intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

26
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu luận văn là hướng tới làm sâu sắc thêm về lý luận, đánh giá quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CAO CƯỜNG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN CAO CƯỜNG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng. Những kết luận nghiên cứu, các số liệu được trình bày trong luận văn “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” là trung thực, chính xác và được trích dẫn theo đúng quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình. Đà Nẵng, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Nguyễn Cao Cường
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................................... 12 1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản ..................................... 12 1.2. Lịch sử quy định tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay ......................................................................... 29 CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG... 40 2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản ................................. 40 2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt về tội trộm cắp tài sản ............................................................................................................... 42 CHƯƠNG 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ............................................................................................................. 64 3.1. Các yêu cầu đối với việc áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 64 3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự và tội trộm cắp tài sản ................................................................................ 67 KẾT LUẬN ................................................................................................ 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 85
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 BLHS Bộ luật hình sự 2 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 3 CAND Công an nhân dân 4 KHXH Khoa học xã hội 5 Nxb Nhà xuất bản 6 TAND Tòa án nhân dân 7 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao 8 XHCN Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản 2.1 của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giai 35 đoạn 2010 - 2019 Hình phạt được Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, 2.2 thành phố Đà Nẵng quyết định áp dụng đối với người 35 bị kết án về tội trộm cắp tài sản giai đoạn 2015-2019
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường nên các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng xảy ra khá phổ biến trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, trong đó có quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Thực trạng này đặt ra vấn đề cần tăng cường đấu tranh phòng, chống Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc phát hiện xử lý các tội xâm phạm sở hữu, BLHS hiện hành quy định khá chi tiết, cụ thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng. Mặc dù vậy, qua một thời gian áp dụng cho thấy quy định của Bộ luật này về tội trộm cắp tài sản đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt. Về mặt lý luận, xoay quanh một số vấn đề về tội trộm cắp tài sản vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhất là vấn đề ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính đối với hành vi trộm cắp tài sản. Về mặt thực tiễn, do nhận thức được tầm quan trọng của việc xét xử các vụ án về tội trộm cắp tài sản, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên trong những năm qua TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án, hạn chế đến mức thấp nhất các bản án, quyết định bị sửa, bị hủy do lỗi chủ quan của thẩm phán. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn một số ít trường hợp áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vụ án về tội trộm cắp tài sản chưa đúng, dẫn tới việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt chưa thật sự chính xác, dẫn tới sai sót cần phải khắc phục. Như vậy, cả về lý luận, quy định của luật thực định và thực tiễn áp dụng để giải quyết các vụ án về tội trộm cắp tài sản đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu 7
  8. một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu để nhận thức và áp dụng đúng đắn pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trong thời gian tới. Xuất phát từ lý do nêu trên, học viên lựa chọn đề tài:“Tội trộm cắp từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ: Luật học, Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay, tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam được nhiều nhà khoa học và cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu do vậy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về chủ đề này, điển hình là: - Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, NXB khoa học xã hội, 2014; Bình luận khoa học chuyên sâu BLHS Phần các tội phạm, Tập II. “Các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Đinh Văn Quế, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2005; Bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Phần các tội phạm, quyển I của tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp 2018; cuốn sách chuyên khảo “Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)” của tác giả Mai Bộ, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2010; - Luận án tiến sĩ, luận văn cao học: “Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Thanh, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016; “Trách nhiệm hình sự đối với với các tội chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Tường Vy, Học viện Khoa học Xã hội năm 2016; “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang,”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH năm 2017; “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước”, Luận văn thạc sĩ, Học viện 8
