intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

35
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ về mặt lý luận tội cướp tài sản để đóng góp những giải pháp giải quyết các khó khăn trong đấu tranh với tội phạm này trong thực tiễn đấu tranh trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG ĐỨC CHINH TỘI CƯỚP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG ĐỨC CHINH TỘI CƯỚP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY HÀ NỘI - năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong các công trình khác. Tác giả luận văn Đặng Đức Chính
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ................. Error! Bookmark not defined. 1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội cướp tài sảnError! Bookmark not defi 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sảnError! Bookmark not defined. 1.3. Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khácError! Bookmark n CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNGError! Bookmark not defined 2.1. Tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà NẵngError! Bookmark not defined. 2.2. Những thuận lợi, khó khăn trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TP ĐÀ NẴNG ........................... Error! Bookmark not defined. 3.1. Các yêu cầu đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sảnError! Bookm 3.2. Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản ............................................................. Error! Bookmark not defined. 3.3. Nhóm các giải pháp khác .................................. Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN ............................................................ Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCT : Bộ Chính trị BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự ĐCS : Đảng cộng sản ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử KSĐT : Kiểm sát điều tra KSV : Kiểm sát viên PL : Pháp luật TANDTC : Toà án nhân dân tối cao THA : Thi hành án UBND : Ủy ban nhân dân VAHS : Vụ án hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa XXPT : Xét xử phúc thẩm XXST : Xét xử sơ thẩm
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Số lượng án hình sự được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm từ năm 2015 đến năm 2019 .............. Error! Bookmark not defined. Bảng 2.2. Tỷ lệ (%) các tội Cướp tài sản được Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm năm 2015 đến năm 2019 ... Error! Bookmark not defined.
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới trên đất nước ta đã đi được chặng đường hơn hai mươi năm, chặng đường đầy cam go, thử thách, đến nay đã đạt những thành quả rất đáng tự hào, bộ mặt đất nước, đời sống nhân dân được đổi thay từng ngày. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã và đang đứng vững trước những thách thức thời đại, dần từng bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với những mặt tích cực công cuộc đổi mới, mở cửa đất nước, những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng xuất hiện, tình hình vi phạm, tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất thủ đoạn ngày càng tinh vi đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến thành quả chung của công cuộc đổi mới đất nước. Thực tế những năm qua cho thấy, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và tăng cường lónh đạo đối với các cơ quan tư pháp, kiên quyết đấu tranh chống các loại tội phạm nói chung và phòng chống tội phạm Cướp tài sản nói riêng, qua đó góp phần đảm bảo an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên tình hình tội phạm trong những năm gần đây, đặc biệt là tội Cướp tài sản và cướp giật (gọi chung là phạm xâm phạm sở hữu) vẫn có chiều hướng gia tăng về số vụ, quy mô tổ chức ngày càng cao và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm trọng. Cụ thể tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, ngày 13 tháng 11 năm 2018, trong phần, mục Báo cáo công tác phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật và công tác thi hành án năm 2018 cho thấy một số loại tội phạm tăng như: cướp tài sản tăng 5,1%, giết người tăng 3,9% [39]. Do vậy việc áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng luôn là vấn đề cần thiết đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp của nhà nước ta. Thành phố Đà Nẵng là một thành phố lớn tại Việt Nam, đồng thời cũng là một trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, giáo dục quan trọng của khu vực Miền Trung và Tây Nguyên. Chính vì thế số lượng người lao động, học sinh, sinh viên di 1
