intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

48
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG CAO CƯỜNG TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG CAO CƯỜNG TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS NGHIÊM XUÂN MINH HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực, các thông tin trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng và không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./. Tác giả Dương Cao Cường
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................ 8 1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................................................................ 8 1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .................................................................. 20 1.3. Các cơ quan có thẩm quyền và nội dung áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................................................................................... 28 CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........................................... 38 2.1. Tình hình có liên quan đến Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng............. 38 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng............................................................................................................. 44 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế về áp dụng pháp luật trong xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác ............ 50 CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ....................... 53
  5. 3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................... 53 3.2. Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của các cơ quan tiến hành tố tụng ........................................ 66 KẾT LUẬN ................................................................................................. 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn quận Sơn Trà giai đoạn từ năm 2015 – 2019 .................................... 41 Bảng 2.2. Thực trạng áp dụng các chế tài đối với các bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng........................... 42
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Đây là những quyền cơ bản Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 20 thì: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm [1]” Bộ luật hình sự với vai trò là công cụ hữu hiệu để để đấu tranh phòng ngừa tội phạm, bảo vệ tính mạng, thân thể của mọi công dân. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người đã quy định các tại Chương XIV BLHS năm 2015 bao gồm 07 tội danh được quy định tại các điều từ 134 đến Điều 140 Bộ luật hình sự. Trong thời đại kinh tế thị trường, tình hình tội phạm trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp do đó các cơ quan tư pháp, kiên quyết đấu tranh phòng chống các loại tội phạm nói chung và phòng chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế thì những năm gần đây nhóm tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe có xu hướng gia tăng trong đó tội cố ý gây thương tích đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe con người, gây bất ổn cho xã hội, là tội phạm thường xuyên diễn ra và là mối quan tâm nhức nhối cùa cả nước nói chung và trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng nói riêng. Trong những năm qua, các Cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình khi tích cực phát hiện, 1
  8. điều tra, truy tố và đưa ra xét xử nhiều vụ án cố ý gây thương tích kịp thời, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tòa án gặp không ít những vướng mắc, lúng túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định của BLHS trong hoạt động xét xử. Chính những lý do này dẫn đến việc định sai tội danh và quyết định hình phạt chưa công bằng và khách quan trong một số vụ án. Nhằm hạn chế tình trạng này và nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà trong việc giải quyết các vụ án nói chung cũng như các vụ phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các cơ quan tố tụng quận Sơn Trà đang cố gắng thực hiện trong tình hình hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” để làm để tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Việc nghiên cứu đề tài liên quan đến tội phạm này đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, một số giáo trình giảng dạy và được đăng tải thường xuyên và liên tục trên các tạp chí chuyên ngành, báo, đài, các cổng thông tin điện tử. Tác giả đã tiếp cận một số đề tài về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong những năm gần đây như: Về giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo có: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể của Trường Đại học Luật TP. HCM năm 2015; của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015; của Đại học Luật Hà 2
  9. Nội năm 2017…; Một số luận văn, luận án liên quan như: Luận văn thạc sĩ “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” của tác giả Dương Mai Phương, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Thị Hòa, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017; …. Các bài viết như: “Một số quy định của pháp luật liên quan đến việc xác định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 Bộ luật hình sự” Bùi Văn Thịnh, Vũ Bá Xiêm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18 năm 2014, trang 29-31; “Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng điều 104 Bộ luật hình sự” Trần Minh Hường, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2011, trang 24-29; Phân biệt tội "Giết người" với tội "Cố ý gây thương tích hoặc gây tốn hại cho sức khoẻ của người khác" trong trường hợp dẫn đến chết người” Nguyễn Nông, Tạp chí Kiềm sát, số 21/2005, trang 25-27 “Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong BLHS năm 2015 và những giải pháp bảo đảm áp dụng” của tác giả Nguyễn Duy Hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân số 24 năm 2016… Như vậy có thể thấy việc nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, qua tìm hiểu cho thấy việc nghiên cứu về loại tội phạm này hoặc mang tính tổng quát, hoặc mang tính riêng biệt ở từng địa phương chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu ở mức độ luận văn Thạc sĩ luật học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Như vậy, có thể xác định đề tài mà luận văn lựa chọn không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố có liên quan. 3
  10. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: + Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, các khái niệm, dấu hiệu pháp lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan. + Trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019, từ đó chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập, cũng như nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, bất cập này; + Đề xuất hệ thống giải pháp khoa học để góp phần hoàn quy định của pháp luật, nâng cao việc áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây 4
