intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

36
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An" thể hiện các quy định của pháp luật về loại tội phạm này và qua đó đề xuất những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS và nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN HÀ NỘI, năm 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Lan Phương
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀTỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM ................................................. 7 1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm ................. 7 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm ............................................................................................................... 15 1.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm ...................................................................................................... 20 Chương 2: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN ...................... 50 2.1. Các yếu tố có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ...... 50 2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ........................................................ 52 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ......................................... 55 2.4. Đánh giá việc thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ............ 58 2.5. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm ............................................................................ 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHSVN Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân THQCT Thực hành quyền công tố TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  6. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thống kê thụ lý điều tra VAHS về tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ2014-2018.................................53 Bảng 2.2. Thống kê số vụ án đã xét xử hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An từ năm 2014 -2018 ............................. 54 Bảng 2.3. Thống kê mức án TAND huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử trong giai đoạn từ 2014 - 2018 ........................................................................................... 56
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới. Đường lối của Đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Sự vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển là những mặt trái của nó, đặc biệt là tình hình tội phạm trong vài năm gần đây có xu hướng phát triển mạnh, diễn biến ngày càng phức tạp và mang tính thời sự cấp bách. Hoạt động kinh tế với nhiệm vụ chính là sản xuất hàng hóa, tạo điều kiện cho xã hội phát triển, kinh tế mang ý nghĩa quan trọng đối với đất nước nhưng hiện nay các loại tội phạm về kinh tế lại xuất hiện càng nhiều và ngày càng tinh vi, nguy hiểm. Do đặc thù của nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh và những sơ hở, yếu kém trong quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm kinh tế ngày càng có môi trường phát sinh, phát triển, trong đó tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm đang ngày càng tăng về số lượng với nhiều mặt hàng cấm nguy hiểm, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế, hơn hết là tác động tiêu cực tới con người, môi trường và xã hội, nó đã trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội. Công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này cần phải quyết liệt mạnh mẽ, để làm được điều đó cần có sự đánh giá chính xác, chi tiết, đầy đủ về tội phạm này. Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, việc chống lại các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp đã được Nhà nước thể chế thành nguyên tắc hiến định. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật nhằm phòng chống các tội phạm kinh tế nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng. Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam do Quốc hội thông qua ngày 17/6/1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào năm 1989, 1990, 1992, 1997 có quy định về tội 1