  8. cư về học tập, sinh sống và làm việc tại thành phố ngày càng đông, cùng với sự phát triển của nền kinh tế kéo theo các ngành dịch vụ đi kèm (khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ, cầm đồ...) phục vụ nhu cầu của đông đảo nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những người đến học tập, sinh sống làm việc thì cũng có một bộ phận không có công ăn việc làm đến sinh sống làm nảy sinh nhiều vấn đề gây phức tạp cho an ninh trật tự trên địa bàn thành phố. Thực tế trong thời gian qua, tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có chiều hướng tăng, phức tạp, đáng chú ý là tội cướp tài sản có chiều hướng phức tạp, số vụ tuy không tăng nhưng tính chất manh động, liều lĩnh gây hoang mang cho quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự xã hội. Trước tình hình đó việc triển khai và áp dụng có hiệu quả các chủ trương chính sách của cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố Đà Nẵng đối với công tác phòng chống tội phạm là hết sức cấp thiết, và đã đạt những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong thời gian qua vẫn chưa có sự đồng thuận triệt để, thực hiện thống nhất có hiệu quả các chủ trương, chính sách, mục tiêu, giải pháp. Vì vậy, kết quả đạt được chưa cao, tính chất mức độ nguy hiểm đối với tội này đang dần tăng. Từ thực tiễn trên, nhằm phân tích, đánh giá, để có cơ sở dự báo, đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội cướp tài sản là một vấn đề cấp thiết. Từ luận giải trên, học viên chọn nghiên cứu đề tài “Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn tốt nghiệp cao học luật, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu về tình hình tội phạm, phòng ngừa và xử lý tội phạm trong giai đoạn cải cách pháp hình sự hiện nay ở nước ta nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng đã thu hút sự nghiên cứu của nhiều cơ quan, tổ chức và nhiều nhà khoa học. Có thể nêu ra như sau: - Luận án tiến sĩ luật học: Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, của tiến sĩ Đỗ Kim Tuyến. Đại học Luật Hà Nội, 2001 [65]. - Luận án tiến sĩ luật học: Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, của tiến sĩ Nguyễn Đức Thảo, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, học viện khoa học xã hội, 2016 [44]. 2
  9. - Luận án tiến sĩ luật học: Hoạt động của lực lượng Cảnh sát hình sự trong phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên tuyến quốc lộ 1A thuộc địa bàn các tỉnh, thành phố phía Bắc, của tiến sĩ Bùi Thị Quỳnh Mai. Học viện Cảnh sát nhân dân dân, 2016 [20]. - Luận án tiến sĩ luật học: Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, của tiến sĩ Nguyễn Văn Khoa Điềm. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, học viện khoa học xã hội, 2019 [11]. - Luận án tiến sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản của lái xe chở khách theo chức năng của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các tỉnh, thành phố phía Bắc, của Nguyễn Duy Dương. Học viện Cảnh sát nhân dân dân, 2019 [4]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, của thạc sĩ Trần Đình Hải, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2012 [12]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Tội cướp giật tài sản theo Luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, của thạc sĩ Trần Hữu Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2014 [21]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Tội cướp tài sản theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, của thạc sĩ Nguyễn Thị Hương, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2014 [13]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam, của thạc sĩ Hoàng Ngọc Dinh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật 2016 [6]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, của thạc sĩ Nguyễn Việt Quang, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2016 [23]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, của thạc sĩ Phạm Thị Hà Châu, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2016 [3]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên 3
  10. địa bàn quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, của thạc sĩ Vũ Quốc Toản, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [60]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Nguyên nhân, điều kiện của tội Cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, của thạc sĩ Huỳnh Ngọc Tùng, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [61]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Chứng cứ trong điều tra các vụ án về tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, của thạc sĩ Phạm Thùy Dương, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [5]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Thực hành quyền công tố trong vụ án Cướp tài sản theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, của thạc sỹ Nguyễn Tiến Tài. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [42]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội Cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chi Minh, của thạc sỹ Nguyễn Thị Ngọc Phương. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [15]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Tội Cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, của thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết Thanh, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [43]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Thực hành quyền công tố đối với tội Cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, của thạc sĩ Nguyễn Thanh Tùng, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2019 [62]. - Luận văn thạc sĩ luật học: Tội Cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, của thạc sĩ Tạ Hữu Hiền, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2020 [14]. Ngoài ra trong qúa nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn học viên, đã tham khảo một số bài biết, tập bài giảng và giáo trình chuyên khảo và các sách bình luận về Luật hình sự quy định về tội Cướp tài sản. Nhìn chung các công trình trên đã đi sâu làm rõ lý luận về tội cướp tài sản, đã nêu ra được thực trạng và đề xuất các giải pháp phòng, chống tội cướp tài sản. 4
