intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

27
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của các tội vô ý làm chết người theo luật hình sự Việt Nam năm 2015, như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; phân biệt các tội vô ý làm chết người với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự; đồng thời đi sâu phân tích thực tiễn xét xử các tội vô ý làm chết người người ở Bình Định, từ năm 2015 đến năm 2020.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn tỉnh Bình Định

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 838.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Phương
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 ........................................................................ Error! Bookmark not defined. 1.1. Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam .................................. 7 1.2. Khái niệm tội vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và phân biệt các tội phạm này với một số tội phạm khác theo luật hình sự Việt Nam ......................................................... 13 1.3. Các tội vô ý làm chết người theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 ........... 24 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ Ở BÌNH ĐỊNH ...... 24 2.1.Quy định các tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam.......... 17 2.2. Thực tiễn xét xử các tội vô ý làm chết người ở Bình Định .............................. 32 CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI ..................................... 59 3.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện pháp luật những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội vô ý làm chết người ...................... 59 3.2. Hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội vô ý làm chết người .......................................................................................... 60 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội vô ý làm chết người .................................. 64 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Tổng số vụ, số bị cáo phải xét xử và tổng số vụ, bị cáo về tội vô ý làm chết người phải giải quyết trên toàn tỉnh Bình Định (2015-2020) .......................... 33 Bảng 2.2: Tổng số vụ, số bị cáo đã bị Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm chết người (2015 - 2020) ............................................................................... 33 Bảng 2.3: Phân tích chế tài theo quyết định của Tòa án tỉnh Bình Định ................. 35 Bảng 2.4: Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vô ý làm chết người ..................................................................................................................... 36 Bảng 2.5: Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm chết người trong tương quan với các tội xâm phạm tính mạng của con người (các tội từ Điều 123 đến Điều 139 Bộ luật hình sự) ....................................................... 37 Bảng 2.6: Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm chết người trong tương quan với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (các tội từ Điều 260 đến Điều 329 Bộ luật hình sự) ....................................... 38 Bảng 2.7: Tổng số vụ, số bị cáo và tổng số vụ, bị cáo về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính phải giải quyết trên địa bàn tỉnh Bình Định(2015 – 2020) ................................................................................. 39 Bảng 2.8: Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ................... 40 Bảng 2.9: Phân tích chế tài theo quyết định của Tòa án tỉnh Bình Định đối với tội vô ý làm chết người .......................................................................................... 41 Bảng 2.10: Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính ............................ 42 Bảng 2.11: Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính trong tương quan với các tội xâm phạm tính mạng của con người (các tội từ Điều 123 đến Điều 127 Bộ luật hình sự) ............................................................................... 43
  6. Bảng 2.12: Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án tỉnh Bình Định xét xử về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính trong tương quan với các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (các tội từ Điều 260 đến Điều 329 Bộ luật hình sự) ................................................................ 45 Bảng 2.13: Số bị cáo do Tòa án xét xử (2015-2020) - thống kê cấp tỉnh + thành phố, huyện, thị xã – Tỉnh Bình Định) về tội giết người, tội vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và tội vi phạm quy định về an toàn lao động ................................................................................. 46 Bảng 2.14: Những loại tội phạm chính qua nghiên cứu ngẫu nhiên 175 bản án hình sự sơ thẩm của các Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã xét xử từ ngày 01/01/2020 đến ngày 31/7/2020 ............................................................................. 51
