intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

48
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu phân tích, đánh giá thực tiễn quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đúc kết được những mặt đã đạt được, những mặt chưa đạt được, hạn chế cần khắc phục. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NAM THẮNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NAM THẮNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. MAI ĐẮC BIÊN Hà Nội, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là đề tài nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực, được thu thập trong quá trình học tập và công tác tại đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, không trùng lặp với các đề tài khác cùng lĩnh vực đã được công bố trước đây. Tác giả luận văn Nguyễn Nam Thắng
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ............................ 7 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy ........................................................... 7 1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy ......................................................... 23 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 29 Chương 2 THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .. 30 2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ........................ 30 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Mua bán trái phép chất ma túy tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai .................................................................................................. 33 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 51 Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ................................................................... 52 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ......................................................................................... 52
  5. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai .................................................................................................. 56 Tiểu kết chương 3............................................................................................ 69 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 2
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên KSV : Kiểm sát viên THQCT : Thực hành quyền công tố TNHS : Trách nhiệm hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số liệu tin báo, nguồn tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp nhận và vụ án hình sự khởi tố từ năm 2015 đến năm 2019 .........................................................82 Bảng 2.2. Bảng so sánh tỷ lệ án ma túy đã khởi tố tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 ......................................................82 Bảng 2.3. Bảng số liệu số vụ án hình sự và vụ án ma túy đã khởi tố tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 ..............................83 Bảng 2.4. Bảng so sánh tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 ........83
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tình hình tội phạm về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, với sự gia tăng về số lượng tội phạm, quy mô phạm tội và xu hướng trẻ hóa đặt ra những thách thức lớn đối với tình hình chính trị xã hội và ảnh hướng đến đời sống của người dân. Đối với địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng đối mặt với những ảnh hưởng của loại tội phạm này. Thành phố Biên Hòa là một thành phố với nhiều khu công nghiệp lớn, tập trung số lượng lớn người lao động nhập cư, địa bàn rộng nên thường xuyên là điểm nóng về tội phạm, đặc biệt là tội phạm về mua túy chiếm tỷ lệ cao. Việc xử lý tội phạm này giúp ổn định tình hình chính trị địa phương, luôn được các cấp chính quyền quan tâm, vì thế đặt ra những yêu cầu nâng cao chất lượng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Các loại tội phạm về ma túy cần được phát hiện, điều tra, truy tố xét xử nhanh chóng, kịp thời, đặc biệt là tội mua bán trái phép chất ma túy, bởi vì việc xét xử nghiêm minh loại tội phạm này góp phần lớn trong việc ngăn ngừa các loại tội phạm ma túy khác xảy ra. Để phòng ngừa và ngăn chặn tệ nạn ma túy gây ra, chúng ta đã có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ như Luật Phòng, Chống ma túy, các quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi liên quan đến ma túy, các quy định pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ma túy… Trong hoạt động tư pháp, một trong những hoạt động mang tính chất phòng ngừa tội phạm đó là hoạt động xử lý hình sự các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy, mang tính răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Để hoạt động này mang lại hiệu quả cần có sự phối hợp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. Đối với vai trò của VKS, chức năng THQCT là một chức năng quan trọng bên cạnh chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, nếu thực hiện tốt chức năng THQCT trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, đặc biệt là giai đoạn điều tra, sẽ giúp cho quá trình giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, toàn diện, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc không bỏ lọt tội phạm và không làm oan 1