  8. buôn bán, tàng trữ hàng cấm trong chương “Các tội phạm kinh tế”. BLHS 1999 đã đưa ra quy định điều chỉnh hành vi liên quan đến hàng cấm rải rác ở các chương khác nhau quy định về các hành vi liên quan đến hàng cấm và một số hàng cấm cụ thể khác như chất ma túy, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, vũ khí hoặc công cụ hỗ trợ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc. BLHS 2015 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều BLHS 2015 (ban hành năm 2017) ngoài những nội dung cấu thành tội phạm trong BLHS 1999, bộ luật còn có nhiều thay đổi về việc xây dựng cấu thành tội phạm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nên cần thiết phải có cách hiểu thống nhất để áp dụng pháp luật đối với tội phạm này. Bên cạnh các quy định của Luật hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, còn có các quy định của các văn bản pháp luật thuộc Ngành và lĩnh vực khác cũng điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan đến hàng cấm. Trong thời gian vừa qua, đang tồn tại những cách hiểu không thống nhất giữa Luật thương mại và luật đầu tư giữa các ngành, các cơ quan và các địa phương khác nhau. Vì thế, hoạt động xử lý đối với tội phạm này còn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trước tình hình thực tế tại địa phương, làm ảnh hưởng tới tình hình an ninh trật tự và sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế xã hội. Đức Hòa, Long An là khu vực xuất hiện tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm từ lâu, chiếm tỷ lệ cao về tội phạm này trong tỉnh và có chiều hướng tăng về số lượng, chủng loại hàng cấm, diễn biến phức tạp với sự mở rộng quy mô và tính chất nguy hiểm. Công tác đấu tranh tại địa bàn trở nên khó khăn khi đối tượng phạm tội có nhiều phương thức thủ đoạn tinh vi đồng thời luôn tìm cách trốn tội và chống trả quyết liệt. Chính vì vậy, vấn đề bức thiết là phải có hành lang pháp lý thống nhất, và có những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm có hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An” là một vấn đề cần thiết, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với loại tội phạm này. 2
  9. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Những năm trước thời kỳ đổi mới hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu về pháp luật xử lý đối với tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Theo đường lối đổi mới, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật, về cơ chế thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đã có sự phát triển mạnh. Trong thời gian vừa qua, đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về tình hình tội phạm này. Có thể nói tới một số công trình sau: - Luận án tiến sĩ luật học: “Phòng ngừa tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của lực lượng cảnh sát kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ” của Lê Trung Kiên, 2015. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" của Nguyễn Thị Huyền Trang, 2016 [45]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Cao Bằng)” của Lục Thị Út, 2014 [52]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn tỉnh An Giang của Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về TTQLKT&CV” của Nguyễn Nhật Trường, 2007 [47]. Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trong các báo Pháp Luật, các tạp chí TAND, VKSND, bài nghiên cứu trao đổi trên website của Bộ Tư Pháp, TAND tối cao, VKSND tối cao. Ngoài ra, còn một số sách tham khảo, chuyên khảo có đề cập nội dung rất nhỏ liên quan đến đề tài luận văn như: Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999 (phần các tội phạm), của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu mặc dù đã nghiên cứu sâu và đề cập ở một số góc độ khác nhau nhưng mới dừng lại ở một phạm vi hẹp, chủ yếu tập cận dưới góc độ tội phạm học, chưa đề cập một cách trực tiếp, toàn diện, có hệ thống và 3
  10. trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tội loại tội phạm này. Chính vì vậy, đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An” mang tính cấp thiết cả từ lý luận lẫn thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An"thể hiện các quy định của pháp luật về loại tội phạm này và qua đó đề xuất những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS và nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. - Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ làm rõ những vấn đề sau đây: + Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận như bản chất kinh tế, pháp lý về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm; + Phân tích, làm sáng tỏ quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm; + Làm rõ thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. + Đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng quy định này, qua đó đưa ra một số kiến nghị, biện pháp góp phần tháo gỡ những hạn chế của pháp luật hình sự về tội phạm này; đồng thời kiến nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Bộ luật hình sự 2015, tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm ở Việt Nam 4
