intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

42
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự "Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong xử lý Tội phạm vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai; Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đối với việc xử lý Tội phạm vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- NGUYỄN PHƯỚC VINH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- NGUYỄN PHƯỚC VINH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn Nguyễn Phước Vinh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM ............................................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ...................................................................................................................... 9 1.2. Quy định của pháp luật hình sự về tội phạm và hình phạt đối với hành vi vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ................................................. 18 1.3. Phân biệt Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm với tội phạm có liên quan ......................................................................................................... 26 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG XỬ LÝ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI ........................... 30 2.1. Khái quát các yếu tố tự nhiên, xã hội của tỉnh Đồng Nai có ảnh hưởng đến việc xử lý Tội phạm vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ......... 30 2.2. Thực tiễn xử lý Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ....................................................................................... 39 2.3. Khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh và áp dụng hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai ............................................................................................................................. 53 2.4. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc ........................................................ 59 Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỐI VỚI VIỆC XỬ LÝ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM .............................................................................................. 63 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ................................................................................... 63 3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật .......................................... 66 3.3. Giải pháp khác ............................................................................................................. 69 KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 73
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra ĐDSH: Đa dạng sinh học ĐTD: Định tội danh ĐVHD: Động vật hoang dã TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Hệ sinh thái trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ......................................... 31 Bảng 2.2. Danh mục các loài thú quý hiếm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ........ 32 Bảng 2.3. Danh mục các loài chim quý hiếm trên địa bàn Đồng Nai............. 34 Bảng 2.4: Số vụ và số người phạm tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 – 2020 ..... 38 Bảng 2.5. Một số hành vi vi phạm phổ biến trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ....... 46
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao, được xếp hạng thứ 16 trên thế giới và là một trong mười trung tâm đa dạng sinh học phong phú nhất trên thế giới về nhiều kiểu hệ sinh thái với hơn 11.400 loài thực vật bậc cao, 1.030 loài rêu, 310 loài thú, 840 loài chim, 296 loài bò sát, 162 loài ếch, nhái, trên 700 loài cá nước ngọt và khoảng 2.000 loài cá biển đã được ghi nhận [3]. Với tầm quan trọng của việc bảo vệ các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm trong công tác bảo tồn tính đa dang sinh học; từ năm 1994 sau khi trở thành thành viên thứ 121/178 của Công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để nội luật hóa các quy định của Công ước như: Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); Luật Bảo vệ và Phát triển rừng số 29/2004/QH11 ngày 03/12/2004; Luật Đa dạng sinh học số 20/2008/QH12 ngày 13/11/2008; Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14 ngày 15/11/2017; Luật Thủy sản số 18/2017/QH14 ngày 21/11/2017. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; Nghị định số 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019: Sửa đổi Điều 7 Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nước ta đã trở thành trung tâm quan trọng về buôn bán và sử dụng sản phẩm từ động vật hoang dã ở Đông - Nam Á và là địa bàn trung chuyển lớn trong khu vực về buôn bán các sản phẩm từ động vật hoang dã. Ước tính hàng năm ở Việt Nam có tới 3.700 đến 4.500 tấn động vật hoang dã (không bao gồm các loài thủy sinh) bị săn bắt, giết, nuôi, nhốt trái phép để sử dụng làm thức ăn, dược liệu và sinh vật cảnh [3]. Vấn nạn trên đã dẫn đến tính đa dạng sinh học ở Việt Nam đang bị suy thoái với tốc độ rất nhanh, các khu vực có 1