  9. sai người vô tội. Tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong công tác THQCT trong hoạt động điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như việc gắn hoạt động THQCT với hoạt động điều tra đôi khi chưa thực sự đáp ứng đẩy đủ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; vẫn còn tình trạng một vài KSV thiếu tính chủ động trong công tác THQCT, việc đề ra yêu cầu điều tra đôi khi còn sơ sài, mang tính hình thức, không cụ thể dẫn đến không định hướng cho hoạt động điều tra, dẫn đến hoạt động điều tra còn hạn chế, vẫn còn tình trạng phải gia hạn thời hạn điều tra vì một số nguyên nhân chủ quan có thể khắc phục được, vẫn còn tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung…Những vấn đề này cần được phân tích, nghiên cứu để có những giải pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả THQCT. Do đó việc nghiên cứu đề tài này đem lại ý nghĩa thực tiễn đối với công tác đấu tranh phòng chống nhóm tội phạm ma túy nói chung và tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó góp phần nâng cao chất lượng THQCT, đặc biệt trong giai đoạn điều tra, là giai đoạn mang tính chất quan trọng và tạo nền tảng cho các hoạt động tố tụng sau này. Từ những lý do đã nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” để làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sỹ Luật học hoàn toàn phù hợp, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa có tính thời sự cao, từ đó góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại địa phương thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND nói chung và trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là vấn đề đã được nhiều tác giả nghiên cứu, như: - Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 2
  10. - Phan Hoàng Tân (2011), Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Điện Biên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. - Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. - Nguyễn Mạnh Tùng (2017), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma tuý ở thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; - Hà Minh Loan (2018), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma tuý trên địa bàn Huyện Văn Chân, Tỉnh Yên Bái; Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, 2017. - Mai Đắc Biên (2018), Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện Công an nhân dân, Hà Nội; - Lại Viết Quang (2018), Áp dụng biện pháp cưỡng chế trong điều tra tội phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện Công an nhân dân, Hà Nội; - Trần Công Phàn (2019), Điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy theo pháp luật mới; sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; - Nguyễn Thành Nhân (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội; - Trần Thị Minh Hảo (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh; Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội; - Nguyễn Ngọc Phụng (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang; Luận văn 3
  11. thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội; Tuy nhiên, cho đến thời điểm viết luận văn này, hiện chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để đưa ra những yêu cầu, giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng THQCT của loại tội phạm này trong giai đoạn điều tra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ mặt lý luận, các quy định pháp luật và hoạt động thực tiễn tại địa phương, từ đó phân tích được thực trạng, những tồn tại, hạn chế để có hướng đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói chung và địa bàn thành phố Biên Hòa nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận như các khái niệm, đối tượng, phạm vi, các nhiệm vụ, quyền hạn và vai trò của KSV trong công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy; Thứ hai, phân tích, đánh giá thực tiễn quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đúc kết được những mặt đã đạt được, những mặt chưa đạt được, hạn chế cần khắc phục; Thứ ba, nêu được những yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố nói chung và cụ thể đối với VKSND thành phố Biên Hòa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn 4
  12. hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá, khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định về công tác THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu trong khoảng thời gian 05 năm từ năm 2015 -2019. Phạm vi về không gian: Tập trung nghiên cứu tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, đồng thời có mở rộng thu thập một số thông tin số liệu các tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể là quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị; chính sách pháp luật của Nhà nước nói chung và các chính sách pháp luật của ngành Kiểm sát nói riêng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp thống kê tội phạm để làm rõ các nội dung của Luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Luận văn giúp làm sáng tỏ vấn đề lý luận THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy như khái niệm, đặc điểm pháp lý của tội 5