  11. hiện nay, trong đó trực tiếp là những hoạt động điều tra, truy tố, xét xử liên quan đến tội phạm này từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đồng thời nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự nước ta qua các giai đoạn để làm rõ những ưu điểm, hạn chế, tồn tại trong BLHS và các Luật dẫn chiếu, các văn bản hướng dẫn, áp dụng BLHS. Trên cơ sở khoa học đó đề xuất quan điểm của mình nhằm sửa đổi, hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng liên quan đến tội phạm này. - Phạm vi nghiên cứu Đây là một đề tài tương đối rộng, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết một cách thấu đáo. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, người viết nghiên cứu trong phạm vi tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm theo Điều 155 BLHS 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Điều 191 BLHS năm 2015; tìm hiểu những hành vi thường xảy ra và những khó khăn trong công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan chức năng có thẩm quyền tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và nhà nước về Nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng chống tội phạm. - Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành được luận văn này người viết đã sử dụng linh hoạt và hợp lý các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp luật học so sánh, phương pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu, phương pháp tổng hợp và thống kê số liệu, phương pháp phân tích luận viết, phương pháp xã hội học, phương pháp logic. 5
  12. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm một cách toàn diện, có hệ thống, đưa ra bức tranh toàn cảnh về loại tội phạm này dưới góc độ pháp luật hình sự; chỉ ra các yếu tố cấu thành của loại tội phạm này. Qua đó, đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, buôn bán, vận chuyển hàng cấm. Luận văn đã chỉ ra những hạn chế trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đưa ra phương hướng giải quyết khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng cũng như trong việc sửa đổi, bổ sung bộ luật hình sự về loại tội phạm này, những kiến nghị hoàn thiện và các biện pháp đấu tranh phòng chống tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, góp phần vào việc phát triển khoa học luật hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm Chương 2: Thực trạng và giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An 6
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM 1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm 1.1.1. Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hành cấm - Khái niệm hàng cấm Hàng cấm được rất nhiều người sử dụng trong đời sống kinh tế. Tuy nhiên, hiểu một cách chính xác về bản chất của từ này trong khoa học pháp luật hình sự thì chưa có cách hiểu và giải thích thống nhất. Để tìm hiểu khái niệm hàng cấm chúng ta tìm hiểu thông qua ngữ nghĩa của hai từ cụ thể: - “hàng” là sản phẩm để bán, - “cấm” là không cho phép làm việc gì đó hoặc không cho phép tồn tại [54]. Từ đó hàng cấm được hiểu là những sản phẩm không cho phép tồn tại. Theo từ điển Luật học giải thích: “hàng cấm là hàng hoá bị Nhà nước cấm kinh doanh [54, tr.319]. Một số từ điển hoặc các văn bản có liên quan có đề cập đến hàng cấm là hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh [55, tr.16]. Hàng cấm còn được nhắc đến trong giải thích tội buôn lậu: buôn lậu là buôn bán trốn thuế hoặc hàng cấm [56]. Tuy được nhắc đến nhiều nhưng chưa có cách hiểu thống nhất về thuật ngữ này. Hiện nay, nhiều tác giả đồng tình với cách giải thích: Hàng cấm là hàng hoá Nhà nước cấm kinh doanh [15, tr.110]. Hàng cấm theo nghĩa rộng là loại hàng hoá bị cấm kinh doanh dưới mọi hình thức. Bản chất của hàng cấm có thể được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ xã hội, hàng cấm được hiểu phổ biến nhất là những mặt hàng đặc biệt do Nhà nước trực tiếp quản lý độc quyền, cấm sản xuất, kinh doanh. Theo triết học Mác - Lê nin hàng hoá là sản phẩm của lao động thông qua hoạt động trao đổi, mua bán. Hàng hoá có thể là hữu hình hoặc vô hình mà nhờ vào tính chất của nó thoả mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá ngày càng trở nên đa dạng phong phú. Việc quản lý đối với các loại hàng hoá và các hoạt động kinh doanh liên quan đến hàng hoá ngày càng phức tạp, khó khăn hơn bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều của các loại hàng hoá gây ảnh hưởng xấu tới con người, 7