  11. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì chưa có một công trình nào đi sâu, nghiên cứu làm rõ thực trạng, thực tiễn tội cướp tài sản và đưa ra giải pháp mới trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” nhằm đánh giá tình hình, phân tích thực tiễn để đề ra những giải pháp phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả tội phạm này trên địa bàn thành phố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ về mặt lý luận tội cướp tài sản để đóng góp những giải pháp giải quyết các khó khăn trong đấu tranh với tội phạm này trong thực tiễn đấu tranh trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản. - Phân tích, đánh giá thực trạng tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019. - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề liên quan đến tội cướp tài sản và thực trạng áp dụng pháp luật trong phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng. - Phạm vi thời gian: Trong thời gian 05 năm (2015-2019). - Phạm vi nội dung: Phân tích thực tiễn đấu trang phòng chống tội cướp tài sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh 5
  12. với loại tội phạm này. 5. Cơ sở l ý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở l ý luận Luận văn được sẽ được học viên vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác, Lênin - tư tưởng HCM và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời học viên cũng vận dụng lý luận khoa học của các lĩnh vực có liên quan như khoa học LHS và LTTHS... 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện, nghiên cứu vận dụng một số phương pháp cụ thể sau đây: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy logic, quy nạp, diễn giải, chuyên gia… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài. - Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng trong Chương I của luận văn, nhằm làm rõ những điểm giống và khác nhau, từ đó phân biệt tội cướp tài sản với một số tội phạm khác. + Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong Chương II của luận văn, nhằm làm rõ tình hình tội cướp tài sản xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2019. + Phương pháp tư duy logic, quy nạp, diễn giải, chuyên gia: Các phương pháp này được sử dụng trong Chương III của luận văn, nhằm làm rõ cơ sở đề xuất, dự báo tình hình và qua đó đưa ra một số giải pháp về nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng nói riêng; Nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử loại tội này. 6
  13. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo, học tập cho sinh viên, học viên các trường luật, cán bộ làm công tác thực tiễn tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, nghiên cứu khoa học…Các giải pháp được đề xuất trong luận văn có giá trị tham khảo trong quá trình đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm III chương, cụ thể: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 7
  14. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản 1.1.1. Khái niệm tội phạm "Tội phạm" với phương diện là một thuật ngữ pháp lý, được quy định tại Điều 8 BLHS 2015 như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [36]. Xét về bản chất nội dung chính trị - xã hội và nội dung pháp lý, tội phạm là hiện tượng xã hội được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải chịu hình phạt. Nếu nghiên cứu về mặt cấu trúc, tội phạm đều hợp thành bởi bốn yếu tố là chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và khách thể. Để hiểu rõ về khái niệm của tội phạm đã nêu ở trên cần phân tích những đặc điểm (dấu hiệu của tội phạm) như sau: Tính nguy hiểm cho xã hội: Là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Nguy hiểm cho xã hội, về khách quan có nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là căn cứ để phân biệt với hành vi vi phạm khác mà còn là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự được chính xác. 8
