intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

38
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn chỉ ra những bất cập hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự và các giải pháp khác nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THẾ THANH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THẾ THANH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS.TRẦN HỮU TRÁNG Hà Nội - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. TÊN TÁC GIẢ NGUYỄN THẾ THANH
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN .................................................................................... 9 1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản ................. 9 1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam .............................................................................................. 21 1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam........................................................ 32 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................... 40 2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội ....................................................................................................... 40 2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội .................................................................. 44 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 66 3.1 Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tội trộm cắp tài sản. ........ 66 3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản ......................................................................................................... 68 3.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội ................................................................................................ 70 KẾT LUẬN .................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự NXB Nhà xuất bản VKSND Viện kiểm sát nhân dân TAND Tòa án nhân dân CSĐT Cảnh sát điều tra QPPL Quy phạm pháp luật
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng số 2.1: Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài sản trong tương quan với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 ...... 45 Bảng 2.2: Số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 ............................................................................... 45 Bảng 2.3: Kết quả xét xử phúc thẩm các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019...... 46 Bảng 2. 4: Thống kê chế tài được áp dụng khi giải quyết tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa từ năm 2015 đến năm 2019 ................ 50
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhìn lại ba mươi năm đổi mới kể từ năm 1986, đất nước ta do Đảng lãnh đạo đã đạt được những thành quả to lớn, toàn diện trên tất các các mặt của đời sống xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém và không ít vấn đề bức xúc nảy sinh chưa được giải quyết đó là sự tha hóa, biến chất về đạo đức, lối sống thực dụng và hưởng thụ của một bộ phận con người trong xã hội làm phát sinh tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhiều vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, từ Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên được pháp điển hóa cho đến Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, pháp luật hình sự Việt Nam đều dành một chương riêng trong phần các tội phạm để quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội trộm cắp tài sản. Thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống và xử lý tội phạm cho thấy, nhờ sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng cao. Số vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa đã được phát hiện chiếm tỷ lệ cao và được đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng trên địa bàn quận Đống Đa vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do ý thức tự bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo vệ tài sản của người khác trong quần chúng nhân dân còn 1
  8. chưa cao; các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế mặc dù có điều kiện về kinh tế nhưng công tác bảo vệ tài sản còn nhiều hạn chế, mất cảnh giác, không quan tâm trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuật để phục vụ cho việc phòng ngừa và chống tội phạm; số đối tượng bị phạt tù sau khi chấp hành xong hình phạt tù để tái hòa nhập cộng đồng còn chưa được quản lý chặt chẽ, chưa được tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và chưa được tạo điều kiện về công ăn việc làm, do đó số đối tượng này không có việc làm còn nhiều nên tỷ lệ tái phạm còn cao. Đặc biệt, quá trình áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản của các cơ quan bảo vệ pháp luật của Quận Đống Đa còn có những hạn chế, một số vụ việc chưa đánh giá hết tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nên việc định tội danh và áp dụng hình phạt còn chưa thật chính xác; việc áp dụng một số quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, dẫn đến hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy, Tác giả lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội” làm luận văn Thạc sĩ với mong muốn trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xử lý loại tội này sẽ góp phần bảo đảm việc áp dụng đúng pháp luật hình sự, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội trộm cắp tài sản tại quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng pháp luật hình sự áp dụng cho tội trộm cắp tài sản đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà tội phạm học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu Luật. Tính đến thời điểm nghiên cứu có thể chia các công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự thành hai nhóm lớn sau: Thứ nhất, nhóm luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học: Các công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam nhắc đến như sau: Nguyễn Bá Vinh (2019), Tội Trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, 2