  11. thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 và thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật của Cơ quan THTT quận Sơn Trà với tội này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi về đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội này đối với đối tượng phạm tội của cơ quan tố tụng ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng + Phạm vi về chủ thể: Cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng trong áp dụng pháp luật về tội danh này với người phạm tội. + Về địa bàn nghiên cứu: địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. + Về thời gian: giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm để làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, bình luận, so sánh thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu… trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp này được vận dụng một cách linh hoạt và đan xen lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu để tạo ra kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu các vụ án đã được khởi tố tại cơ quan Công an; những bản án đã xét xử của Tòa án nhân dân và các báo cáo sơ kết, tổng kết liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà. Đồng thời kết hợp, 5
  12. đánh giá các số liệu, tư liệu trong các bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố liên quan tới công tác phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài không những góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà mà còn góp phần làm phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật hình sự về tội phạm cụ thể. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài là một công trình nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về tội cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn quận Sơn Trà. Bên cạnh đó, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo tập huấn chuyên đề, nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục thì nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2. Tình hình có liên quan và thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 6
  13. CHƯƠNG 1 7
  14. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 1.1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi con người. Có nhiều cách hiểu khác nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, sức khỏe được hiểu là tình trạng cơ thể bình thường, không có bệnh tật hoặc không có thương tật ảnh hưởng đến thể chất bình thường của con người. Quan điểm khác lại cho rằng: “Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống trong điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng thái tâm lý, sự hoạt động hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng chống lại bệnh tật” [11, tr.206, 207]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì: “Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật; cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả” [10, tr.835]. Xâm phạm sức khỏe con người là tác động bên ngoài làm cho người bị xâm hại mất đi một phần hay toàn bộ sức lực có sẵn của chính người đó gây ảnh hưởng đến quá trình sinh hoạt làm việc bình thường của họ. Hành vi này xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của con người, đến quyền được bảo vệ về sức khoẻ của con người được pháp luật ghi nhận. Hành vi dùng sức mạnh vật chất bằng nhiều phương pháp tác động lên thân thể của con người làm cho họ có 8
  15. những thương tích. Thương tích này có thể là vết thương thẩm mỹ, nghiêm trọng hơn có thể mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay, cánh tay, bàn chân...để lại cơ thể không lành lặn. Hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của con người làm cho tình trạng sức khỏe của nạn nhân yếu đi không còn duy trì bình thường như trước. Tổn hại cho sức khỏe của người khác mặc dù không để lại vết thương hoặc làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân nhưng làm giảm chức năng hoạt động của bộ phận đó. Như vậy, có thể hiểu “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” là hành vi bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau tác động lên cơ thể của người khác làm cho họ mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực của họ. Tác giả đưa ra khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe dựa trên cơ sở các phân tích nêu trên các quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe của con người, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý”. 1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - Khách thể của tội phạm: khách thể trực tiếp chính là sức khỏe con người. Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến nên cũng như những tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS 2015 có quy định xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Bất kỳ ai xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người đều bị trừng trị thích 9
  16. đáng nên điều luật cũng quy định hình phạt nghiêm khắc nhất là chung thân, thể hiện thái độ của nhà nước với tội phạm này một cách kiên quyết. - Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu do luật hình sự quy định và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại cụ thể nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự bao gồm các yếu tố sau: hành vi khách quan; hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và hậu quả xảy ra trên thực tế. Trong đó, hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất, các dấu hiệu khác như: hậu quả, mối quan hệ nhân quả, công cụ, phương tiện phạm tội… chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan. Tội cố ý gây thương tích được thể hiện qua hành vi dùng vũ lực có hoặc không sử dụng vũ khí hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể ngưòi khác gây tổn thương cho họ. Hành vi này có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện, vũ khí để phạm tội như đâm, chém, bắn…hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội như dùng tay chân đấm, đá hoặc có thể thông qua các phương tiện phạm tội khác như dùng xe lao vào người, thả súc vật cắn. hành vi khách quan của tội này thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hậu quả của tội cố ý gây thương tích cho người khác là để lại vết thương và được xác nhận bằng kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân. Đây là thiệt hại gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất, là những thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác. Việc xác định có hậu quả xảy ra trên thực tế có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội, đảm bảo xét xử đúng người đúng tội và có vai trò quan trọng trong việc quyết định hình 10