  14. môi trường và xã hội. Từ sự phát triển của tự do thương mại mà Nhà nước thống nhất quản lý những mặt hàng có tính chất đặc biệt, có những đặc tính riêng cần phải hạn chế cách ly các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán những mặt hàng đó trong xã hội. Pháp luật quy định cấm tuyệt đối với những mặt hàng khi lưu thông hoặc sử dụng có thể gây nguy hại cho an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, truyền thống văn hóa, môi trường và sức khỏe nhân dân, vì vậy Nhà nước cần phải độc quyền quản lý loại hàng hoá đó. Trong xã hội gọi những hàng hoá này là “hàng cấm” hay “hàng quốc cấm”. Dưới góc độ kinh tế thì hàng cấm là hàng hoá nhưng thuộc loại do Nhà nước thống nhất quản lý cấm các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán. Hàng hóa và sản xuất, buôn bán hàng hóa gắn liền với hoạt động kinh doanh, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình kinh doanh như: phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm mục đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Việc sản xuất hàng hóa là bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, đồng thời nó cũng phù hợp với xu thế vận động của quá trình hoạt động kinh doanh. Qua các thời kỳ phát triển kinh tế, xã hội lượng hàng hóa sản xuất ngày một nhiều và đa dạng. Có hàng hoá được tự do sản xuất, kinh doanh; có những mặt hàng do tính chất đặc thù của nó mà Nhà nước phải cấm thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do những lợi nhuận mà các mặt hàng này đem lại, các cá nhân, tổ chức lén lút sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Mặc dù vậy, cho đến nay khái niệm hàng cấm vẫn chưa có bất cứ văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu thống nhất. Trong quá trình giải quyết về loại vụ việc liên quan đến hàng cấm, một vấn đề đặt ra đối với các cơ quan chức năng là phải hiểu rõ thế nào là hàng cấm và các loại hàng cấm để từ đó mới ra được những quyết định phù hợp, đúng đắn phục vụ tốt cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về trật tự kinh tế nói chung, tội phạm về tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng. 8
  15. Dưới góc độ pháp lý, hàng cấm là đối tượng đặc biệt, được Nhà nước quản lý và xử lý đối với hành vi liên quan đến nó. Trong pháp luật thương mại, đầu tư đều có quy định những đối tượng cấm hoạt động kinh doanh đầu tư và có các chế tài xử phạt đối với hành vi liên quan đến hàng cấm. Khoản 1 Điều 25 Luật thương mại xác định: “Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể danh mục hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hoá đó”. Đối với pháp luật về thương mại đầu tư, các nhà làm luật không định nghĩa hàng cấm là gì mà được quy định thành danh mục cụ thể những mặt hàng cấm kinh doanh. Danh mục này do Chính phủ quy định và từng thời kỳ khác nhau thì danh mục hàng hoá cấm kinh doanh cũng thay đổi. Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có giải thích: “Hàng cấm” gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam. Dưới góc độ pháp lý hình sự, hàng cấm được xác định là đối tượng của tội phạm về kinh tế, bị xem là đối tượng: “bất hợp pháp”. Việc lưu thông và kinh doanh đối với đối tượng này ở mức độ nhất định là hành vi tội phạm, bị pháp luật hình sự nghiêm cấm. Để hiểu rõ về hàng cấm, ngoài việc xem xét khái niệm hàng hóa nói chung, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các văn bản pháp luật quy định về hàng cấm và dấu hiệu nhận biết hàng cấm. Tuy nhiên, cho trước khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 được ban hành, các quy định pháp lý về hàng cấm còn chưa chỉ ra khái niệm hàng cấm và chưa quy định cụ thể dấu hiệu nhận biết đối tượng hàng cấm đã được điều chỉnh tại các điều luật khác với Điều 155 BLHS năm 1999. Điều này đã gây những khó khăn nhất định cho việc nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức cho đúng về hàng cấm dưới góc độ pháp lý. Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đưa ra khái niệm về hàng cấm mà hàng cấm chỉ được nhắc đến một cách chung chung. Để đưa ra 9
