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố nói chung và trong thi hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài:“Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Bởi tầm quan trọng của mình mà vấn đề thực hành quyền công tố trong giai đoạn giai đoạn điều tra vụ án hình sự hay trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Kết quả là đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố, trong số đó có thể kể đến: Luận văn thạc sĩ luật học năm 2019 của Lê Khắc Sơn: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội tham ô tài sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” [29]; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi”của học viên Lý Tường Vy, Học viện Khoa học xã hội, 2
  8. năm 2017; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước” của Lê Văn Quang, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017 [19]; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình”của học viên Nguyễn Tiến Tài, Học viện Khoa học xã hội, năm 2018 [30]; Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” của học viên Nông Thị Huyền, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019 [6]; Luận văn thạc sĩ luật học năm 2015 của tác giả Lê Thanh Hưng: “Chức năng thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đak Nông” [15]. Bên cạnh những công trình nghiên cứu nêu trên, đến nay còn có nhiều công trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố là các bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý, kỷ yếu hội thảo khoa học. Từ khi BLTTHS 2015 có hiệu lực đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong khi đó, việc thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những nơi, những lúc còn chưa được thống nhất. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố của VKSND trong điều tra vụ án hình sự nói chung và điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Việc nghiên cứu thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với địa bàn nói ở đây là Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh đến nay càng cần thiết và càng có ý nghĩa đặc biệt. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn thi hành tại quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất 3
  9. các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. + Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. + Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. + Đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn lấy các quan điểm khoa học được nêu ra trong khoa học luật hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam; Các quy định pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn đó là đề tài về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Về không gian, thời gian: Luận văn được tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 và thực tiễn thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2016 – 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận 4
  10. Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sủ của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong tố tụng hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu các báo cáo tổng kết công tác năm, nghiên cứu hồ sơ vụ án của VKSND quận 1 và VKSND thành phố Hồ Chí Minh cũng như quy chế phối hợp giữa VKSND quận 1 và CQĐT Công an quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn đã góp phần nhận thức sâu và thống nhất những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn là tài liệu có giá trị dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự, là tài liệu học tập, nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật và đào tạo nghiệp vụ của KSV. Những giải pháp của luận văn góp phần việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật TTHS về thực hành quyền công tố của VKSND nói chung và trong điều tra VAHS nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố trong điều tra vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn thi hành tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh 5
  11. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản 6
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản Để xây dựng khái niệm hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trước hết phải làm sáng tỏ thế nào là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản? Liên quan đến vấn đề này cần phải làm sáng tỏ thế nào là vụ án hình sự. Cần lưu ý rằng, trong khoa học pháp lý cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh khái niệm vụ án hình sự, nhưng xét trên nhiều phương diện, tác giả luận văn này chia sẻ với quan điểm cho rằng:“Vụ án hình sự là vụ án phát sinh khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội” [30, tr.15]. Vậy thì vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì? Trước hết cần nhấn mạnh rằng, đó vụ án hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi vậy, để làm sáng tỏ thế nào là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phải nhận thức một cách đúng đắn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi của tội phạm dùng thủ đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin và giao tài sản cho tội phạm để chiếm đoạt tài sản đó. Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong những trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi 7
  13. phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ...” [21]. Để nhận thức đúng đắn và sâu sắc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phân tích các dấu hiệu thuộc bốn yếu tố cấu thành tội này, theo đó: - Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu tài sản, đó chính là các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của Nhà nước cũng như của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này là các loại tài sản thể hiện dưới hình thức vật chất, đó là vật, tiền. Việc xâm phạm quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác sau khi lừa lấy được tài sản. - Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản + Về hành vi khách quan: Hành vi của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác mà ngay lúc đó, người bị hại không biết được có hành vi gian dối. Như vậy, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối là đặc điểm đặc trưng của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ đoạn gian dối đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nghĩa là người phạm tội đưa ra thông tin giả, thông tin không đúng với sự thật nhưng làm cho người bị lừa dối tin rằng thông tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết, bằng hành động, bằng hình ảnh… hoặc cũng có thể kết hợp bằng nhiều cách thức khác nhau. Hiện nay, thủ đoạn lừa đảo của các loại tội phạm rất tinh vi, tội phạm thường thực hiện hành vi lừa đảo trên các trang mạng xã hội hoặc các trang web, sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, tội phạm sẽ cắt đứt mọi liên hệ với người bị hại và thường người bị hại không biết hoặc biết những thông tin không chính xác về tội phạm. Đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực 8