  8. tính đa dạng sinh học cao đang dần dần bị thu hẹp về diện tích, chất lượng dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại về quần thể tự nhiên của các loài; trong đó nhiều loài động vật nguy cấp, quý, hiếm đã và đang bị suy giảm mạnh và có nguy cơ tuyệt chủng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự mất cân bằng sinh thái và tính ổn định đa dạng sinh học ở nước ta. Trước tình hình trên, Việt Nam đang trở thành một nhân tố quyết định trong việc đấu tranh, ngăn chặn và triệt phá các đường dây tội phạm về xâm hại động vật nguy cấp, quý, hiếm. Để xử lý tội phạm, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định tội "Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm" (Điều 244) được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở của tội "Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ" theo Điều 190 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 22/01/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định 06/2019/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; ngày 16/7/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2019/NĐ-CP về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Đồng thời, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này. Cụ thể: Ngày 17/9/2016, một tuần trước thềm Hội nghị các nước thành viên Công ước quốc tế về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) lần thứ 17, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ban hành Chỉ thị số 28/CT-TTg về một số giải pháp cấp bách phòng ngừa, đấu tranh với hành vi xâm hại các loài động vật hoang dã trái pháp luật. Ngày 23/7/2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ban hành Chỉ thị số 29/CT-TTg về một số giải pháp cấp bách quản lý động vật hoang dã. Đồng Nai là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích tự nhiên là 5.907,2 km²; diện tích rừng là 171.878,8 ha (rừng tự nhiên 123.406,1 ha; rừng trồng đã thành rừng 48.472,7 ha) [47, tr 44 – 50], có nhiều loại động vật hoang dã thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Những năm gần đây, tình hình vi phạm, tội phạm về bảo vệ động vật 2
  9. nguy cấp, quý, hiếm đang diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Theo Báo cáo Tổng kết tình hình vi phạm và thực thi pháp luật về Động vật hoang dã tại Việt Nam (giai đoạn 2013-2017) do Tổ chức Wildlife Conservation Society, chương trình Việt Nam (WCS Việt Nam) phối hợp với Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện [12], thì Đồng Nai là tỉnh có tỷ lệ ngăn chặn, bắt giữ số vụ việc vi phạm về động vật hoang dã đứng đầu trên toàn quốc với 126 vụ việc, đứng trên Hà Nội, Lạng Sơn, Quảng Trị, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Tây Ninh, An Giang, Đồng Tháp... Hiện nay, tuy hệ thống pháp luật xử lý Tội "Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm" như: Bộ luật hình sự, nghị định, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thông tư liên tịch... đã tạo nên một hành lang pháp lý để bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm và xử lý hình sự đối với người phạm tội, nhưng thực tiễn áp dụng vẫn còn gặp nhiều bất cập, vướng mắc trên cả phương diện quy định pháp luật và tổ chức thực hiện quy định pháp luật. Vì vậy, việc nghiên cứu thực tiễn, làm rõ thực trạng để qua đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong việc định tội danh, quyết định hình phạt, bảo đảm tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội phạm này trong tình hình hiện nay tại tỉnh Đồng Nai nói riêng và trên cả nước nói chung là rất cần thiết. Do vậy, học viên chọn đề tài "Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" để làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đến thời điểm hiện tại, các công trình khoa học, các đề tài nghiên cứu về tội "Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm" còn ít, nội dung còn rất hạn chế, các Luận văn Thạc sĩ đã nghiên cứu gồm có: - Dưới góc độ Luật hình sự có: Luận văn Thạc sĩ Luật học "Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Trần Thị Hải - Học viện Khoa học xã hội năm 2018; Luận văn Thạc sĩ Luật học "Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh" của tác giả Bùi Đức Tuấn - Học viện Khoa học xã hội năm 2018; 3