  13. phạm này, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc THQCT… Luận văn có thể sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu pháp luật, học tập cho những ai quan tâm đến hoạt động THQCT của VKS. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Từ việc nghiên cứu thực tiễn địa phương, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án, đặc biệt là các vụ án mua bán trái phép chất ma túy của VKS cấp huyện. Luận văn cũng có thể sử dụng như một tài liệu giúp cho các nhà lãnh đạo ngành kiểm sát định hướng trong công tác tổ chức, quản lý, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ; hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được kết cấu thành 03 chương, bao gồm cả các phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. 6
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy Cho đến nay, khái niệm “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy” chỉ được nói đến trong các công trình nghiên cứu khoa học. Khái niệm này là tập hợp các khái niệm nhỏ ghép lại với nhau, tác giả chia khái niệm này thành các khái niệm nhỏ để phân tích đó là khái niệm “quyền công tố”, “thực hành quyền công tố”, khái niệm “vụ án mua bán trái phép chất ma túy”, khái niệm “giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy”. Từ đó tổng hợp một cách đầy đủ, toàn diện để đưa ra khái niệm “THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy”. 1.1.1.1. Khái niệm “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố” Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “Công” được hiểu là “thuộc về Nhà nước”, mang yếu tố công cộng, thuộc tính chung xã hội, trái ngược với “tư” là thuộc về cá nhân, cái riêng. “Tố” được hiểu là “trình bày công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người phạm tội khác”. “Công tố” là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa án”. [36, tr 459] Từ điển Luật học cho rằng công tố là “quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội… được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật…, không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự” [51, tr 188]. Theo từ điển Oxford, công tố (prosecution) được hiểu là quá trình thực hiện một loạt hoạt động pháp lý để chứng minh trước Tòa án rằng một người nào đó 7
  15. phạm tội, là hoạt động chính thức cho việc buộc tội một hành vi phạm pháp [13]. Có thể hiểu rằng quyền công tố là quyền lực để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục tố tụng đã được quy định để buộc tội hành vi phạm pháp trước cơ quan xét xử là Tòa án. Trong nghiên cứu khoa học, có một số ý kiến khác nhau về quyền công tố, nổi bật là các quan điểm: Quan điểm thứ nhất: Quyền công tố là quyền lực của VKS thay cho Nhà nước bảo vệ lợi ích công khi xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật. Có nghĩa là VKS đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật trên các lĩnh vực ra Tòa án để xét xử, nhằm bảo vệ lợi ích của chính Nhà nước và trật tự xã hội, trật tự pháp luật [26, tr.85-86]. Theo quan điểm này, VKS THQCT trên nhiều lĩnh vực không chỉ hình sự mà còn là dân sự, kinh tế và hoạt động tư pháp. Quan điểm thứ hai: Công tố chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, không phải là một chức năng riêng biệt của VKS. Quyền công tố là “quyền nhân danh Nhà nước kiểm sát tính hợp pháp của quá trình điều tra tội phạm, nhằm truy tố và buộc tội người phạm tội ra Tòa án để xét xử đúng người, đúng tội, đúng luật, đảm bảo lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước và đặc biệt là quyền tự do của con người” [9, tr.1-12]. Theo quan điểm này, giữa THQCT và kiểm sát sự tuân theo pháp luật là quan hệ giữa cái riêng và cái chung, quan điểm này dựa trên lý luận của các nhà TTHS học Xô Viết, phổ biến trong giai đoạn trước khi Hiến pháp năm 1980 quy định cụ thể hơn về THQCT của VKS. Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước giao cho các cơ quan cụ thể để thực hiện việc khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và buộc tội trước phiên tòa [25, tr.204]. Quan điểm này được phổ biến trong các Nhà nước có sự phân chia quyền lực. Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước giao cho VKS thực hiện các hoạt động truy tố người phạm tội trước Tòa án, buộc tội người đó tại phiên tòa với tội danh cụ thể bằng quá trình chứng minh có căn cứ và đúng pháp luật được thể hiện trong bản cáo trạng. Những người có quan điểm này cho rằng 8