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (10/12/1948) của Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã tuyên bố: "Mọi người đều có quyền sống và quyền an toàn về cá nhân". Tuyên ngôn cho thấy, trong cuộc sống của con người thì những lợi ích về nhân thân (tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm) có ý nghĩa quan trọng nhất. Mặt khác, quyền sống là quyền trước tiên và quan trọng nhất của con người. Mọi hành vi xâm phạm quyền sống của con người đều bị coi là hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất và phải bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật. Việt Nam đã thừa nhận và cam kết thực hiện tốt nhất các quyền ấy. Các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992, 2013) đều thể hiện tinh thần đó. Điều 71 Hiến pháp hiện hành quy định: "Mọi công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…" [20, tr.144]. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền được sống của con người (dù là với lỗi cố ý hay vô ý) đều bị coi là tội phạm và bị xử lý bằng pháp luật hình sự trên những cơ sở chung. Bộ luật hình sự Việt Nam đều đã quy định những hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bình Định nói chung, giai đoạn 2015 – 2020 nói riêng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh, Bình Định đã vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. Song song với việc phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ tỉnh đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo đảm quyền của công dân, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, đặc biệt là quyền sống. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên nhân, tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói riêng diễn ra tương đối nghiêm trọng và phức tạp. Thực tiễn xét xử của các tòa án ở tỉnh Bình Định cho thấy, việc đánh giá chứng cứ trong những vụ án này rất phức tạp; bởi lẽ, văn bản pháp luật để các Tòa 1
  8. án áp dụng trong việc xét xử đối với loại tội này chưa đầy đủ, rõ ràng. Tình trạng đó đã và đang gây nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố và xét xử cũng như trong chủ động phòng và đấu tranh chống tội phạm, gây ảnh hưởng tới việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; gây tổn hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong một mức độ nhất định, do các quy định của luật hình sự Việt Nam về các tội vô ý làm chết người còn chưa cụ thể, rõ ràng, chưa bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ; đặc biệt là thiếu quy phạm định nghĩa và các quy định liên quan đến các yếu tố định tội danh và định khung hình phạt nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất trong việc nhận thức các dấu hiệu pháp lý, việc định tội danh và đường lối xử lý đối với các tội phạm này. Có trường hợp không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, sự khác nhau giữa các tội vô ý làm chết người với một số tội phạm khác có cùng tính chất lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự như: tội vi phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông (Điều 281), tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy (Điều 313) v.v... Vì vậy, để tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc hơn các vấn đề lý luận về cấu thành tội phạm này cũng như thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử đối với các tội vô ý làm chết người ở Bình Định, từ đó, đề xuất, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự; đồng thời qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này, trên phạm vi cả nước nói chung, Bình Định, nói riêng, thì việc tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn tỉnh Bình Định" làm luận văn thạc sĩ Luật học là hết sức cần thiết và cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài Đề tài đã được nghiên cứu, đề cập ở mức độ nhất định cả về lý luận và thực tiễn. Về mặt thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao đã có các văn bản hướng dẫn việc xử lý một số khía cạnh liên quan đến các tội này như Nghị quyết số 01/2006/NQ- 2