  10. Luận văn Thạc sĩ Luật học "Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An" của tác giả Trần Hồng Tình - Học viện Khoa học xã hội năm 2018. - Dưới góc độ Luật học có những đề tài có liên quan gồm: Luận văn Thạc sĩ Luật học "Pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã ở Việt Nam" của tác giả Bùi Thị Hà, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015; Luận văn Thạc sĩ Luật học "Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếm tại Việt Nam" của tác giả Doãn Hồng Nhung, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016; Luận văn Thạc sĩ Luật học "Pháp luật Việt Nam về bảo tồn các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm qua thực tiễn thi hành tại tỉnh Thừa Thiên Huế" của tác giả Phan Vĩnh Tuấn Anh - Đại học Luật Huế năm 2018. Các báo cáo, bài viết liên quan đến tội phạm này, như: "Báo cáo tóm tắt kết quả khảo sát việc giải quyết các vụ án về động vật hoang dã" của TS. Nguyễn Đức Hạnh - Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, trên kỷ yếu Hội thảo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao năm 2018; Bài viết: “Quản lý và xử lý vật chứng là động vật hoang dã trong các vụ án hình sự” của TS. Nguyễn Đức Hạnh, trên Tạp chí Tòa án số 23/2019; Bài viết: "Bàn về tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã" của PGS.TS. Phạm Minh Tuyên - Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh, trên Tạp chí Tòa án, tháng 9/2020; Bài viết: "Khắc phục những khó khăn, vướng mắc để đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại động vật hoang dã có hiệu quả" của TS. Trương Công Lý, trên Tạp chí Tòa án, tháng 8/2020; Bài viết: "Bảo vệ động, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm - Những vấn đề đặt ra" của tác giả Duy Phong, trên Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương, tháng 7/2020; Bài viết: "Điểm mới của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm theo quy định của Bộ luật hình sự 2015..." của tác giả Nguyễn Minh Đức, trên Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân số 102, tháng 3/2018; Bài viết: "Bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm nhìn từ góc độ pháp luật hình sự" của Th.S Lê Văn Sua, trên Tạp chí Môi trường & Xã hội, tháng 3/2020. 4
  11. - Sổ tay hướng dẫn Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết các vụ án liên quan đến động vật hoang dã - Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, NXB Hồng Đức phát hành năm 2020. - Impacts of Wildlife trade and sustainable development in Vietnam (Tác động của việc buôn bán động vật hoang dã và sự phát triển bền vững của Việt Nam) và Legal framework for wildlife farming benefits species conservation and preventing wildlife crimes in Vietnam (Giá trị của khung pháp luật trong việc gây nuôi động vật hoang dã đối với việc bảo tồn loài và phòng ngừa tội phạm về động vật hoang dã ở Việt Nam) của TS. Nguyễn Đức Hạnh và PGS.TS. Đinh Thị Mai đăng trên Tạp chí EDP Sciences - E3S Web of Conferences, số 157 (2020) và số 175 (2020). Các công trình nghiên cứu, báo cáo, bài viết nói trên đã mang lại nhiều giá trị về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã có hiệu lực đến nay gần 03 năm, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội: “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc, bất cập. Trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng và các vụ án thực tế cụ thể, tác giả nghiên cứu chuyên sâu những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hình sự hiện hành so với thực tiễn để từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận, các căn cứ pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2016 đến năm 2020, xác định những tồn tại, hạn chế, bất cập trong quy định của BLHS để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác xử lý tội phạm và bảo vệ các loài động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và trên cả nước. 5