  9. Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Lê Ngọc Như Chi (2018), Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Phạm Tuấn Anh (2018), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Lê Thị Bình (2018), Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Phạm Thu Hà (2016) Tội trộm cắp tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thu Ba (2016), Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự VN( trên cơ sở số liệu xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…. Các công trình nghiên cứu này đã phân tích, làm rõ được một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản cũng như lịch sử hình thành và phát triển của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó còn chỉ ra thực trạng xảy ra tội trộm cắp tài sản trên địa bàn nhất định Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở các vấn đề mang tính lý luận mà chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng thủ tục này, Thêm vào đó công trình đã được công bố từ lâu, chưa cập nhật được các quy định mới về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015. Thứ hai, nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong nhóm này có thể kể đến các bài viết như: Hồ Sỹ Sơn, Tội trộm cắp tài sản nhìn từ góc độ so sánh pháp luật từ một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội - Số 7/ 2016, tr.12-20; Đinh Công Thành, "Bình luận về tội trộm cắp tài sản", Tạp chí Kiểm sát, Số 10/2018, tr. 43 – 49; Phan Anh Tuấn, Một số đề xuất hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự 3
  10. năm 2015, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 8/2015, tr.48-55; Dương Vân Anh, Yếu tố định lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản, Tạp chí Kiểm sát -số 23/ 2014, tr.49-52, 62; Nguyễn Thị Xuân, Hoàn thiện quy định cấu thành tội trộm cắp tài sản tại điều 138 Bộ Luật hình sự, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp - số 21/2015, tr.37-40; Lê Văn Định, “Bàn về nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản ở Tây Nguyên”, Tạp chí Kiểm sát. Số 10/2017, tr. 20 – 24; Lê Văn Định, “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” Tại chí Kiểm sát. Số 6/2015, tr. 47 – 53; Đỗ Lường Thiện, “Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản”, Tạp chí Nghề luật. Số 4/2017, tr. 71 – 73; Trần Mạnh Hà, “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội Trộm cắp tài sản khi định tội danh”, Tạp chí Toà án nhân dân. Số 10/2006, tr. 23 – 28……Các bài viết kể trên đề cập những vấn đề cơ bản về lý luận của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, ý nghĩa, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra còn có phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với các tội trong chương các tội phạm xâm phạm sở hữu khác. Các bài viết trên đều đến thực tiễn áp dụng cũng như chỉ ra những bất cập, vướng mắc khi giải quyết án hình sự đối với tội danh là trộm cắp tài sản, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến tội danh trên cũng như các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm này diễn ra trên thực tế. Tuy nhiên các vấn đề trên được phân tích đánh giá dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 mà chưa cập nhật các quy định mới của tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015. Các công trình, bài báo, tạp chí chuyên ngành luật đã nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trên những khía cạnh cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế nhất định ở việc thiếu tính hệ thống, tính toàn diện. Chưa có công trình nào nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – một trong Quận 4
  11. lớn của thành phố Hà Nội, hơn nữa nhiều công trình đã nghiên cứu và được công bố từ khá lâu, chưa cập nhật được những điểm mới của tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 Vì vậy, thông qua quá trình nghiên cứu Luận văn này, tác giả đi sẽ sâu tìm hiểu toàn diện về loại tội trộm cắp tài sản, từ đó kế thừa những nội dung đã được tiếp cận từ các công trình nghiên cứu của các tác giả trước đây để làm rõ một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản, thực trạng các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và thực tiễn áp dụng tại Quận Đống Đa, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn chỉ ra những bất cập hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự và các giải pháp khác nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu: Nhiệm vụ thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận, bao gồm: - Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam. - Làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay. - Phân tích làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam, bao gồm khách thể của tội trộm cắp tài sản, mặt chủ quan 5
  12. của tội trộm cắp tài sản, mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội trộm cắp tài sản. Nhiệm vụ thứ hai: Làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, cụ thể - Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội. - Phân tích làm rõ những kết quả đạt được trong áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội, - Phân tích làm rõ những tồn tại và hạn chế trong áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội. Nhiệm vụ thứ ba: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự, cụ thể như sau: - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản - Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản; các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, trong đó giới hạn các hoạt động là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. 4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài. 6
