intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:77

96
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Các vấn đề lý luận và khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại tỉnh Thái Nguyên và giải pháp bảo đảm đúng pháp luật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỮU MẠNH TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, NĂM 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỮU MẠNH TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. LẠI VIẾT QUANG HÀ NỘI, NĂM 2021
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài........................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .............................................................................. 5 7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 6 Chương 1 ............................................................................................................... 7 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT .............. 7 VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ................................................ 7 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. .................................................................................................... 7 1.2. Khái quát lịch sử quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiên giao thông đường bộ trong pháp luật hình sựViệt Nam. ............................. 13 Chương 2 ............................................................................................................. 22 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ .................................................. 22 2.1. Quy định về tội phạm ................................................................................... 22 2.2.Quy định về hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ............................................................................................................. 26 Chương 3 ............................................................................................................. 34 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐÚNG PHÁP LUẬT ................................................. 34
  4. 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại tỉnh Thái Nguyên. .......................................................................... 34 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật. ......................................... 57 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 70
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật Hình sự. NQ HĐTPTANDTC: Nghị quyết hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. VKSNDTC: Viện kiểm soát nhân dân tối cao. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao. TT- BGTVT: Thông tư - bộ giao thông vận tải. UBND: Ủy ban nhân dân. ATGT: An toàn giao thông. TAND: Tòa án nhân dân. TT- BCA: Thông tư bộ công an.
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Trong những năm gần đây, tình hình trật tự an toàn giao thông có những diễn biến phức tạp, số vụ tai nạn giao thông ngày càng gia tăng về cả số lượng và mức độ nghiêm trọng. Mỗi năm trên cả nước xảy ra hàng chục ngàn vụ tai nạn giao thông lớn nhỏ, làm chết và bị thương hàng ngàn người, thiệt hại về tài sản hàng tỉ đồng. Trong đó, số vụ tai nạn giao thông đường bộ luôn chiếm tỷ lệ chủ yếu gây nên nhiều thiệt hại rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được coi là một trong những nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, là yếu tố quyết định cho sự phát triển của đất nước. Do đó, công tác phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt là các tội phạm vi phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ. Trước tình hình tai nạn giao thông đường bộ hiện nay, nhiều giải pháp và biện pháp xử lý nhằm hạn chế tai nạn và hậu quả do tai nạn gây ra đã được đề ra. Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp hành chính, kinh tế, giáo dục, thuyết phục thì biện pháp hình sự được coi là một trong những biện pháp quan trọng, cần thiết bằng việc hoàn thiện pháp luật hình sự và tổ chức thực hiện pháp luật một cách hiệu quả. Bởi vậy, mặc dù Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có một số thay đổi, bổ sung quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự năm 2009 nhưng các quy định này vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập khi áp dụng trong thực tiễn, dẫn đến việc xử lý hình sự đối với các hành vi phạm tội không công bằng và chính xác nên cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Thái Nguyên là tỉnh có nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch đi qua và nhiều tuyến đường nhánh giao thông khác nhau, với mật độ xe lưu thông lớn, mặc dù đã có đổi mới với nhiều dự án đầu tư cho việc phát triển giao thông vận tải ngày càng tăng. Trong những năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đang chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị, quy hoạch, giải tỏa các điểm nóng 1