  9. KHXH năm 2018; “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH năm 2020. - Các bài báo khoa học: “Về các tội xâm phạm sở hữu” của TS. Nguyễn Mai Bộ, Tạp chí TAND số 7/2018, tr 1-9; “Một số điểm mới cần thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại BLHS năm 2015” của tác giả Đinh Công Thành và Nguyễn Thị Tuyết Loan, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 2/2018; tr 47-54; “Dấu hiệu pháp lý và cách phân loại các tội xâm phạm sở hữu theo BLHS năm 2015” của tác giả Nguyễn Trường Giang, Tạp chí Luật sư Việt Nam số 11/2017, tr 18-23. Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học về tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam ở các cấp độ, phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về “Tội trộm cắp từ thực tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng”. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài này không trùng với các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố về chủ đề này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu luận văn là hướng tới làm sâu sắc thêm về lý luận, đánh giá quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: + Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản; + Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, rút ra 9
  10. những mặt tích cực cũng như hạn chế, sai sót và nguyên nhân; + Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và thực tiễn áp dụng của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới góc độ Luật hình sự và tố tụng hình sự Về thực tiễn, luận văn tập trung nghiên cứu hai nội dung cơ bản của áp dụng pháp luật hình sự là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trong xét xử của TAND quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Về thời gian: từ năm 2015 - 2019 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận (cơ sở lý luận) Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm và đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên những tri thức nền tảng của khoa học luật hình sự để luận giải đối tượng nghiên cứu trong luận văn của mình. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia… để làm rõ từng nội dung nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận 10
  11. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận của khoa học luật hình sự về tội phạm cụ thể như: khái niệm, các dấu hiệu định tội, định khung hình phạt; dấu hiệu phân định giữa tội phạm với hành vi trộm cắp không phải là tội phạm. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản; khắc phục những hạn chế, sai sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết vụ án của TAND, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cơ cấu thành ba chương Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản Chương 2. Thực tiễn về pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng. Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản. 11
  12. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1. Những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản 1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản Trong khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm là khái niệm trung tâm, khái niệm cơ bản nhất, đóng vai trò là cơ sở để xây dựng khái niệm về từng tội phạm cụ thể, cũng như các khái niệm khác liên quan đến tội phạm. Khái niệm tội trộm cắp tài sản là một trong những khái niệm về một tội phạm cụ thể, do vậy phải được xây dựng dựa trên khái niệm tội phạm nói chung. Hiện nay, xoay quanh khái niệm tội phạm có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhất là việc phản ánh các dấu hiệu (đặc điểm) đặc trưng của tội phạm trong nội hàm khái niệm. Song dựa trên định nghĩa lập pháp về khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành, đa số các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam đều thống nhất cho rằng: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và phải bị xử lý hình sự”. Từ khái niệm này cho thấy, tội phạm với tính chất là một hiện tượng xã hội, pháp lý, có các đặc điểm đặc trưng khác với các hiện tượng không phải là tội phạm, đó là: + Đặc điểm “Là hành vi nguy hiểm cho xã hội” (tính nguy hiểm cho xã hội). Trước hết, tội phạm phải là hành vi của con người. Hành vi bị coi là tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều đó có nghĩa là: Về mặt khách quan, hành vi bị coi là tội phạm phải gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đáng kể cho những lợi ích được pháp luật hình sự bảo vệ. 12
  13. Đây là đặc điểm phản ánh nội dung chính trị - xã hội của tội phạm, đặc điểm quan trọng nhất, quyết định các đặc điểm khác của tội phạm (đặc điểm về hình thức và hậu quả pháp lý của tội phạm). + Đặc điểm “được quy định trong BLHS” Đặc điểm này cho thấy chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS mới có thể bị coi là tội phạm, nghĩa là hành vi bị coi là tội phạm phải là những xử sự trái với quy định của BLHS, cấm thực hiện hoặc cấm không thực hiện (phải thực hiện khi có điều kiện để thực hiện). Đây chỉ là đặc điểm về hình thức pháp lý của tội phạm, phản ánh đặc điểm nội dung của tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội), nhưng có tính độc lập tương đối và có ý nghĩa quan trọng. Bởi việc khẳng định tội phạm phải có đặc điểm này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế, là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hợp quốc: “Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ thực hiện pháp luật quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm” (Khoản 2 Điều 11) + Đặc điểm “do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”. Đây là dấu hiệu về chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo đó họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà luật định và không trong “Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khách làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình. Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực pháp lý được Nhà nước xác định và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Đồng thời, năng lực trách nhiệm hình sự cũng là điều kiện để chủ thể thực hiện hành vi có thể có lỗi. Do có ý nghĩa như vậy, nên dấu hiệu về chủ thể “Có năng lực trách nhiệm hình sự” cần được coi là một dấu hiệu của tội phạm [16;tr.58]. + Đặc điểm “Thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý” Đặc điểm này cho thấy, tội phạm phải là hành vi có lỗi, tức là phải do chủ thể cố ý hoặc vô ý thực hiện. Việc thừa nhận dấu hiệu này là một dấu hiệu độc 13