  17. phạt. Nếu tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe dưới 11%, không gây cố tật thì không phải chịu TNHS. Tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe từ 11% trở lên thị bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, có một số trường hợp tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe không đến 11% nhưng lại thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 thì hành vi đó vẫn bị truy cứu TNHS. Như vậy, hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp sau thì cũng phạm tội: a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 được chia thành 4 tình tiết tương ứng với việc người phạm tội dùng “vũ khí”, “vật liệu nổ” (đây là hai tình tiết mới bổ sung), “hung khí nguy hiểm” và “thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người”. Về nội hàm của quy định thì “vũ khí” thuộc một trong các dạng của “hung khí nguy hiểm”, do vậy, so với quy định cũ, điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự mới chỉ có bổ sung thêm việc dùng “vật liệu nổ” là tình tiết định khung cơ bản. Tình tiết này, trước khi được sửa đổi năm 2017 thì điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định là “Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên”. Một vấn đề nữa chúng ta cần lưu ý về sự thay đổi ở nội dung của tình tiết “dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người” của quy định cũ với tình tiết “dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người” của quy định mới. Việc bổ sung từ “có khả năng” vào tình tiết này giải quyết dứt điểm vướng mắc trong thực tiễn trước đây là người phạm tội có “dùng thủ đoạn” nhưng thực tế sau khi tội phạm hoàn thành thì “chưa xảy ra hậu quả gây nguy hại cho nhiều người” – điều này dẫn đến thiếu thống nhất và tạo sự lúng túng trong áp dụng 11
  18. pháp luật, nhất là trong hoạt động tố tụng; quy định mới này xác định rõ là không cần chờ đến hậu quả “gây nguy hại cho nhiều người” xảy ra, mà chỉ cần chứng minh được “thủ đoạn” đó đã được thực hiện và “có khả năng” gây nguy hại cho nhiều người. b) Dùng a - xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm Hóa chất nguy hiểm được định nghĩa tại Khoản 5 Điều 3 Thông tư 04/2012/TT-BCT quy định phân loại và ghi nhãn hóa chất do Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành, bao gồm các đặc tính như dễ nổ, ăn mòn mạnh, oxy hóa mạnh. c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc không có khả năng tự vệ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ. Đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự mới đối với cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để đáp ứng yêu cầu của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong tình hình hiện nay, được áp dụng đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện từ ngày 01/01/2018. Tình tiết này là tổng hợp của 4 dấu hiệu định khung có tính chất nguy hiểm tương đương nhau được quy định chung trong cùng một điểm của điều luật, đó là: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phạm tội với phụ nữ mà biết là có thai, phạm tội với người già yếu và phạm tội với người không có khả năng tự vệ. Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. BLHS hiện hành đã cụ thể hóa quy định về giới hạn độ tuổi, trong đó thay thế thuật ngữ “trẻ em” trước đây bằng thuật ngữ xác định rõ độ tuổi là “người dưới 16 tuổi”. Quy định này tạo sự rõ ràng, thống nhất trong việc áp dụng quy định của BLHS. Xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ những người khó 12
  19. có khả năng tự vệ trước những hành vi xâm hại của tội phạm làm tổn hại lớn cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần cho đối tượng đặc biệt này. Việc xác định độ tuổi của người dưới 16 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 [36]. Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi là tình tiết khách quan nên chỉ cần xác định bị hại là người dưới 16 tuổi thì người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng này mà không cần người phạm tội phải nhận thức được đối tượng mình thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người dưới 16 tuổi. Phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai. Phụ nữ có thai cũng là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên, đây là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội “mà biết”, tức là phải xác định người phạm tội biết bị hại là người đang có thai mà vẫn thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đối với người đó mới áp dụng tình tiết tăng nặng này. Việc biết của người phạm tội có thể do bị cáo và mọi người đều nhìn thấy được (thai đã lớn) hoặc biết được, nghe được từ các nguồn thông tin khác nhau về việc người phụ nữ đó đang mang thai. Phạm tội đối với người già yếu. Đây không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội nên không đòi hỏi người phạm tội phải biết người mà mình xâm phạm là người già yếu, chỉ cần xác định người bị xâm phạm là người già yếu thì người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định khung tăng nặng này. Người già được nhắc đến trong Bộ luật hình sự 1999 được hiểu là người từ 70 tuổi trở lên (theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP) đến khi Bộ luật hình sự 2015 được ban hành thì đã không còn thuật ngữ người già mà chỉ còn người đủ 70 tuổi trở lên. Tuy nhiên, có thể suy ra, người già được xác định là người đủ 70 tuổi trở lên. Vì vậy, khi xem xét quyết định áp dụng tình tiết phạm tội đối với người già yếu, Tòa án phải căn cứ vào mỗi trường hợp cụ thể để đánh giá tình trạng sức khỏe và độ tuổi của người 13
  20. bị hại tại thời điểm bị tội phạm xâm hại để quyết định áp dụng hay không. Học viên đồng tình với quan điểm cho rằng, “người già yếu phải là người từ đủ 70 tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng ốm đau hoặc không trong tình trạng ốm đau nhưng là người yếu”[40]. Phạm tội đối với người không có khả năng tự vệ. Đây cũng là tình tiết thuộc dấu hiệu khách quan nên không yêu cầu người phạm tội biết bị hại có phải là người không có khả năng tự vệ hay không. Quy định này cũng chưa có văn bản hướng dẫn có giá trị pháp lý của cơ quan có thẩm quyền.” d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình Là những người có quan hệ ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, dạy dỗ đối với người thực hiện hành vi phạm tội, với việc quy định này nhằm đề cao giá trị đạo đức trong xã hội trước hành vi phạm tội. đ) Có tổ chức Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS thì người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn Đây là quy định mới được bổ sung tại điểm e khoản 1 Điều 134. Việc bổ sung quy định này nhằm hướng tới việc đảm bảo nhân quyền, đảm bảo quyền và lợi cho công dân tốt hơn, đảm bảo sự nghiêm chỉnh trong thực hiện nhiệm vụ của các đối tượng có nghề nghiệp đặc thù như bảo vệ, vệ sỹ … g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2