  7. về giao thông. Mật độ người và phương tiện tham gia giao thông ngày càng đông, việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho người tham gia giao thông được chính quyền địa phương hết sức quan tâm, khắc phục, hạn chế tai nạn giao thông. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế, sự gia tăng về phương tiện tham gia giao thông, tình hình vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong những năm gần đây vẫn diễn ra rất phức tạp, gây nên những thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe và tài sản của nhân dân. Mặt khác, thực tiễn thời gian qua cho thấy việc áp dụng pháp luật trong xử lý hình sự đối với các hành vi phạm tội khi tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyễn vẫn còn có những thiếu sót. Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” để làm luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ luôn là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong những năm gần đây, ở nước ta, vấn đề tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ đã được tiếp cận, nghiên cứu và khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau như: Tác giả Ngô Huy Ngọc với luận văn thạc sỹ luật học năm 2018 có chủ đề «Những biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự an toàn giao thông tại thành phố Hà Nội». Tác giả Nguyễn Văn Mận với luận văn thạc sỹ luật học năm 2018 có chủ đề «Đặc điểm hình sự tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ». Tác giả Mai Văn Đức với luận văn thạc sỹ luật học năm 2018 có chủ đề, «Nghiên cứu tình hình an toàn giao thông đường bộ và biện pháp khắc phục». 2
  8. Tác giả Nguyễn Thị Hà với luận văn thạc sỹ luật học năm 2017 có chủ đề «Thực trạng công tác điều tra, xử lý tai nạn giao thông của lực lượng cảnh sát giao thông, giải pháp cải tiến lề lối làm việc và nâng cao hiệu quả». Tác giả Nguyễn Huy Bằng với luận văn thạc sỹ luật học năm 2018 có chủ đề «Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay». Tác giả Vũ Anh Dũng với luận văn thạc sỹ luật học năm 2018 có chủ đề « Quản lý Nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ. Thực trạng và giải pháp tỉnh Hải Dương », luận văn cao cấp lý luận chính trị của, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hà Nội…và nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả khác. Tác giả Nguyễn Thị Thủy với công trình nghiên cứu được đăng tải trên Tạp chí Tòa án năm 2018 có chủ đề «Tăng cường xử lý tội phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Hưng Yên hiện nay». Tác giả Hoàng Hồng Hà với công trình nghiên cứu được đăng tải trên Tạp chí Kiểm sát năm 2019 có chủ đề «Tình Hình tội phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Hải Phòng». Nhìn chung, các nghiên cứu trên mới chỉ tập trung vào lĩnh vực tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ một cách khái quát, cũng như lý luận về hoạt động điều tra xử lý tai nạn giao thông nói chung, mà chưa có đề tài nào nghiên cứu gắn với một tỉnh có đặc điểm như tỉnh Thái Nguyên và nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1 Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 trên hai phương diện tội phạm và hình phạt đối với hành vi phạm tội tham gia giao thông đường bộ đối chiếu với thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh 3
  9. Thái Nguyên để phát hiện những hạn chế, bất cập để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện quy định của pháp luật. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích của đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra bao gồm: - Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong đó làm rõ các khái niệm liên quan như: “quy định tham gia giao thông đường bộ”, “vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ”, “tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. - Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến hình phạt áp dụng đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ bao gồm loại hình phạt, mức hình phạt, khung hình phạt… - Thu thập các số liệu và phân tích, đánh giá thực trạng việc xử lý tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên trên các phương diện số nguồn tin thụ lý, số khởi tố, số kết thúc điều tra đề nghị truy tố, số vụ án được đưa ra xét xử, số vụ án đình chỉ, tạm đình chỉ, số bị cáo bị áp dụng loại hình phạt, mức hình phạt… - Phát hiện bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật liên quan đến tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và những nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên. - Đề xuất, kiến nghị các biện pháp hoàn thiện pháp luật và những biện pháp tổ chức thực hiện quy định của pháp luật trong việc xử lý tội phạm vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ, trong đó có những giải pháp gắn với thực tiễn tỉnh Thái Nguyên hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4.1 Đối tượng nghiên cứu: 4