  9. HĐTP, ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1999; Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 giải đáp các vấn đề nghiệp vụ.v.v. Tuy nhiên, những hướng dẫn trong các văn bản này mới chỉ đề cập tới từng trường hợp phạm tội cụ thể, những khái niệm của hành vi phạm tội vô ý làm chết người nêu trong những hướng dẫn trên cũng chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn trong việc áp dụng trong thực tiễn, chưa đủ tác dụng để đấu tranh, phòng ngừa với loại tội phạm này. Về mặt khoa học pháp lý, việc nghiên cứu các tội vô ý làm chết người đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo luật học như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam và một số cơ sở đào tạo khác. Trong đó phải kể đến một số giáo trình, sách chuyên khảo hay những bài viết như: GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Chương IV- Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), tập thể tác giả do TSKH.GS Lê Văn Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2013. Ngoài ra, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu trong một số công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế như Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 - Phần chung, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000; Bình luận chuyên sâu Bộ luật hình sự, tập I, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2013; TS. Nguyễn Đức Mai, Phân biệt tội gây thương tích dẫn đến chết người với tội giết người và tội vô ý làm chết người, Tạp chí Tòa án nhân dân số 07/2008; PGS.TS Trần Văn Luyện, Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 05/2011; TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Phân biệt tội giết người với một số tội phạm khác xâm phạm tính mạng con người, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 04/2013. Bên cạnh 3
  10. đó, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến các tội vô ý làm chết người. Đặc biệt, đề tài Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn Bình Định thì chưa có công trình nào nghiên cứu. Từ góc độ lý luận và thực tiễn nghiên cứu cho thấy: các công trình nghiên cứu nêu trên đã phần nào làm sáng tỏ một số vấn đề về khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng của cả nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, trong đó có các tội vô ý làm chết người; nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử đối với các tội vô ý làm chết người ở Bình Định, dưới cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học. Do đó, đây là một đề tài hoàn toàn mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của các tội vô ý làm chết người theo luật hình sự Việt Nam năm 2015, như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; phân biệt các tội vô ý làm chết người với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự; đồng thời đi sâu phân tích thực tiễn xét xử các tội vô ý làm chết người người ở Bình Định, từ năm 2015 đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về xử lý các loại tội phạm này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ: 4
  11. Một là, một số vấn đề lý luận về các tội vô ý làm chết người, lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam về tội phạm này. Hai là, nghiên cứu quy định của bộ Luật Hình sự năm 2015 về các tội vô ý làm chết người; Ba là, thực tiễn xét xử về các tội vô ý làm chết người trên địa bàn tỉnh Bình Định, giai đoạn 2015-2020. Bốn là, hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của bộ Luật Hình sự năm 2015 về các tội vô ý làm chết người. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề lý luận chung và thực tiễn xét xử đối với các tội vô ý làm chết người ở Bình Định, giai đoạn 2015 – 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình… để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hành vi vô ý làm chết người trong khoa học luật hình sự Việt Nam; phân tích thông qua nghiên cứu số liệu thực tiễn xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Bình Định, từ 2015 đến năm 2020 và các bản án hình sự cụ thể của một số tòa án ở các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh để đánh giá. Từ đó, chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên 5
  12. nhân để tìm giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội vô ý làm chết người ở khía cạnh lập pháp hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến các tội vô ý làm chết người, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống những tội này hiện nay và sắp tới ở Bình Định nói riêng, cả nước nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định các tội vô ý làm chết người trong Luật hình sự Việt Nam năm 2015. Chương 2 : Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội vô ý làm chết người và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bình Định. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội vô ý làm chết người. 6
  13. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 1.1. Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi theo luật hình sự Việt Nam Có lỗi là cơ sở chủ quan để có thể buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình gây ra. Nguyên tắc có lỗi là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam. Mặc dù hành vi của họ có gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng nếu họ không có lỗi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm khi được thực hiện một cách có lỗi. Do đó, lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và với hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi ấy gây ra thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý hay vô ý. "Một người phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ vì họ đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà còn vì họ đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó" [23, tr.87]. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự tồn tại, thay đổi và phát triển của mọi hiện tượng đều chịu sự chi phối của những quy luật khách quan. Hoạt động của con người cũng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan. Tuy vậy, nhờ hoạt động có ý thức, con người có khả năng nhận thức được quy luật và hành động theo quy luật, lợi dụng quy luật để thực hiện mục đích của mình, đó là sự tự do của con người. Tuy nhiên, con người chỉ có thể tự do thực sự khi xử sự của họ phù hợp với quy luật, nếu không phù hợp với quy luật thì có nghĩa họ đã tự tước bỏ khả năng tự do của mình. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng, tự do và trách nhiệm là hai phương diện của một vấn đề, không thể có trách nhiệm mà không được tự do, cũng như không thể có tự do không liên quan gì đến trách nhiệm đối với người khác, đối với xã hội. Tự do không phải bẩm sinh con người có được mà gắn với quá trình hoạt động, lịch sử 7
  14. phát triển của loài người. Trách nhiệm được hiểu là khả năng của con người ý thức được những kết quả hoạt động của mình, đồng thời là khả năng thực hiện một cách tự giác những nghĩa vụ được đặt ra cho mình. Cũng như tự do, trách nhiệm của con người được quy định bởi những nhu cầu phát triển của đời sống con người. Dưới hình thái tích cực, trách nhiệm thể hiện ở những hoạt động nhằm duy trì, phát triển trật tự xã hội, pháp chế, đạo đức. Còn dưới hình thái tiêu cực, trách nhiệm phát sinh từ những lợi ích của xã hội và của con người bị vi phạm, khi không thực hiện đầy đủ trách nhiệm với xã hội thì người đó phải chịu trách nhiệm trước xã hội. Có thể nói, con người có trách nhiệm là con người thấy trước những hậu quả của hành động của mình, cố gắng ngăn chặn những tác hại có thể xảy ra đối với lợi ích của xã hội. Đòi hỏi của xã hội nhằm thực hiện sự tiến bộ, sự phát triển theo tất yếu khách quan, việc thực hiện những đòi hỏi của xã hội cũng chính là thực hiện sự tự do. "Con người có tự do để thực hiện trách nhiệm và thực hiện đầy đủ trách nhiệm cũng là sự thực hiện tự do" [23, tr.86]. Con người trong xã hội có khả năng thực tế để tự do, nhưng trong xã hội vẫn có những hành vi phạm tội, hành vi vi phạm pháp luật và những hành vi trái đạo đức. Đối với những hành vi này, xã hội và Nhà nước có quyền buộc họ phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc không thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ trên cơ sở quyền hạn của tự do. "Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một người khi họ có tự do. Con người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, của xã hội thì có nghĩa họ là người có lỗi, trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi" [23, tr.86]. Cơ sở lý luận của lỗi là tự do, trách nhiệm. Lỗi là một dấu hiệu của tất cả các cấu thành tội phạm, đòi hỏi phải được xác định trong mọi trường hợp khi áp dụng luật hình sự. Việc ghi nhận nguyên tắc có lỗi trong luật hình sự chính là sự thừa nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người. Xác định lỗi đúng là một điều kiện cần thiết định tội danh, nếu xác định lỗi sai thì sẽ dẫn đến định tội danh sai. Trong thực tiễn, việc xác định lỗi trong nhiều trường hợp rất phức tạp. Để có thể xác định lỗi một cách chính xác, đòi hỏi phải nắm vững những dấu hiệu về hình thức cấu trúc 8
  15. tâm lý của các loại lỗi đã được mô tả trong các điều luật của Bộ luật hình sự và hiểu rõ bản chất của lỗi nói chung cũng như mặt nội dung của từng loại. "Trên cơ sở nhận thức đầy đủ về lỗi và từng loại lỗi mới có thể có được phương pháp đúng trong việc xác định lỗi trong những trường hợp phạm tội cụ thể" [51, tr.25]. Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau trong khoa học luật hình sự Việt Nam, song về cơ bản, các quan điểm đều thống nhất về nội hàm của chế định lỗi là: nhằm xác định rõ lý trí và ý chí của người phạm tội đối với những biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Có quan điểm định nghĩa lỗi căn cứ vào mặt hình thức của lỗi như sau: "Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý" [22, tr.101]. Lỗi còn được định nghĩa theo đặc điểm cấu trúc tâm lý, cụ thể là: "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là có lỗi nếu khi thực hiện nhận thức được hoặc có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và có đủ điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội" [23, tr.91]. Có quan điểm cho rằng: Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm hình sự, đồng thời là thái độ tâm lý của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy gây nên dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [9, tr.422]. Trên cơ sở những quan điểm khác nhau về lỗi nêu trên và căn cứ vào các quy định về lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm về lỗi như sau: Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm mà họ đã thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Dựa vào các yếu tố lý trí và ý chí trong những trường hợp có lỗi, trong cả ba 9