  15. Về tính có lỗi: Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Tính trái pháp luật: Tính trái pháp luật là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý, phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội, là dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội của tội phạm. Việc quy định tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm được thống nhất, bảo đảm cho quyền dân chủ của công dân khỏi bị xâm phạm bởi hành vi xử lý tùy tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp kịp thời bổ sung, sửa đổi luật theo sát sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Tính phải chịu hình phạt: Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm như hai dấu hiệu trên. Do vậy, Điều 8 BLHS 2015 không đề cập dấu hiệu này trong định nghĩa tội phạm. Tính phải chịu hình phạt đi liền với tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính chất này không những chỉ thể hiện ở chỉ hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt mà còn thể hiện ở chỗ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính chịu hình phạt trong từng trường hợp phạm tội cụ thể. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt; không có tội phạm thì cũng không có hình phạt. Khái niệm về tội phạm được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự Việt Nam. Nội dung của khái niệm tội phạm là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lí khác. 1.1.2. Khái niệm tội Cướp tài sản Cướp là gì? Theo từ điển tiếng việt thì Cướp hay cướp tài sản trong luật hình sự là một tội danh chỉ người nào sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng ngay tức khắc vũ lực 9
  16. đối với người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ phạm gây ra vụ cướp gọi là tên cướp. Bạo lực là dấu hiệu phổ biến nhất của bọn cướp, trong trường hợp xảy ra giết người thì tội danh biến thành cướp của giết người. Cướp thường xảy ra ở nơi có nhiều tài sản (dễ bị tấn công) như vùng đô thị thành phố. Nhiều nhất ở những nơi tối tăm, nhiều người ở lễ hội, công viên, siêu thị, bến xe buýt... Cướp là hành vi dùng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Cướp là một trong những hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm mục đích tư lợi cho mình hoặc là đem tặng, cho, biếu, cấp phát... cho những người mà mình quan tâm. Cướp của cải (tài sản) đã xuất hiện ngay từ khi có chế độ tư hữu và xã hội phân chia thành những người giàu và người nghèo. Cướp là một loại tội phạm chiếm đoạt tài sản nghiêm trọng nhất trong các tội chiếm đoạt tài sản. Nó trực tiếp đe doạ đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần và tài sản của con người. Do vậy, trong Bộ luật hình sự của Việt Nam cũng như của nhiều Nhà nước khác trên thế giới có một hoặc một số điều luật quy định về tội cướp (cướp tài sản Nhà nước - tài sản xã hội chủ nghĩa và cướp tài sản của công dân). Phương thức cướp tài sản thường là sử dụng sức mạnh vật chất (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) để đè bẹp sự chống cự hoặc làm tê liệt sự phản kháng, chống đối lại của người có tài sản. Đe dọa dùng vũ lực là hành vi của người cướp tài sản đã sử dụng lời nói hoặc cử chỉ hay hành động đe dọa xâm phạm ngay đến tính mạng, sức khỏe và làm tê liệt ngay ý chí chống cự - phản kháng của người có tài sản. Hành vi đe doạ dùng vũ lực ở đây có đặc điểm là ngay tức khắc. Đặc điểm này dùng để chỉ sự khẩn trương, nhanh chóng có thể xảy ra chớp nhoáng ngay về mặt thời gian, đồng thời đặc điểm này còn dùng để chỉ về sự mãnh liệt của sự đe doạ ở mức độ có thể xảy ra ngay lập tức làm cho người bị đe doa tê liệt ý chí chống cự, phản kháng của mình. Các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là những hành vi mà khi sử dụng đến thì nó có khả năng cản trở 10
  17. được sự phản kháng hay chống đối của người có tài sản, chẳng hạn: hành vi đầu độc bằng thuốc mê hoặc là giam, giữ người để chiếm đoạt tài sản của họ... Tài sản là gì? Với tư cách là khách thể quyền sở hữu, đã được Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 xác định như sau: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai [38] Vật Vật là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, vật với ý nghĩa vật lý ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí). Với ý nghĩa là một phạm trù pháp lý, vật là một bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật. Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển… không được coi là vật. Nhưng nếu đóng vào bình nước, hay được làm nóng, làm lạnh… lại được coi là vật. Như vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con ngưòi, vật có thực với tính cách là tài sản phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đăc trưng giá trị và trở thành đối tượng của giao lưu dân sự. Do sự phát triển của khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp lý cũng được mở rộng. Ví dụ: Phần mềm trong máy tính hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu sẽ được coi là vật, nhưng bình thường không được coi là vật. Vật là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gồm cả những vật (hay tài sản) chắc chắn sẽ có. Điều 175 BLDS đã xác định loại tài sản này là: hoa lợi và lợi tức. Đây chính là sự gia tăng của tài sản trong những điều kiện 11