  12. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng quy định của pháp luật trong xử lý tội phạm liên quan đến động vật nguy cấp, quý, hiếm theo pháp luật hình sự Việt Nam. - Đánh giá thực trạng áp dụng quy định pháp luật trong việc xử lý Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. - Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật và giải pháp tổ chức thực hiện quy định pháp luật trong xử lý tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” tại Điều 244 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm trong thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”; đồng thời nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhằm xác định những tồn tại, hạn chế, bất cập để từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đây là đề tài được tác giả nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự, trong đó xác định cụ thể: - Vấn đề nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận về tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” tại Điều 244 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để chỉ ra những tồn tại của những quy định pháp luật cũ, không còn phù hợp. Đề tài giới hạn nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. 6
  13. - Về không gian nghiên cứu: Các số liệu khảo sát nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở hồ sơ các vụ án về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã được giải quyết. - Về thời gian nghiên cứu: Các số liệu khảo sát, nghiên cứu trong phạm vi 05 năm từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. - Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn lý luận về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”. Nhận định, đánh giá lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam quy định tội phạm “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” từ năm 1985 đến nay. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo trong điều tra, truy tố, xét xử đối với tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ góp phần bổ sung những luận cứ khoa học để hoàn thiện pháp luật hình sự vể tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”; góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn hiện nay và thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. 7
  14. Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong xử lý Tội phạm vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đối với việc xử lý Tội phạm vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. 8
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm 1.1.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm * Tội phạm và các thuộc tính của tội phạm - Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật hình sự phải bị xử lý hình sự. - Trước khi có Bộ luật hình sự năm 2015, pháp luật hình sự Việt Nam không xác định TNHS của pháp nhân thương mại vì cho rằng pháp nhân thương mại không có lỗi, chủ thể của tội phạm chỉ có một loại duy nhất đó là cá nhân. Việc Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung TNHS của pháp nhân thương mại đã đánh dấu một bước phát triển mang tính đột phá về tư duy và chính sách hình sự của Việt Nam đáp ứng yêu cầu thực tiễn đòi hỏi phải xử lý các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế vi phạm pháp luật trong lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế và bảo vệ môi trường. Mặc dù có rất nhiều loại pháp nhân khác nhau nhưng Bộ luật hình sự chỉ truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại. - Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. - Để xác định có tội phạm hay không thì phải căn cứ vào hành vi, đây là dấu hiệu đầu tiên để nhận biết tội phạm. Tuy nhiên, hành vi này phải luôn gắn với một trong hai chủ thể đó là hành vi của cá nhân và hành vi của pháp nhân thương mại. 9
  16. - Hành vi của cá nhân là những biểu hiện ra bên ngoài của một cá nhân đó dưới dạng hành động hoặc không hành động. - Hành vi của pháp nhân thương mại dựa trên hành vi của người đại diện pháp nhân thương mại, hay nói một cách khác đó là những biểu hiện ra bên ngoài của một hoặc nhiều các nhân đại diện cho pháp nhân thương mại. - Các hành vi của pháp nhân thương mại sẽ chỉ bị coi là tội phạm khi có đủ các điều kiện: + Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại. + Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại + Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. + Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định. - Những gì mới chỉ trong suy nghĩ, tưởng tượng bên trong của một cá nhân mà không được bộc lộ ra bên ngoài bằng một hành vi thì chưa thể có tội phạm do cá nhân thực hiện hay pháp nhân thương mại thực hiện. - Nếu như hành vi là yếu tố bên ngoài giúp nhận biết tội phạm thì khi tội phạm xảy ra, hành vi không bao giờ tồn tại độc lập mà luôn gắn bó mật thiết với thái độ lỗi bên trong của chủ thể thực hiện hành vi đó. + Khi tội phạm do cá nhân thực hiện thì hành vi của cá nhân luôn gắn bó mật thiết với thái độ lỗi bên trong của cá nhân đó. + Khi tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện thì thái độ lỗi của pháp nhân thương mại chính là thái độ lỗi bên trong của người đứng đầu hoặc người đại diện của pháp nhân thương mại đó và luôn gắn bó, biển hiện ra bên ngoài cùng với hành vi của người này. - Khi đã là tội phạm thì bao giờ cũng có bốn thuộc tính đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó: + Tính nguy hiểm cho xã hội: Là thuộc tính cho thấy hành vi do cá nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện không phù hợp với chuẩn mực hoặc đạo đức 10