  16. lĩnh vực thể hiện của luật hình sự Việt Nam (pháp luật hình sự thực định, lý luận và xét xử) bao gồm hai hình thức lỗi - cố ý và vô ý. Hình thức lỗi cố ý được phân chia thành hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Hình thức lỗi vô ý được chia thành hai hình thức là vô ý phạm tội vì quá tự tin và vô ý phạm tội vì cẩu thả. 1.1.2. Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam Từ điển Tiếng Việt định nghĩa "vô ý" là "không để ý đến" [56, tr.1329]. Do đó, phạm tội do lỗi vô ý được hiểu là người phạm tội do bất cẩn, không để ý các quy tắc, quy định của đời sống xã hội nên đã gây nên thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản... của người khác. Vì thế, "Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi đó. Nói cách khác, không giống như lỗi cố ý, ở trường hợp lỗi vô ý người phạm tội không lựa chọn hành vi phạm tội" [23, tr.97]. Có thể nhận thấy lỗi vô ý có các dấu hiệu cơ bản: Một là, người phạm tội không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình khi quyết định thực hiện hành vi đó. Hai là, người phạm tội có đủ điều kiện để nhận thức được vấn đề đó và có điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù hợp với yêu cầu của xã hội. Vì vậy, họ đã thực hiện hành vi do không nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi do họ thực hiện. Vì thế, tội phạm do lỗi vô ý nhìn chung chỉ nguy hiểm khi gây ra hậu quả nghiêm trọng. Hành vi được thực hiện do lỗi vô ý có mức độ nguy hiểm thấp hơn hành vi phạm tội thực hiện do lỗi cố ý. Các trường hợp người phạm tội không nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội (mặc dù có đủ điều kiện để nhận thức được) có thể xảy ra như sau: Thứ nhất, người phạm tội không nhận thức được tính chất thực tế của hành vi và do vậy không nhận thức được khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Thứ hai, người phạm tội tuy có khả năng nhận thức được tính chất thực tế của hành vi nhưng hoàn toàn không nhận thức được khả năng gây hậu quả nguy 10
  17. hiểm cho xã hội của hành vi của mình. Thứ ba, người phạm tội nhận thức được tính chất thực tế của hành vi, nhận thức được hậu quả xảy ra nhưng sau khi cân nhắc đã loại trừ khả năng đó khi lựa chọn hành vi. So với lỗi cố ý thì đây là điểm khác nhau cơ bản, vì trong trường hợp lỗi cố ý, người phạm tội đã chấp nhận khả năng hậu quả xảy ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi. "Trong trường hợp lỗi vô ý, người phạm tội loại trừ khả năng đó và cho rằng hậu quả không xảy ra" [25, tr.151]. Dựa vào việc người phạm tội không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong những trường hợp có lỗi vô ý, khoa học luật hình sự phân lỗi vô ý thành hai hình thức là vô ý phạm tội vì cẩu thả và vô ý phạm tội vì quá tự tin. Cách phân chia này cho thấy, lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả bao gồm những trường hợp người phạm tội không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi (không thấy trước hậu quả). Trường hợp không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tuy nhận thức được khả năng hậu quả xảy ra nhưng đã tự loại trừ khả năng đó thuộc hình thức lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin. Thực tiễn cuộc sống cho thấy, hành vi phạm tội do lỗi vô ý thường được biểu hiện dưới các hình thức như: thiếu kỷ luật trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao; thái độ bất cẩn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác chuyên môn nghiệp vụ.v.v. Các lĩnh vực thường xảy ra tội phạm do lỗi vô ý là các tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông, vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy; vi phạm quy định về bảo đảm an toàn trong sử dụng điện, xây dựng, lao động, vệ sinh an toàn thực phẩm, khám chữa bệnh, quản lý, sử dụng dược liệu và các dịch vụ y tế. Trên cơ sở này, các nhà làm luật đã cụ thể hóa thành các tội phạm cụ thể để xử lý những người nào có hành vi xâm phạm đến, qua đó bảo đảm trật tự an toàn xã hội chung. Quan điểm của các nhà làm luật hình sự ở nước ta hiện nay, tập trung xử lý các tội phạm do lỗi cố ý. Tuy vậy, việc quy định tội phạm và hình phạt đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi vô ý là vấn đề cần thiết; bởi vì, chính sách hình sự của Nhà nước được quyết định bởi tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, pháp luật hình sự 11