  16. khái niệm đầy đủ nhất về hàng cấm dưới góc độ pháp luật hình sự cần chú ý một số nội dung cơ bản sau: một là hàng cấm là loại hàng hoá đặc biệt do nhà nước thống nhất quản lý và quy định cụ thể danh mục hàng hoá thuộc loại này. Hai là danh mục hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau. Có nhiều loại hàng hoá có tính chất cấm vĩnh viễn, cũng có những hàng hoá chỉ cấm tạm thời. Ba là hàng cấm có tác hại về kinh tế, có khả năng gây hại cho tính mạng, sức khoẻ con người và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị của mỗi quốc gia. Bốn là tuỳ thuộc vào chế độ quản lý của mỗi quốc gia mà việc quy định các mặt hàng cấm sản xuất kinh doanh khác nhau. BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có nhiều điều luật quy định hành vi phạm tội liên quan đến hàng cấm ở các chương khác nhau, là đối tượng tác động của nhiều tội phạm khác nhau như: hàng cấm là chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất độc, văn hoá phẩm đồi truỵ...Những hàng cấm còn lại chưa quy định cụ thể ở Điều luật nào khác thì được quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Như vậy, diện hàng cấm nói chung rộng hơn diện hàng cấm là đối tượng tác động của Điều 191 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nhìn nhận diện hàng cấm theo nghĩa rộng chúng ta cần nhìn nhận diện hàng cấm trên tất cả các lĩnh vực và có sự liên hệ với diện hàng cấm là đối tượng tác động của các tội phạm cụ thể về hàng cấm kể trên. Vì vậy, từ những phân tích nêu trên và thực tiễn áp dụng pháp luật chúng ta nhận thức: “Hàng cấm gồm hàng hóa cấm kinh doanh; hàng hóa cấm lưu hành, sử dụng; hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam”. - Khái niệm tàng trữ, vận chuyển hàng cấm Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là hành vi cất giữ, chuyển dịch hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh. Tàng trữ hàng cấm là hành vi cất giữ hàng cấm ở bất kỳ chỗ nào một cách trái phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong hành lý hoặc cách giấu bất kỳ một vị trí nào khác mà người tàng trữ đã chọn, không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất ra hàng cấm khác hoặc vận chuyển từ này 10
  17. đến nơi khác. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lý. Nếu tàng trữ hàng cấm cho người mà khác biết rõ người này buôn bán hàng cấm thì hành vi cất giữ hàng cấm không phải là hành vi tàng trữ mà là hành vi giúp sức người buôn bán hàng cấm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi buôn bán, vận chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi buôn bán chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ), nếu cùng một loại hàng cấm. Khi xác định hành vi tàng trữ hàng cấm, cần phân biệt với hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nếu tài sản do người khác phạm tội mà có là hàng cấm, người đó chứa chấp thì hành vi chứa chấp sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ hàng cấm hoặc hành vi tiêu thụ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm. Vận chuyển hàng cấm là hành vi đưa hàng cấm từ nơi này đến nơi khác một cách trái phép. Hình thức vận chuyển có thể là trực tiếp mang hoặc gửi hàng cấm từ địa điểm này đến địa điểm khác bằng bất cứ đường nào (đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không, đường bưu điện) bằng bất kỳ phuơng thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích buôn bán, tàng trữ. Tuy nhiên nếu vận chuyển hàng cấm qua biên giới thì thuộc trường hợp quy định tại Điều 189 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Nếu vận chuyển hàng cấm hộ cho người khác mà biết rõ mục đích buôn bán hàng cấm của người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm với vai trò giúp sức. Nguyên nhân cũng do việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán hàng cấm mang lại nguồn lợi kinh tế rất lớn nên nhiều người, nhiều cá nhân, tổ chức hám lợi mà bất chấp những quy định của pháp luật để thực hiện. Đó đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội không chỉ vi phạm luật xử lý vi phạm hành chính mà còn bị coi là tội phạm và buộc phải xử lý, áp dụng chế tài hình sự. Tuy nhiên, pháp 11
  18. luật hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm là tội phạm khi hành vi đó ở mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cụ thể như: phải thực hiện hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm với số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính, hoặc bị kết án về một số hành vi xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế được quy định trong Bộ luật hình sự như trong phần nghiên cứu dưới đây. Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm Tội phạm nói chung, tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nói riêng đều là hiện tượng tiêu cực của xã hội có nguồn gốc từ sự phát triển của xã hội. Mỗi quốc gia, để bảo vệ lợi ích của đất nước mình và phù hợp với tập quán thương mại quốc tế đều đưa ra những chính sách nhằm đấu tranh, phòng ngừa và giảm bớt tác hại của loại tội phạm này. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Hành vi thoả mãn các yếu tố nêu trên mới được coi là tội phạm. Hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm để được coi là tội phạm cũng phải thoả mãn các yếu tố theo quy định của pháp luật. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm được quy định tại Điều 191 thuộc chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 2015. Để tìm ra khái niệm chính xác về tội này, cần tìm hiểu khái niệm của các cụm từ, thuật ngữ tạo nên tội danh và nguồn gốc, bản chất của hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm. Từ trước đến nay các văn bản có liên quan hay các Từ điển tiếng Việt có đề cập đến khái niệm hoặc giải thích các cụm từ: vận chuyển hàng cấm, tàng trữ hàng cấm. Tổng kết lại người nghiên cứu hiểu một cách ngắn gọn: Tàng trữ, vận chuyển 12
  19. hàng cấm trong BLHS là các hành vi cất giữ hàng cấm bằng bất kỳ hình thức nào, di chuyển hàng cấm từ nơi này đến nơi khác bằng bấy kỳ hình thức nào [53]. Để tìm ra khái niệm chính xác về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm, bên cạnh việc tìm hiểu những cụm thuật ngữ tạo nên tội danh, người nghiên cứu cũng cần tìm hiểu nguồn gốc và bản chất của tội danh này. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến hàng cấm xuất hiện trước hết là do sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội dẫn đến sự phát triển của những hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá trong nội địa không đồng nhất cả về sức sản xuất (nguồn cung), nhu cầu tiêu dùng (nguồn cầu). Một số mặt hàng với tính chất đặc biệt có nguy cơ gây nguy hại cho nền kinh tế và cho sức khoẻ con người. Các loại hàng hoá này mang lại lợi nhuận lớn khiến các cá nhân, tổ chức bất chấp sự quản lý của Nhà nước để lưu thông hàng hoá loại này. Đây chính là nguyên nhân sâu xa khiến hành vi tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan. Với bản chất là hoạt động kinh tế mang tính xã hội, hoạt động lưu thông hàng cấm luôn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế. Việc quan niệm về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm của từng quốc gia trong từng giai đoạn và điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội cũng vì thế mà khác nhau. Những quốc gia có nền kinh tế phát triển có hệ thống quy phạm pháp luật về thương mại, đầu tư, kinh doanh trong nước rất chặt chẽ, do đó hệ thống mặt hàng lưu thông nội địa quy định nghiêm ngặt, chế tài xử phạt đối với những hoạt động lưu thông hàng hoá kém chất lượng, hàng hoá không được kinh doanh rất nghiêm khắc, do đó những mặt hàng cấm vĩnh viễn mới được áp dụng trong chế tài của luật hình sự theo hướng quy định đối với hành vi lưu thông loại hàng hoá cụ thể như ma tuý, chất phóng xạ...Đối với các quốc gia khác, các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn, ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế hơn, các hành vi lưu thông hàng cấm phức tạp và tinh vi hơn, do đó các quốc gia này áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhất là hình phạt đối với các hành vi lưu thông hàng hoá thuộc danh mục hàng cấm do Chính phủ quy định. 13
  20. Với những đặc điểm nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm tại Điều 191: “Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...”. Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm như sau: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là những hành vi cất giữ trái phép, vận chuyển trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng với số lượng, trọng lượng hoặc giá trị cụ thể mà pháp luật quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa nhất định. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm - Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học pháp lý hình sự. Luật hình sự Việt Nam khẳng định: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [50, tr.86]. Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi xâm hại đến một trong các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ quy định tại Điều 8 BLHS. Khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như đối với việc định tội danh và quyết định hình phạt trên thực tế. Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm là trật tự quản lý kinh tế, chế độ độc quyền của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cẩm mà pháp luật quy định. - Hành vi khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm bao gồm hành vi tàng trữ hàng cấm và hành vi vận chuyển hàng cấm. Tàng trữ hàng cấm như đã phân tích ở trên là hành vi cất giữ trái phép những mặt hàng Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0