  16. đây là quan điểm phù hợp nhất với lý luận và thực tiễn hoạt động của VKS [24, tr.86-88]. Do có nhiều quan điểm khác nhau như đã nêu nên khái niệm quyền công tố tùy thuộc vào mỗi quan điểm cũng khác nhau về phạm vi giới hạn không gian, thời gian. Đa số các quan điểm đều cho rằng quyền công tố có phạm vi về mặt không gian trong lĩnh vực tố tụng hình sự, một số quan điểm lại cho rằng quyền công tố có phạm vi trong tất cả lĩnh vực tư pháp, từ tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, lao động, kinh tế… Về phạm vi thời gian, chưa có sự thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công tố, ví dụ trong lĩnh vực tố tụng hình sự, có quan điểm cho rằng quyền công tố bắt đầu từ giai đoạn điều tra, cho đến truy tố và xét xử, có quan điểm cho rằng chỉ có ở giai đoạn xét xử. Tổng hợp các quan điểm khoa học, tác giả xin đưa ra khái niệm về quyền công tố như sau: Quyền công tố là quyền lực Nhà nước, được Nhà nước trao cho cơ quan công tố (VKS), đại diện Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự và truy tố, buộc tội đối với người phạm tội. Đối với khái niệm “thực hành quyền công tố”, đây là khái niệm liên quan mật thiết với khái niệm “quyền công tố”. Khi xảy ra hành vi phạm tội, Nhà nước phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội đó. Điều này làm phát sinh quyền công tố và cơ quan công tố là VKS phải sử dụng chức năng của mình để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Theo từ điển Luật học: “THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử” [29,tr.188]. Cần lưu ý rằng tội phạm và người phạm tội là đối tượng THQCT. Khi có sự việc phạm tội xảy ra, Cơ quan công tố (VKS) phải áp dụng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật tố tụng hình sự để phát hiện kịp thời tội phạm, khởi tố, điều tra làm rõ tội phạm, người hoặc pháp nhân phạm tội. Hoạt động này phải bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, kéo dài đến giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, xét xử. Chủ thể THQCT là VKS mà người trực tiếp thực hiện hoạt động THQCT là 9
  17. Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, KSV và Kiểm tra viên, trong đó, KSV là người có đầy đủ nhiệm vụ quyền hạn THQCT trong tất cả các hoạt động tố tụng. Một số quyền hạn quan trọng thuộc về Viện trưởng, Phó Viện trưởng được Viện trưởng phân công, như ra các quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật của CQĐT, các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định truy tố..... Đối với KSV không phải là Viện trưởng, Phó Viện trưởng nhưng là lãnh đạo đơn vị như Trưởng phòng, Phó trưởng phòng ở VKS cấp tỉnh, Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng ở VKSND tối cao được Lãnh đạo Viện ủy quyền được thực hiện một số thẩm quyền thuộc lãnh đạo Viện [33]. Mặc dù thuật ngữ “thực hành quyền công tố” đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa thống nhất. Qua quá trình nghiên cứu tổng hợp các quan điểm khoa học và thực tiễn quy định của pháp luật, tác giả xin đưa ra khái niệm về thực hành quyền công tố như sau: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự, trong đó, VKSND sử dụng tổng hợp quyền lực do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự, truy tố và buộc tội người phạm tội trước Tòa án, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh chức năng THQCT của VKSND, chức năng kiểm sát điều tra vụ án cũng là một chức năng vô cùng quan trọng. Kiểm sát điều tra là việc VKS thực hiện các biện pháp giám sát, mục đích nhằm bảo đảm các hoạt động điều tra được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung của pháp luật quy định, không trực tiếp ra quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có vi phạm pháp luật tố tụng xảy ra hoặc kiến nghị yêu cầu khắc phục các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm. THQCT và kiểm sát điều tra vụ án luôn tồn tại song song từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc việc điều tra và VKS ra quyết định truy tố, giữa hai chức năng tuy độc lập về chức năng, nhưng có tác động qua lại lẫn nhau. Nếu làm tốt nhiệm vụ THQCT sẽ hỗ trợ đắc lực cho KSĐT thực hiện vai trò của mình, như tạo điều kiện cho KSĐT tiếp cận các biện pháp điều tra nhằm duy trì 10
  18. pháp luật, phát hiện, khắc phục vi phạm pháp luật về tố tụng; làm tốt nhiệm vụ kiểm sát điều tra sẽ giúp cho công tác THQCT phát huy khả năng quyết định quá trình tố tụng, như bảo đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái pháp luật của CQĐT một cách có căn cứ, đúng pháp luật. Như vậy, hoạt động THQCT và kiểm sát điều tra tuy hai nhưng là một, hai hoạt động này phải được tiến hành song song và hỗ trợ lẫn nhau nhằm không để bất kỳ người nào bị bắt giữ, khởi tố trái pháp luật, không để lọt tội và không làm oan người vô tội, đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải đúng pháp luật và có căn cứ, việc điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, chính xác và đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện và khắc phục kịp thời. 1.1.1.2. Khái niệm “vụ án mua bán trái phép chất ma