  17. xã hội. Chính sự không phù hợp này đã đe dọa hoặc gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ như độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự nguy hiểm cho xã hội ở đây phải là nguy hiểm đáng kể còn hành vi mà tính nguy hiểm không đáng kể thì chỉ coi là vi phạm. Để xác định thế nào được coi là nguy hiểm đáng kể, thì có trường hợp ngay chính điều luật đã được mô tả rõ, có tiêu chí cụ thể, có định lượng; nhưng cũng có những trường hợp chỉ mang tính định tính, phải căn cứ vào tổng thể các tình tiết của hành vi để nhận định. Thuộc tính này là một trong số những cơ sở để phân biệt giữa hành vi phạm tội và hành vi vi phạm pháp luật mà chưa đến mức bị coi là tội phạm (phân biệt giữa tội phạm và vi phạm) và có ý nghĩa giúp phân hóa trách nhiệm pháp lý khi áp dụng. + Tính có lỗi: Là một thuộc tính bắt buộc của tội phạm, lỗi đó chính là thể hiện sự sai trái khi thực hiện hành vi được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý, là yếu tố bắt buộc để xác định tội phạm của cá nhân hoặc pháp nhân thương mại. Lỗi thuộc về yếu tố chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội hoặc thuộc về yếu tố chủ quan của người đại diện cho pháp nhân thương mại phạm tội. Do vậy, khi xác định nguyên tắc lỗi để truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ là cơ sở để giáo dục cải tạo đối với chính những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm; người đại diện, người đứng đầu pháp nhân thương mại hoặc những người khác. + Tính trái pháp luật hình sự: Là việc xử lý tội phạm luôn bắt buộc phải có một điều luật mô tả hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể bị coi là tội phạm. Khi một hành vi bị coi là tội phạm thì việc áp dụng chế tài để xử phạt đối với hành vi đó chỉ có thể là các hình phạt được mô tả trong chính điều luật cụ thể của BLHS. Thuộc tính này đòi hỏi các Cơ quan tiến hành tố tụng không được phép áp dụng nguyên tắc “pháp luật tương tự” để xác định một người hay pháp nhân thương mại là có tội hay không có tội mà phải được xác định bằng một điều luật cụ thể được quy định trong 11
  18. BLHS. Tính được quy định trong BLHS còn thể hiện một hành vi được thực hiện bị coi là tội phạm trước khi BLHS được ban hành và có hiệu lực thi hành thì cá nhân, pháp nhân thương mại nếu có thực hiện hành vi đó thì cũng không phải chịu TNHS, các chủ thể này chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ phạm vào một điều của bộ luật hình sự do họ thực hiện hành vi bị coi là tội phạm kể từ khi bộ luật đó được ban hành và có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác không áp dụng hồi tố đối với hành vi bị coi là tội phạm. + Tính phải chịu trách nhiệm hình sự: Là thuộc tính thể hiện một hậu quả pháp lý bất lợi mà người thực hiện hành vi phạm tội bị coi là tội phạm phải gánh chịu từ hành vi mà họ đã thực hiện. Nói cách khác, bởi tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên nó phải luôn chịu sự đe dọa bị áp dụng một trong số các loại hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự. Mặc dù không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm nhưng đây là hệ quả tất yếu kéo theo khi chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và không phải chịu hình phạt nếu không thực hiện hành vi bị coi là phạm tội. Tính phải chịu tránh nhiệm hình sự còn thể hiện một hành vi không phải chịu trách nhiệm hình sự nữa nếu đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Có những trường hợp nhất định khi có trách nhiệm hình sự thì cá nhân hoặc pháp nhân thương mại luôn phải bị đe dọa, bị áp dụng một hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế có thể họ không bị áp dụng bởi họ được miễn trách nhiệm này. Trong Bộ luật hình sự, các điều luật cụ thể luôn có những hình phạt cụ thể đi kèm, đây cũng là một trong những cơ sở để phân hóa tách nhiệm hình sự. Trong bốn loại trách nhiệm pháp lý (trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật Nhà nước và trách nhiệm dân sự), thì trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất. Nếu hiểu theo một nghĩa rộng về hậu quả pháp lý bất lợi mà cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội phải gánh chịu do thực hiện hành vi phạm tội thì đó là nghĩa vụ phải gánh chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự (các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế theo Bộ luật tố tụng hình sự), chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp, 12