  10. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật liên quan đến tội phạm, hình phạt gắn với tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ và thực tiễn xử lý tội phạm này của các cơ quan tố tụng tỉnh Thái Nguyên. 4.2 Phạm vi nghiên cứu: Về không gian nghiên cứu các tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi địa bàn tỉnh Thái Nguyên được các cơ quan tố tụng thụ lý, giải quyết (Không nghiên cứu đối với các vụ án do các cơ quan tố tụng trong quân đội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thụ lý giải quyết). Về thời gian nghiên cứu các số liệu thu thập để nghiên cứu, xem xét, đánh giá trong vòng 03 năm từ năm 2018 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 5.1 Cơ sở lý luận. Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước gắn với đường lối giải quyết các vụ án hình sự. 5.2 Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện được các mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Luận văn phân tích và làm sâu sắc, phong phú thêm những vấn đề lý luận về tội phạm và hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. 5
  11. Luận văn mô tả và phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên. Luận văn sẽ đưa ra các đề xuất, phương hướng và giải pháp giúp các cơ quan chức năng tham khảo vận dụng nhằm từng bước hoàn thiện, nâng cao chất lượng trong quá trình giải quyết các vụ án đối với tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên. Luận văn cũng là một tài liệu tham khảo hữu ích cho cơ sở đào tạo và những nhà hoạt động thực tiễn có liên quan đến việc giải quyết các vụ án hình sự. 7. Kết cấu của luận văn. Chương 1: Các vấn đề lý luận và khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Chương 2: Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại tỉnh Thái Nguyên và giải pháp bảo đảm đúng pháp luật. 6
  12. Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. 1.1.1. Khái niệm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Giao thông là hoạt động đi lại của con người được thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện đi lại, hay có thể hiểu theo nghĩa chung nhất giao thông là sự dịch chuyển của người, hàng hoá và phương tiện trong không gian và theo thời gian, trong quá trình di chuyển này phương tiện hàng hoá và hành khách có thể di chuyển hoặc đứng im tương đối. Để chỉ các công trình giao thông phục vụ phương tiện trong quá trình di chuyển người ta dùng thuật ngữ: “đường giao thông”, tập hợp các đường giao thông tạo thành mạng lưới giao thông. Và nó bao gồm các loại hình: giao thông đường bộ, giao thông đường sắt, giao thông đường thuỷ, giao thông đường hàng không. [4] Trong đó, giao thông đường bộ là một phần quan trọng trong hệ thống giao thông vận tải. Một cách khái quát thì giao thông đường bộ là sự tham gia của người và các phương tiện giao thông trên đường bộ. Trong đô thị, giao thông đường bộ bao gồm các đường xe cơ giới như ô tô, xe máy; các loại đường dành cho xe thô sơ như xe đạp, xe xích lô, xe xúc vật kép và người đi bộ. Đường giao thông đường bộ gồm đường cao tốc, đường quốc lộ, đường nhập thành, đường nội bộ trong các khu ở… và công trình giao thông đường bộ gồm các bến xe, bãi đỗ xe, quảng trường, các trạm kỹ thuật giao thông… Trật tự an toàn giao thông là một lĩnh vực quan trọng của trật tự an toàn xã hội, có mối quan hệ nhân quả và không tách rời trật tự an toàn xã hội. Về nhận thức, thói quen và tâm lý của người tham gia giao thông cũng chính là của con 7
  13. người tham gia các hoạt động kinh tế xã hội ở mỗi thời kỳ cụ thể. Kỷ cương trong quản lý kinh tế xã hội cũng có ý nghĩa quyết định trật tự kỷ cương trong giao thông, vì “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Trật tự an toàn giao thông lĩnh vực có tính xã hội sâu rộng, bảo đảm cuộc sống bình an và hạnh phúc cho mọi người, cho mọi nhà. Thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra về người và của cải là rất lớn và hiện nay đang gia tăng. Những người bị thương vong phần lớn là những người lao động chính, nên để lại nhiều gánh nặng lâu dài cho nhiều gia đình và xã hội. Vì vậy, bảo đảm trật tự an toàn giao thông là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội bền vững. [5] Các loại hình phương tiện tham gia giao thông đường bộ rất đa dạng và phức tạp. Lượng vận chuyển nhỏ hơn so với các loại hình giao thông đường thủy, đường sắt... Hiện nay, giao thông vận tải đường bộ chiếm tỷ trọng lưu thông hàng hoá, phương tiện, đối tượng tham gia giao thông lớn nhất, chi phí cho giao thông đường bộ cũng là chi phí lớn nhất, lâu dài và ổn định nhất, nhu cầu phát triển giao thông đường bộ cũng to lớn nhất, giao thông đường bộ có ở trên mọi địa hình, khu vực...và liên quan tới mọi tầng lớp nhân dân, chủ thể tham gia giao thông đông đảo nhất. Hoạt động giao thông đường bộ luôn chứa đựng trong mình những nguy hiểm lớn như ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường. Theo Luật giao thông đường bộ “người tham gia giao thông” gồm: người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ, người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ. Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, được hiểu là hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định pháp luật giao thông đường bộ trong việc điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, trong đó phương tiện giao thông đường bộ bao gồm: 8