  18. nhất định. Tương tự, tiền và những loại giấy tờ có giá cũng được xác định là những loại tài sản có tính chất đặc biệt. Phân biệt tài sản và hàng hóa Cần phân biệt tài sản với khái niệm hàng hóa trong khoa học chính trị kinh tế học (là sản phẩm do con người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hóa được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên là vật (tài sàn) nhưng không phải hàng hóa vì không gắn với lao động xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diện rộng hơn khái niệm hàng hóa. Quyền tài sản Ngoài vật, tiền - tài sản còn được xác định là quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 BLDS: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.” [38]. Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu nguời khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản. Trên cơ sở quan niệm như vậy, Luật La mã phân loại quyền tài sản (quyền dân sự) thành vật quyền và trái quyền mà không phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu .Vì suy cho cùng quyền sở hữu tài sản cũng là quyền tài sản. Điều 115 BLDS 2015 quy định quyền tài sản là quyền trị giá bằng tiền. Theo quy định này, Nhà lập pháp muốn nói tới quyền đối nhân, tức là quyền của một chủ thể đối với một chủ thể khác và quyền này trị giá bằng tiền. Vậy, theo quy định tài Điều 115 BLDS 2015, thì quyền tài sản là quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ có giá trị bằng một khoản tiền nhất định như trả nợ, bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu người khác chuyển giao giá trị của một vật. Ví dụ quyền yêu cầu thanh toán giá trị tài sản chung. 12
  19. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lỷ của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phạm vi tài sản với tính cách là khách thể của quyền sở hữu - là không hạn chế. Chúng bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Nghĩa là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kỳ một loại tài sản nào, miễn là pháp luật không cấm lưu thông dân sự. Mặc dù pháp luật hình sự Việt Nam chưa có Điều luật riêng để quy định về khái niệm hoặc định nghĩa về Tội cướp tài sản. Tuy nhiên trong BLHS 2015 thì Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168, với cấu thành 6 khoản. Trong đó khoản 1 Điều 168 BLHS 2015 là cấu thành cơ bản của Tội cướp tài sản, cụ thể: Điều 168 BLHS 2015, quy định: Tội cướp tài sản “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm” [36]. Từ những sự phân tích nêu trên và theo quy định của BLHS hiện hành, ta có thể đưa ra khái niệm về tội “Cướp tài sản” như sau: “Tội cướp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công (bị hại) lâm vào vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm tài sản, trực tiếp gây thiệt hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân”. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội cướp tài sản 1.2.1. Lịch sử hình thành các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội Cướp tài sản, giai đoạn trước năm 1945 Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, đảm bảo giữ vững thành quả của cách mạng, duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý 13
  20. kinh tế, bảo đảm cho mọi công dân được sống trong một môi trường xã hội lành mạnh. Do vậy sự hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam nói chung và những quy định của pháp luật hình sự về tội cướp tài sản nói riêng trong lịch sử luôn gắn liền với nhu cầu quản lý xã hội bằng luật và sự quan tâm của chính quyền phong kiến trung ương đối với vấn đề này. Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng rất chú trọng đến ban hành các đạo luật, bộ luật như Bộ Hình thư đời Lý, đời Trần, Bộ Quốc Triều hình luật thời Lê, Bộ Hoàng Việt luật lệ nhà Nguyễn và các văn bản pháp luật hình sự đơn hành như Chiếu, Lệnh của nhà Vua... Như dưới thời vua Lý Thái Tông (năm 1028) ban hành Lệnh xử phạt binh lính cướp của dân, có nội dung vua ra lệnh: “Ai cướp bóc của dân thì chém”. Hay như trong Bộ luật Hồng Đức, năm 1483 thời nhà Lê- tiền Lê (hay còn gọi là Quốc triều hình luật), tại Điều 426 quy định: “Những kẻ cướp thường (ban đêm cầm khí giới giết người lấy của) thủ phạm xử chém, tòng phạm xử giảo, đền tang vật lấy cướp, điền sản bị sung công. Cướp của còn giết người thị bị chém bêu đầu, tòng phạm xử chém, phải nộp bồi nhân mạng và đền tiền tang vật trả gấp đôi, cho khổ chủ. Ai chứa chấp cướp lâu ngày thì xử đồng tội” [18, tr.233] ... Đến giai đoạn thực dân Pháp đô hộ (là một giai đoạn trong lịch sử Việt Nam kéo dài 61 năm, bắt đầu từ 1884 khi Pháp ép triều đình Huế chấp nhận sự bảo hộ của Pháp cho đến 1945 khi Pháp mất quyền cai trị ở Đông Dương), đã làm thay đổi sâu sắc pháp luật Việt Nam trên cả ba phương diện: tính chất, nội dung và hình thức pháp luật. Trước đây, hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam không có sự phân chia thành các ngành luật cụ thể mà đều được thể hiện dưới dạng quy phạm của luật hình. Bằng việc ban hành ba Bộ luật hình sự áp dụng trên ba miền Bắc - Trung - Nam, người Pháp đã xác định lại giới hạn của Luật hình sự trong phạm vi điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước bảo hộ với người mà Nhà nước coi là đã thực hiện hành vi phạm tội. 1.2.2. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2