  14. lập của tội phạm cho thấy, Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào việc một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Do vậy, “tính có lỗi” phải được xác định là một đặc điểm của tội phạm. + Đặc điểm “phải bị xử lý hình sự”. Đây là đặc điểm thể hiện hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm, mà là đặc điểm có tính quy kết, kèm theo của tội phạm; nó được xác định bởi chính những thuộc tính bên trong của tội phạm. Theo đó, chỉ những hành vi bị coi là tội phạm thì mới “phải bị xử lý hình sự”, không có tội phạm thì cũng không có biện pháp “xử lý hình sự”. Đây là lý do mà BLHS năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lý hình sự” trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8. Tội trộm cắp tài sản là một trong những tội phạm nói chung, do vậy cũng có đầy đủ những đặc điểm, đặc trưng chung của tội phạm. Mặc dù vậy, khi đưa ra các khái niệm khoa học về tội trộm cắp tài sản, các nhà nghiên cứu luật hình sự chỉ tập trung phản ánh những đặc điểm (dấu hiệu) riêng có của tội phạm này, chẳng hạn như: “Tội trộm cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản” [43;tr.49]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác” [31;tr.196]; hoặc “Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút” [4, tr.199]. Qua đây thấy rằng, các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam có nhiều cách diễn đạt khác nhau khi đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản, nhưng đều thống nhất ở chỗ, tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Chúng tôi cho rằng, các định nghĩa nêu trên mới chỉ là những định nghĩa khái quát về tội trộm cắp tài sản, phản ánh đặc điểm đặc trưng riêng có của tội trộm cắp, đó là “hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”. 14
  15. Theo chúng tôi, để đưa ra được một khái niệm đầy đủ về tội trộm cắp tài sản thì trong nội hàm khái niệm này phải thể hiện được đầy đủ các đặc điểm, đặc trưng của tội phạm này. Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ và theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự”. Như vậy, khái niệm này không chỉ thể hiện được những dấu hiệu (đặc điểm) chung của tội phạm mà còn thể hiện được dấu hiệu (đặc điểm) riêng của tội trộm cắp tài sản, đó là “lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác nắm giữ”. 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản * Những dấu hiệu định tội Nghiên cứu lý luận và quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản thấy rằng, tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau đây: - Dấu hiệu khách thể, đối tượng tác động của tội phạm. Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Quyền sở hữu tài sản gồm ba quyền năng cụ thể, đó là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Khi tài sản bị trộm cắp chủ sở hữu sẽ mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản bị chiếm đoạt. Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải là tài sản đang có người quản lý, nghĩa là: tài sản đó đang ở trong sự chiếm hữu, sự chi phối về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc tài sản đang nằm trong khu vực quản lý của chủ tài sản. Với đặc điểm như vậy thấy rằng, những hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lý, hoặc chưa có người quản lý đều không phải là hành vi trộm cắp tài sản. - Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm Mặc dù điều luật không mô tả hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản 15
  16. nhưng cả lý luận và thực tiễn đều thừa nhận hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là “Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý” Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu: về mặt khách quan, hành vi này được thực hiện bằng hình thức có khả năng không cho chủ tài sản (người quản lý tài sản) biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra; Về mặt chủ quan, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản người phạm tội có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình. Đối với chủ tài sản, người phạm tội không chỉ che giấu mặt thực tế của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn che giấu tính chất bất hợp pháp của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, đối với những người không phải là chủ tài sản, không biết rõ nguồn gốc tài sản thì có trường hợp người phạm tội chỉ che giấu tính chất bất hợp pháp của việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tội trộm cắp tài sản được nhà lập pháp quy định dưới dạng cấu thành tội phạm vật chất. Do vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm hữu được tài sản trên thực tế. Để xác định thời điểm tài sản đã được chiếm hữu trên thực tế phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Cụ thể là: nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ gọn thì chỉ coi là đã chiếm hữu được khi người phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người; nếu tài sản bị chiếm đoạt không thuộc loại nhỏ gọn thì chỉ coi là chiếm hữu được khi người phạm tội đã mang được tài sản ra khỏi khu vực quản lý; nếu tài sản bị chiếm đoạt là tài sản để ở nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì chỉ coi là chiếm hữu được khi đã dịch chuyển được tài sản ra khỏi vị trí ban đầu. - Dấu hiệu chủ thể của tội phạm Theo quy định của BLHS hiện hành, chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà luật định. Như vậy, chủ thể của tội phạm này chỉ có thể là cá nhân (thể nhân) mà không bao hàm pháp nhân thương mại 16