  13. - Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam thời gian qua, đặc biệt nghiên cứu tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có so sánh với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 - Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, trong đó giới hạn các hoạt động áp dụng pháp luật cơ bản là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn năm 2016 đến năm 2015 và định hướng đến năm 2030 và các quan điểm đấu tranh phòng chống tội phạm. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Đối với phương pháp phân tích, so sánh tác giả dùng nhằm luận giải những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản, làm rõ những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội đối với chương 1, chương 3 của luận văn, ngoài ra tác giả còn kết hợp sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê nhằm làm sáng tỏ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội được thể hiện ở chương 2 của luận văn . 7
  14. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Về mặt lý luận của đề tài: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng như hoàn thiện lý luận về tội trộm cắp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn của đề tài: Với kết quả đạt được trong nghiên cứu của luận văn thì có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn công tác chỉ đạo, điều hành và tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Với kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo Luật và nghiên cứu khoa học 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội Chương 3: Những giải bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà 8
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản 1.1.1 Khái niệm về tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam Sở hữu là một phạm trù kinh tế, thể hiện các quan hệ sản xuất xã hội, phương thức chiếm hữu và phân phối tài sản trong các hình thái kinh tế - xã hội và quan hệ xã hội nhất định. Ở Việt Nam, quyền sở hữu về tài sản luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và được ghi nhận cụ thể tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.”. Trong pháp luật dân sự, khái niệm quyền sở hữu được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Quyền sở hữu có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban thành theo những trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu tài sản trong đời sống lao động, xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, quyền sở hữu là các xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong những điều kiện và phạm vi nhất định đối với tài sản. BLDS năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản theo quy định của pháp luật”. Qua đó, quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu (thực hiện mọi hành vi theo ý chí của chủ sở hữu để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội), quyền sử dụng (thực hiện việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản) và quyền định đoạt (thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản). 9
  16. Như vậy, tài sản và quyền sở hữu tài sản là những quy định pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm duy trì đời sống kinh tế - xã hội. Khi quyền sở hữu tài sản bị xâm hại sẽ gây những ảnh hưởng nhất định đến đời sống kinh tế - xã hội. Hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi của một người nhằm tác động đến việc thực hiện các quyền sở hữu tài sản như phá hoại tài sản, chiếm đoạt tài sản… Do đó, Nhà nước luôn có những quy định cụ thể để bảo vệ quyền sở hữu tài sản. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu khi thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự thì được coi là tội phạm. Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu về tài sản luôn là vấn đề trọng tâm được ghi nhận ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, bên cạnh cơ chế để bảo vệ quyền sở hữu về tài sản thông qua các quy định được ghi nhận trong bộ luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự, các chế tài xử phạt vi phạm hành chí được Đảng và Nhà nước ta đã quy định cụ thể các chế tài hình sự trong Bộ luật hình sự được áp dụng đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Đây là biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất thể hiện quyền lực của nhà nước trong xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu về tài sản một cách bất hợp pháp. Từ BLHS năm 1985 lần đầu tiên được pháp điển hóa đến BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, pháp luật hình sự Việt Nam đều dành một chương riêng trong phần các tội phạm để quy định về các tội xâm phạm sở hữu, điều đó cho thấy phần nào ý nghĩa, tầm quan trọng của chế định này. Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, theo đó các tội xâm phạm sở hữu được hiểu như sau:“Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật hình sự quy định thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quan hệ sở hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự”. 10
  17. Tội trộm cắp tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu. Hành vi trộm cắp tài sản thuộc nhóm hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi "chiếm đoạt tài sản" có nhiều quan điểm, như: (i) “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình” (ii) hoặc là “hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản đang do một chủ thể quản lý thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền sở hữu, đồng thời tạo khả năng cho người phạm tội có thể thực hiện được việc chiếm giữ, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt là tài sản còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu” (iii) hoặc là "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm”. Các quan điểm trên đây dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi chiếm đoạt tài sản có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự, xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản. Trong một số trường hợp nhất định tùy thuộc vào biểu hiện của hành vi chiếm đoạt tài sản mà hành vi trên còn có thể xâm phạm tới quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Thứ hai, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi dịch chuyển tài sản từ chủ tài sản (người sở hữu hợp pháp tài sản hoặc người quản lý hợp pháp tài sản gọi chung là người quản lý tài sản) sang người thực hiện hành vi chiếm đoạt, làm cho chủ tài sản mất một trong các quyền sở hữu: quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc quyền định đoạt tài sản của mình, và người chiếm đoạt có thể thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, hoặc định đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật. 11