  14. tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi gian dối bao giờ cũng phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi gian dối diễn ra sau khi người phạm tội nhận được sản, tức là ý thức chiếm đoạt tài sản diễn ra sau khi có tài sản thì không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cần lưu ý đặc trưng này để phân biệt với một số tội phạm như lừa dối khách hàng hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Để có thể lừa dối chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, trên thực tế người phạm tội sử dụng rất nhiều các cách khác nhau như: bằng lời nói dối, bằng việc giả mạo giấy tờ, giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức từ thiện để chuyển tiền, vàng hay thông qua việc ký kết hợp đồng… Thực tế để xác định hành vi gian dối có xảy ra hay không, thường căn cứ vào các chứng từ, tài liệu, giấy tờ giả (như hợp đồng mua bán, giấy chứng nhận sở hữu nhà, đất, giấy vay tiền…) mà đối tượng dùng để tạo dựng niềm tin đối với chủ tài sản, làm cho chủ tài sản tự nguyện giao tài sản để xác định. Cần phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sử dụng và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều có thủ đoạn gian dối, tuy nhiên thủ đoạn gian dối ở hai tội là khác nhau, đặc biệt là thời điểm thực hiện thủ đoạn này. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi phải dùng thủ đoạn gian dối trước làm cho người có tài sản tin tưởng mà giao tài sản cho người phạm tội. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi để chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn có tính chất gian dối nhưng thủ đoạn này được thực hiện sau khi đã được chủ tài sản giao tài sản một cách hợp pháp thông qua các hình thức như vay, mượn, thuê, hợp đồng hợp pháp... + Về hậu quả: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nếu hành vi gian dối bị phát hiện trước khi người bị lừa dối giao tài sản hoặc người bị lừa dối không phát hiện ra hành vi gian dối nhưng không thực hiện việc giao tài sản thì không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ 9
  15. đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị mắc lừa giao tài sản cho mình hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là giá trị tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt. Thiệt hại về tài sản bị chiếm đoạt được quy định cụ thể tại Điều 174 BLHS năm 2015. Theo đó, khoản 1 Điều luật quy định “chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên” mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”. + Về mối quan hệ nhân quả: Cũng như những tội có cấu thành vật chất khác, hậu quả và hành vi khách quan của tội phạm có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hậu quả thiệt hại về tài sản phải được xuất phát từ hành vi lừa dối. Nếu việc thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì sẽ dựa vào những dấu hiệu khách quan để xác định xem có dấu hiệu của tội phạm không và được pháp luật điều chỉnh như thế nào. Tuy nhiên, ở đây cũng nên lưu ý là cần phân biệt tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với những tội phạm có dùng thủ đoạn gian dối khác “tự nguyện” giao tài sản cho mình, còn đối với những thủ đoạn gian dối nhưng không phải do người bị hại tự động giao tài sản của mình thì phải căn cứ vào dấu hiệu khách quan để xác định tội phạm tương ứng, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hành hoặc để bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính thì sẽ cấu thành tội lừa dối khách hành hoặc tội buôn bán hàng giả. - Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm không phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 10
  16. tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. - Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt, do lỗi cố ý của chủ thể, mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại. Như đã phân tích ở trên, ý định chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn nảy sinh trước khi chiếm đoạt được tài sản. Do đó, mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội luôn có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Từ những điều phân tích trên đây có thể hiểu “Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là vụ án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vậy thì thế nào là thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự? Để có thể xây dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần phải làm sáng tỏ thế nào quyền công tố và thế nào là thực hành quyền công tố? Nói đến quyền công tố là nói đến việc VKSND nhân danh quyền lực công của Nhà nước để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người phạm tội, còn thực hành quyền công tố là VKSND sử dụng những quyền hạn được Nhà nước giao để thực hiện những hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng cần thiết cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội đối với người phạm tội. Như vậy có thể nói thực hành quyền công tố chính là việc tổ chức thực hiện quyền công tố. 11
  17. Về mặt lập pháp, thuật ngữ “quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960, theo đó “Viện kiểm sát nhân dân tối cao tối cao và Viện kiểm sát nhân dân các địa phương có quyền khởi tố về hình sự và giữ quyền công tố trước Tòa án nhân dân cùng cấp”. Thuật ngữ “quyền công tố” tiếp tục được ghi nhận trong các văn bản pháp luật được ban hành sau đó. Tuy nhiên, theo các quy định pháp luật sau đó thì phạm vi quyền công tố được mở rộng hơn, không chỉ trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự mà trong cả quá trình tố tụng vụ án hình sự. Về mặt khoa học, thuật ngữ và khái niệm “quyền công tố” thường được các nhà luật học sử dụng khi luận về chức năng của VKSND trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay trong giới luật học vẫn chưa có sự thống nhất trong nhận thức nội hàm của khái niệm quyền công tố. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng, quyền công tố là quyền mà Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Và quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đây chính là hoạt động tiến hành tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên và những người được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định người phạm tội cũng như những căn cứ để kết tội và áp dụng hình phạt cụ thể đối với người phạm tội [32, tr.26]. Theo tác giả luận văn này thì quan điểm nêu trên là quá rộng, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa chức năng cơ bản trong TTHS, đã đồng nhất khái niệm quyền công tố và nguyên tắc TTHS. Hơn nữa, theo quan điểm này thì không chỉ CQĐT, VKSND mà còn cả các chủ thể khác cũng thực hành quyền công tố. Cũng có quan điểm khác cho rằng, quyền công tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là VKSND), cơ quan này có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội trên cơ sở đó VKSND quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng cụ thể và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Vì vậy quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS với đối tượng tội phạm và người phạm tội [32, tr.40]. Theo tác giả luận văn thì quan điểm vừa nêu đã 12
  18. thể hiện rõ ràng và chính xác hơn với quan niệm chung về quyền công tố, được thể hiện rõ ràng hơn trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015. Thuật ngữ thực hành quyền công tố được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 138 Hiến pháp 1980 và được cụ thể hóa tại các điều 1 và 3 Luật Tổ chức VKSND năm 1981. Tiếp sau đó, thuật ngữ này được ghi nhận tại Điều 137 Hiến pháp 1992, Điều 107 Hiến pháp 2013 cũng như được cụ thể hóa trong BLTTHS và Luật tổ chức Viện kiểm sát. Hiện nay, thực hành quyền công tố trở thành chức năng quan trọng của VKS, quy định cụ thể tại điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Bên cạnh đó, chức năng thực hành quyền công tố còn được quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014, cụ thể như sau: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS” [26]. Cụm từ “thực hành” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [36]. Như vậy, các quyền năng của VKSND khi thực hành quyền công tố phải được VKSND thực hiện trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Thực hành quyền công tố cũng được các nhà luật học nhận thức theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng “Thực hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó” [33, tr.20]. Theo một quan điểm khác thì “Thực hành quyền công tố là việc Viện Kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định để đưa người (hoặc pháp nhân thương mại) có hành vi phạm tội ra truy tố và buộc tội trước Tòa án” [33, tr.12]. Phạm vi thực hành quyển công tố, như đã nhấn mạnh ngày càng mở rộng và có thể nói là cả quá trình từ giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi xét xử tội 13
  19. phạm. Bởi vậy, có thể hiểu “Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc VKSND thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết trong quá trình tố tụng hình sự có sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc truy tố và buộc tội của mình đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cuối cùng, để có thể dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn cần phải làm sáng tỏ thế nào điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, như đã nhấn mạnh là vụ án phát sinh khi phát hiện có các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKSND, Tòa án (thông qua Hội đồng xét xử) khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp được quy định trong BLTTHS để xác định và xử lý người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, điều tra là hoạt động tố tụng hình sự giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi điều tra là các hoạt động phát hiện, thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại mà tội phạm đã gây ra. Kết quả điều tra là cơ sở cho việc truy tố và xét xử tội phạm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Do vậy, có thể hiểu “Điều tra trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những hoạt động tố tụng do các cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) tiến hành bằng các biện pháp mà pháp luật tố tụng hình sự quy định phát hiện nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ sự thật của vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chứng minh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và người phạm tội này, bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Như vậy, điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật vào chứng minh, làm sáng tỏ vụ án bằng các biện pháp cũng do pháp luật quy định như khám nghiệm hiện trường; khởi tố bị can và hỏi cung bị can; lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, 14
  20. người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;đối chất, nhận dạng, khám xét... Trong quá trình điều tra, các cơ quan có thẩm quyền có quyền ra các quyết định tố tụng nhất định Là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong suốt quá trình tố tụng vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong điều tra vụ án, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố gắn với các hoạt động điều tra, vì vậy bắt đầu từ khởi tố bị can và hỏi cung bị can cho đến khi kết thúc điều tra hoặc đình chỉ điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ tất cả những điều phân tích trên đây có thể xây dựng khái niệm thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động của Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước và có sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý theo quy định của pháp luật thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết trong quá trình điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. 1.1.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản Xét về đặc điểm, thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm chung của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự về bất kỳ một tội phạm cụ thể nào đó, song cũng có những đặc điểm riêng của mình gắn với đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Một trong những đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với việc phát hiện cũng như việc xác định thẩm quyền điều tra cũng như thực hành quyền công tố. Hầu hết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài được phát hiện là do bị hại đến cơ quan có thẩm quyền trình báo; có những vụ án xảy ra đã rất lâu nên khó khăn cho việc xác định tài liệu chứng cứ, hơn nữa một số vụ án lừa đảo qua mạng zalo, facebook giả, chỉ khi không liên lạc được với chủ các tài khoản đó, tài sản bị chiếm đoạt thì người bị hại mới đến cơ quan có thẩm 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0