  17. Cá nhân chỉ được coi là chủ thể của tội trộm cắp tài sản khi đáp ứng được những điều kiện sau: + Là con người cụ thể, đang sống đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác + Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà luật định. Theo quy định của Điều 12 và Điều 173 BLHS hiện hành, thì: nếu hành vi được thực hiện, được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi trở lên; còn hành vi được thực hiện quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 173 BLHS thì người phạm tội phải đủ 14 tuổi trở lên. + Họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là không trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điều 21 BLHS). - Dấu hiệu lỗi Tội trộm cắp tài sản luôn được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp của chủ thể. Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, người phạm tội luôn mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác. Động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản. * Dấu hiệu phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với hành vi trộm cắp tài sản chưa phải là tội phạm (vi phạm pháp luật). Theo quy định tại Điều 173 BLHS hiện hành thì hành vi trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản bị trộm cắp phải có trị giá từ 02 triệu đồng trở lên. Trường hợp tài sản bị trộm cắp có trị giá dưới 02 triệu thì chỉ cấu thành tội phạm nếu có một trong những dấu hiệu sau đây: + Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm. Đây là trường hợp chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản (như công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…) chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm. Theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành 17
  18. chính năm 2012 thì cá nhân bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt hành chính [27;tr.18] + Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Đây là trường hợp chủ thể đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản hoặc về một trong các tội chiếm đoạt tài sản quy định tại các Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 172 (tội công nhiên chiếm đoạt tài sản); Điều 174 (tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản); Điều 175 (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) và Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. + Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội Đây là trường hợp mới được quy định trong BLHS năm 2015. Đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn vào giải thích về tình tiết này. Tuy nhiên, căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội có thể hiểu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, là trường hợp hành vi trộm cắp tài sản, ngoài gây hậu quả về tài sản còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn công cộng ở một địa bàn nhất định, gây xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, hoặc tâm lý hoang mang, lo lắng trong nhân dân… + Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ Đây là cũng tình tiết mới bổ sung trong BLHS năm 2015 và cũng chưa được hướng dẫn, giải thích. Tuy nhiên, về cơ bản có thể hiểu tài sản là phương 18
  19. tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ là tài sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là phương tiện mưu sinh duy nhất của người bị hại và gia đình họ, nếu bị trộm cắp thì người bị hại và gia đình họ, sẽ lâm vào tình trạng hết sức khó khăn về kinh tế. Chẳng hạn, nguồn thu chính của gia đình người bị hại là thu từ việc sử dụng chiếc xe máy chở khách để kiếm tiền mưu sinh, nhưng đã bị người phạm tội trộm cắp mất. + Tài sản là di vật, cổ vật Theo quy định tại Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2010 thì: di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học; cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên. * Hình phạt là các dấu hiệu định khung hình phạt. BLHS hiện hành quy định bố khung hình phạt chính đối với tội trộm cắp tài sản - Khoản 1 Điều 173 BLHS hiện hành quy định khung hình phạt cơ bản gồm phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung hình phạt này được áp dụng cho trường hợp phạm tội mà trị giá tài sản trộm cắp dưới 50 triệu đồng. - Khoản 2 của Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau đây: + Có tổ chức: Đây là trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm (đồng phạm có tổ chức). + Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên tiếp phạm tội trộm cắp tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu thập chính [33;tr.44] + Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng + Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Dùng thủ đoạn xảo quyệt là 19
  20. trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản bằng những thủ đoạn tinh vi để che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản, làm cho mọi người dễ nhầm và không cho rằng đó là hành vi trộm cắp tài sản; còn dùng thủ đoạn nguy hiểm là dùng thủ đoạn trộm cắp tài sản có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác. + Hành hung để tẩu thoát: Đây là trường hợp người trộm cắp tài sản đã có hành vi chống trả lại việc bắt giữ để tẩu thoát. Mục đích chống trả là để tẩu thoát. Nếu mục đích chống trả để giữ bằng được tài sản vừa trộm cắp được thì có sự chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản [16; tr.298] + Tài sản là bảo vật quốc gia: Đây là trường hợp đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là bảo vật quốc gia, tức là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học (Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2010). + Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 173 BLHS hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. - Khoản 3 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai (rất tăng nặng) có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau đây: + Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng + Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh - Khoản 4 Điều 173 BLHS quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba (đặc biệt tăng nặng) có mức phạt tù từ 12 đến 20 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản có một trong những tình tiết định khung tăng nặng sau đây: 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2