  18. Thứ ba, hành vi chiếm đoạt tài sản rất đa dạng và được thể hiện dưới những dạng hành vi khác nhau, tùy thuộc vào mối quan hệ giữa người chiếm đoạt với tài sản bị chiếm đoạt, hình thức chiếm đoạt, ví dụ: hành vi trộm cắp tài sản, hành vi cướp tài sản, hành vi cưỡng đoạt tài sản, hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản... Thứ tư, tài sản là đối tượng của hành vi chiếm đoạt phải còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lý, kiểm soát của người quản lý tài sản, và phải đáp ứng đặc điểm riêng. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, quản lý, kiểm soát của người quản lý tài sản thì không là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Thứ năm, về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi chiếm đoạt phải do lỗi cố ý, mục đích khi họ thực hiện hành vi là “nhằm chiếm đoạt tài sản”. Do vậy, lỗi của họ phải là cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhận thức rõ hành vi của mình, biết được sự nguy hiểm của hành vi cho xã hội, nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi này. Trong khoa học luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về tội trộm cắp tài sản, nhưng về cơ bản đều nêu lên được nội hàm của hành vi trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam. Quan điểm thứ nhất: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản”. Quan điểm thứ hai: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà con vi phạm”. Quan điểm thứ ba: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đọa tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách 12
  19. nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý” Qua ba quan điểm nêu trên, có thể nhận thấy rằng hành vi trộm cắp tài sản có một số đặc trưng như sau: Thứ nhất, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút Lén lút là hành vi thể hiện sự giấy giếm, vụng trộm, không công khai và có ý đồ gian dối. Tính chất lén lút của hành vi trộm cắp tài sản được thể hiện ở cả hành vi khách quan lẫn ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi được coi là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Hành vi lén lút được hiểu là sự giấu giếm vụng trộm lấy tài sản khi chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết mình bị mất tài sản, chỉ khi tài sản bị chiếm đoạt họ mới biết tài sản đã bị mất. Hành vi lén lút ở đây không nhất thiết là làm việc mà không ai biết, nó có thể được thực hiện một cách giấu giếm, vụng trộm, nhưng có thể được thực hiện một cách công khai, giữa nơi đông người. Tuy nhiên, việc giấy giếm hay công khai thì chúng đều có một đặc điểm chung thống nhất đó là “lén lút” với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản. Ví dụ: Bản án 08/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T. Tóm tắt vụ án như sau: do H không có tiền trả nợ nên T xúi giục H cùng V đi đến đám cưới nhà anh Thắng ở xã Nông Trường để trộm cắp xe máy. Đến nơi H phát hiện xe máy Sirius biển kiểm soát 36B3 42482 màu vàng đen của anh B không có người trông coi nên H dừng xe và bảo V xuống dùng chiếc vam vẫn mang theo phá khóa và lấy xe nhưng V không phá được khóa nên H xuống trực tiếp phá khóa và lấy xe mang về cho T. T bán xe cho chị Ng ở thôn Trúc Chuẩn 2 lấy 10.000.000đ, chị Ng bán lại cho ông Nguyễn Thọ X lấy 12.000.000đ, khi chị H con gái ông X mượn chiếc xe này đi lại thì bị anh B phát hiện và báo công an thu giữ. Như vậy, thông qua ví dụ tại bản án 08/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T trên có thể nhận 13
  20. thấy rằng hành vi của T mặc dù có công khai tuy nhiên vẫn là lợi dụng lúc anh B. lơ là, không quản lý trông coi tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài sản của T vẫn là lén lút với chủ sở hữu tài sản. Thứ hai, trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật Lén lút không phải đặc trưng duy nhất của hành vi trộm cắp tài sản mà trong nhiều tội phạm, người thực hiện hành vi được coi là tội phạm cũng lén lút nhưng là để thực hiện hành vi khác như: cố ý lẻn vào nhà người khác giết hại những người trong gia đình vì mục đích hận thù hay lẻn vào phòng ngủ của người khác để thực hiện hành vi hiếp dâm…Vì vậy, khi nói đến tội trộm cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén lút mà không chiếm đoạt tài sản thì không phải dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản. Xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Quá trình này xét về mặt pháp lí không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được thể hiện ở những dạng hành vi cụ thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt và tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể.[9] Để đánh giá các hành vi chiếm giữ tài sản có phạm tội hay không, cần phải đánh giá: (1) việc nhận tài sản từ chủ sở hữu của người phạm tội có phù hợp quy định của pháp luật dân sự hay không; (2) việc chiếm giữ tài sản có thuộc một trong các trường hợp xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (viết tắt là BLDS) hay không. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2