  14. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ: gồm xe ôtô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật. Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ: gồm các loại xe không di chuyền bằng sức động cơ như: xe đạp, xe xích lô, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại gồm tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù đến 3 năm; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy từ trên 3 năm đến 7 năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 7 năm đến 15 năm tù và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy từ trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là một trong số những tội phạm được quy trong Bộ luật hình sự quy định về hành vi nguy hiểm 9
  15. cho xã hội của người đi bộ, người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ khi di chuyển trên đường bộ đã không tuân thủ các quy tắc tham gia giao thông, các quy tắc điều khiển giao thông mà pháp luật quy định nên đã gây ra những thiệt hại đáng về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác và vì vậy họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và có thể bị áp dụng một trong số những hình phạt chính, đồng thời có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp mà Bộ luật hình sự quy định”[4] 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Khách thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ: Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là: quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ, đó là những quy định nhằm đảm bảo an toàn giao thông vận tải, đảm bảo cho hoạt động vận tải đường bộ được thông suốt, được tiến hành bình thường, và bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe của công dân, bải vệ tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và tài sản của công dân. Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác. Chỉ những hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có tính chất nguy hiểm cao, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác và hành vi có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời mới bị coi là phạm tội hình sự. Đối với những hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mà không có tính chất nguy hiểm, không gây thiệt hại cho người khác thì bị xử phạt vi phạm hành chính. 10
  16. Mặt khách quan của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ: Hành vi khách quan: Người phạm tội có hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ, cụ thể: đi quá tốc độ, chở quá trọng tải quy định, tránh, vượt trái phép; đi không đúng tuyến đường, phần đường; vi phạm các quy định khác về an toàn giao thông đường bộ như chuyên chở người, hàng không đúng số lượng, trọng tải quy định... Để xác định hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ, phải căn cứ vào các quy định tại Luật giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền. Phương tiện giao thông đường bộ bao gồm các loại xe có động cơ (xe hơi, máy kéo, tàu điện bánh hơi, xe gắn máy và các loại xe chuyên dùng khác) và các loại xe thô xơ (xe thồ, xe đạp, xe được điều khiển bằng xúc vật: xe bò, xe ngựa...). Người điều khiển phương tiện vận tải giao thông đường bộ là người trực tiếp thực hiện chức năng vận hành phương tiện để phượng tiện chuyển động và tham gia giao thông. [8] Hậu quả: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là tội phạm có cấu thành vật chất. Vì vậy, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc đối với tội này. Nếu hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại về tính mạng (làm chết người) hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng về sức khoẻ (gây thương tích), tài sản của người khác thì không cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 126 Bộ luật Hình sự. Trên thực tế, hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn giao thông dẫn đến chết người, thiệt hại về tài sản rất nhiều. Hậu quả của tai nạn giao thông là một trong những căn cứ để xác định trách nhiệm đối với người gây tai nạn. Mối quan hệ nhân quả: Hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ là nguyên nhân dẫn đến hậu quả (tai nạn giao thông) gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Nếu thiệt hại không phải do 11