  19. các biện pháp giám sát, giáo dục) và mang án tích. Theo cách hiểu này, trách nhiệm hình sự phát sinh từ thời điểm cá nhân hoặc pháp nhân thương mại phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Từ thời điểm này; cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội có nghĩa vụ phải gánh chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và mang án tích. Trách nhiệm hình sự chấm dứt khi cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội đã chấp hành xong bản án và được xóa án tích; được miễn trách nhiệm hình sự (trường hợp không bị áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục); hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngược lại hiểu theo một nghĩa hẹp thì trách nhiệm hình sự được hiểu là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, do đó từ khi cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội chính thức bị kết tội bởi bản án có hiệu lực của Toà án thì những hậu quả đó mới gọi là trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình sự thì hình phạt đóng một ý nghĩa quan trọng, bởi vì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó, bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Những hình phạt chính có thể áp dụng đối với cá nhân như: Phạt tiền, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình; hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với cá nhân như: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính), trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính). Hình phạt chính có thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại như: Phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Hình phạt bổ sung có thể được áp dụng đối với pháp nhân thương mại là: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn, phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính). 13
  20. * Động vật hoang dã; động vật nguy cấp, quý, hiếm và quy định pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã; động vật nguy cấp, quý, hiếm - Quần thể đa dạng sinh học tự nhiên trên thế giới có thể chia thành hai loại chính là động vật và thực vật. Trong đó, các loài động vật trong tự nhiên không chịu sự tác động của con người hoặc sự tác động là không đáng kể thì trong tài liệu này gọi là động vật hoang dã. Tác giả đồng tình với cách hiểu được đề cập tại khoản 13, Điều 3, Luật Đa dạng sinh học số 20/2008/QH12 ngày 13/11/2008 về loài hoang dã đó là “loài động vật, thực vật, vi sinh vật và nấm sinh sống và phát triển theo quy luật” một cách tự nhiên, nó bao gồm các loài động vật thủy sinh và động vật cạn sinh. Căn cứ vào nguy cơ đe dọa tuyệt chủng và mất bản tính tự nhiên của loài, có thể chia ĐVHD thành “ĐVHD thông thường không chịu sự kiểm soát khi buôn bán”, “ĐVHD phải chịu sự kiểm soát khi buôn bán”, “ĐVHD không mang tính chất thương mại” [30, tr 24]. - Trong số các loài ĐVHD thì có loại đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng rất cao trong tự nhiên nên việc bảo vệ là rất cần thiết và cấp bách. Sự đe dọa tuyệt chủng của các loài này là lớn nhất, cần được bảo vệ nghiêm ngặt nhất, các loài ĐVHD này quốc tế và Việt Nam xác định không có tính chất thương mại theo Công ước quốc tế và được gọi bằng tên gọi khác là “ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ”. - Quy định về bảo vệ động vật hoang dã là những quy định của pháp luật nhằm chống lại các hành vi xâm hại, duy trì sự phát triển bình thường các loài ĐVHD trong môi trường sống tự nhiên của chúng. Mục tiêu của bảo vệ ĐVHD là ngăn ngừa sự tuyệt chủng của loài, góp phần đảm bảo thế giới tự nhiên sẽ được bảo vệ để che chở cho các thế hệ tương lai và giúp con người nhận ra tầm quan trọng trong cân bằng sinh thái giữa ĐVHD với môi trường tự nhiện hoang dã có ý nghĩa vô cùng quan trọng với con người và các loài khác nhau trên hành tinh này. Quy định về bảo vệ ĐVHD cũng có nghĩa là quy định chống lại các hành vi săn bắt, giết, nuôi, nhốt, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép đối với cá thể, bộ phận cơ thể, sản phẩm của các loài ĐVHD. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0