túy” Các Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống và kiểm soát chất ma túy vào các năm 1961, 1971 và 1988 không nêu khái niệm thế nào là chất ma túy mà chỉ liệt kê danh mục các chất ma túy bị kiểm soát. Khoản 1, 2 , 3 Điều 2 Luật phòng, chống ma túy năm 2013 đã nêu “chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.” Danh mục các chất gây nghiện, chất hướng thần được Chính phủ quy định cụ thể tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Để đi đến khái niệm vụ án mua bán trái phép chất ma túy, trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về tội mua bán trái phép chất ma túy. Pháp luật Hình sự Việt Nam quy định cụ thể về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Điều 251 BLHS. Dựa vào quy định của điều luật, tội “Mua bán trái phép chất ma túy” có cấu thành tội phạm và hình phạt như sau: Về khách thể tội phạm: Khách thể bị tội phạm xâm hại là chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Chất ma túy là một loại chất nếu không có sự 11
  19. quản lý chặt chẽ của Nhà nước thì sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến với xã hội. Bỡi lẽ nếu có sự quản lý và phục vụ vào mục đích hợp pháp như nghiên cứu khoa học, phục vụ y tế... thì có ý nghĩa và hữu ích cho xã hội, ngược lại nếu sử dụng chất ma túy vào các mục đích cá nhân không hợp pháp như nhằm thỏa mãn cơn nghiện thì ma túy trở thành thứ gây nguy hiểm cho xã hội. Ma túy có thể coi là khởi nguồn của rất nhiều loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, ảnh hưởng đến khả năng lao động, tình hình chính trị xã hội của bất kì quốc gia nào. Chính vì vậy Nhà nước phải có một chế độ quản lý đặc biệt và độc quyền đối với loại chất ma túy này. Cần lưu ý rằng, đối tượng tác động của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chính là chất ma túy (các chất gây nghiện, chất hướng thần), không phải các tiền chất ma túy. Mặt khách quan tội phạm: Mặt khách quan của tội này là các hành vi mua và bán trái phép chất ma túy như mua chất ma túy để bán lại cho người khác, vận chuyển chất ma túy để bán cho người khác, tàng trữ trái phép chất ma túy để bán dần cho người khác, dùng chất ma túy đổi lấy hàng hóa hoặc ngược lại, xin chất ma túy để bán lại cho người khác... Theo quy định tại tiểu mục 3.3, Mục 3, phần II, Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP có hướng dẫn về tội danh này, theo đó ta có thể phân hành vi khách quan của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thành 03 nhóm hành vi khách quan, đó là: Nhóm hành vi bán (quy định tại các điểm a, b, c, e, g): Là các hành vi mua, chiếm đoạt, nhặt được, trộm được,...chất ma túy mà không cần biết nguồn gốc ma túy do đâu mà có, để phục vụ cho mục đích bán trái phép ma túy cho người khác. Nhóm hành vi trao đổi (quy định tại các điểm d, đ): Là các hành vi trao đổi trái phép ma túy nhằm để lấy tài sản của người nhận ma túy, để bù trừ khoản chi phí bất kì hoặc sử dụng để thanh toán. Nhóm hành vi hỗ trợ: Là các hành vi hỗ trợ cho việc bán và trao đổi trái phép chất ma túy như tổ chức, xúi giục, giúp sức cho hành vi mua bán, trao đổi chất ma túy (trường hợp đồng phạm). Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội này bắt buộc là con người cụ thể, là 12
  20. người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Cần lưu ý một số vấn đề sau: Theo quy định tại điều 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không chịu trách nhiệm hình sự về các hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS (Tội nghiêm trọng). Theo tinh thần của Mục 10, Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên thì không chịu trách nhiệm hình sự về tội này nếu tổng trọng lượng chất ma túy của các lần cộng lại dưới mức tối thiểu hoặc không xác định được tổng trọng lượng chất ma túy của tất cả các lần đó đến mức tối thiểu quy định tại điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999 (tương ứng với các quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS hiện hành). Về mặt chủ quan của tội phạm: Người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức được rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả nguy hiểm của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Về khung hình phạt, tội danh này có mức hình phạt tù từ 02 năm đến chung thân hoặc tử hình. Cụ thể: Tại khoản 1 Điều này quy định cấu thành tội phạm là hành vi “mua bán trái phép chất ma túy” với mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Tại khoản 2 Điều này quy định một loạt các hành vi cụ thể, nếu người phạm tội có dấu hiệu thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm q khoản 2 Điều này như: Có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi; Qua biên giới; Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam; Heroine, Cocaine,..có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam; Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis)... do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam; Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
44=>2