  17. hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì không cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. [5] Các dấu hiệu khách quan khác: Phương tiện giao thông đường bộ; địa điểm (nơi vi phạm là công trình giao thông đường bộ)… Việc xác định các dấu hiệu khách quan này là rất quan trọng, là dấu hiệu để phân biệt giữa tội phạm này với các tội khác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ thì “Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ”. Phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại khoản 17 Điều 3 Luật giao thông đường bộ gồm “phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ”. Chủ thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ: Theo quy định tại Điều 202 BLHS năm 1999 thì chủ thể của tội phạm này có thể là bất cứ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Giao thông đường bộ 2008 thì phương tiện giao thông đường bộ chỉ bao gồm phương tiện giao thông cơ giới đương bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (không có xe máy chuyên dụng). Quy định như thế dẫn đến không xử lý đối với người điều khiển xe máy chuyên dụng và người đi bộ, người điều khiển, dẫn dắt gia súc vi phạm các quy định trật tự, an toàn giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Để khắc phục bất cập này, Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thay quy định “điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” bằng quy định “tham gia giao thông đường bộ”ở tên gọi và nội dung của điều luật để xử lý cả đối với người điều khiển xe máy chuyên dụng và người đi bộ, người điều khiển, dẫn dắt gia súc vi phạm các quy định về trật tự , an toàn giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Mặt chủ quan của tội phạm: 12
  18. Mặt chủ quan của tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý (do tự tin hoặc do cẩu thả). Khi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ, người phạm tội không thấy trước hậu quả xảy ra, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy rằng hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không sảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Nếu người tham gia giao thông đường bộ cố ý sử dụng phương tiện giao thông đường bộ để gây chết người hoặc gây thương tích cho người khác hay hủy hoại tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm về tội tương ứng (giết người, cố ý gây thương tích, hủy hoại tài sản…). 1.2. Khái quát lịch sử quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiên giao thông đường bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam. 1.2.1. Quy định về tội vi phạm quy định về giao thông đường bộ trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985. 1.2.1.1. Quy định về tội phạm. Trước khi ban hành Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985, việc xử lý hành vi phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được thực hiện theo quy định tại Bản sơ kết kinh nghiệm về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn (Công văn số 949 -NCPL ngày 25/11/1968 của Toà án nhân dân tối cao). [1] 1.2.1.2. Quy định về hình phạt Theo quy định tại Bản sơ kết kinh nghiệm của Toà án nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn, thì: Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn xâm phạm nền an toàn giao thông, một bộ phận của nền trật tự, trị an vốn thuộc loại tội khinh xuất. Đối với loại tội này, cần xác định chắc chắn là có hành vi phạm luật lệ giao thông, có hậu quả tác hại cụ thể do hành vi phạm tội gây nên. Đường lối xử lý đối với người phạm tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn được quy định như sau: 13
  19. “trừng trị thích đáng đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị đúng mức đối với những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận trọng để xem xét đầy đủ mọi tình tiết một cách toàn diện”. Đến năm 1976, Chính phủ ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân. Tại Điều 9 của Sắc luật này có quy định “tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân”. [1] 1.2.2. Quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo Bộ luật hình sự 1985. 1.2.2.1. Quy định về tội phạm. Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải, nên phạm vi xác định hành vi vi phạm rộng hơn, kể cả người không điều khiển phương tiện giao thông cũng vi phạm, nay tội phạm này chỉ quy định hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nên phạm vi xác định hành vi vi phạm có hẹp hơn. Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ các quy định an toàn giao thông đường bộ. Ví dụ: Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải (khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ). Như vậy, việc xác định hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không chỉ căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự mà phải căn cứ vào các quy định tại Luật giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền. [1] 14
  20. 1.2.2.2. Quy định về hình phạt. Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải được quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự 1985, theo đó: - Người nào điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm: Đi quá tốc độ, trở quá trọng tải quy định, tránh, vượt trái phép; Không đi đúng tuyến đường, phần đường, luồng lạch, đường bay và độ cao quy định; Vi phạm các quy định khác về an toàn giao thông. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: Điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà không có bằng lái; trong khi say rượu hoặc say do dùng chất kích thích khác; Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn. - Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm. - Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. [1] 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2