  18. được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc nhất định của chính sách hình sự. Một đòi hỏi quan trọng khi áp dụng pháp luật hình sự là phải bảo đảm việc xác định chính xác trách nhiệm pháp lý. Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu quả bất lợi của một chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu và được thể hiện bằng một hay nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được pháp luật quy định. Thực tiễn cho thấy, cần phải xây dựng và áp dụng những quy định nghiêm khắc đối với các hành vi tuy được thực hiện với lỗi vô ý nhưng đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Vì theo nguyên tắc pháp chế, một đòi hỏi quan trọng khi áp dụng pháp luật hình sự là phải bảo đảm áp dụng đầy đủ và chính xác các quy định để xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, tránh làm oan người vô tội. Tuy thế, những tội phạm do lỗi vô ý phần lớn xuất phát từ những nguyên nhân khách quan. Trong khi đó, pháp luật hình sự chỉ thực sự có giá trị và phát huy tác dụng khi tác động có hiệu quả tới nhận thức chủ quan của con người. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, việc giữ gìn trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, cũng như nâng cao trách nhiệm trong công tác chuyên môn, nghề nghiệp đối với các quy tắc an toàn xã hội không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng và ý muốn của con người, mà còn bị ảnh hưởng bởi các điều kiện khách quan như khả năng kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật, các phương tiện đảm bảo an toàn. Ngoài ra, còn phụ thuộc nhiều vào ý thức tuân thủ pháp luật và kỷ luật của con người; vì vậy, nếu áp dụng những hình phạt nghiêm khắc đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý thì tác dụng của luật hình sự đối với những hành vi này là rất hạn chế và trong nhiều trường hợp, đi ngược lại quan điểm nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội nói chung và những hành vi được thực hiện với lỗi vô ý nói riêng, việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự nhằm đảm bảo việc giáo dục ý thức pháp luật, giữ gìn trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, cũng như nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong công tác chuyên môn, nghề nghiệp là cần thiết. Mặt khác, để thực hiện nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, đòi hỏi phải có sự bình đẳng khi quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt giữa những người phạm tội do lỗi cố ý 12
  19. cũng như phạm tội do lỗi vô ý. Vì thế, trong công tác xây dựng và áp dụng pháp luật, cũng cần quan tâm đến lợi ích của bản thân người phạm tội, việc áp dụng loại và mức hình phạt chỉ đến mức cần và đủ và đạt được mục đích của hình phạt, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp vô ý phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng qua đó bảo đảm sự công bằng và nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự, cũng như đáp ứng các yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm. Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận của chế định lỗi nói chung và việc quy định các tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý nói riêng, người làm luận văn cho rằng: Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội khi hành động đã không có ý thức lựa chọn cách thức phạm tội, họ đã thực hiện tội phạm trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn một hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội; ngoài ra, người phạm tội vì không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi hoặc tuy thấy trước nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra; vì vậy, họ không nhận thức được hành vi sẽ thực hiện là hành vi phạm tội. 1.2. Khái niệm tội vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và phân biệt các tội phạm này với một số tội phạm khác theo luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Khái niệm tội vô ý làm chết người Khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, dù còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội vô ý làm chết người, song nhìn chung các quan điểm đó vẫn thống nhất trong việc nêu ra nội dung và bản chất pháp lý của tội phạm này. Có quan điểm cho rằng: "Vô ý làm chết người là hành vi của một người không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra" [34, tr.103]. Quan điểm này dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (Điều 128) để định nghĩa, nhưng chưa nêu được dấu hiệu chủ thể của tội phạm này. Có quan điểm lại cho rằng:"Vô ý làm chết người được hiểu là trường hợp hành vi vô ý của một người làm cho người khác bị chết" [58, tr.81]. 13
  20. Quan điểm khác cho rằng: "Vô ý làm chết người là hành vi của một người không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước nhưng tin rằng hậu quả chết người không xảy ra" [2, tr.114]. Như vậy, các quan điểm trên, nhìn chung chưa nêu được dấu hiệu chủ thể của tội phạm, cũng như chưa phản ánh rõ ràng hành vi khách quan của tội phạm. Mặt khác, có quan điểm cụ thể hóa hơn biểu hiện của hành vi phạm tội vô ý làm chết người và đã nêu tương đối đầy đủ nội dung khái niệm tội phạm này, song vẫn thiếu dấu hiệu chủ thể của tội phạm, theo đó: Vô ý làm chết người là trường hợp vô ý gây ra hậu quả chết người do vi phạm quy tắc an toàn về tính mạng, sức khỏe trong những lĩnh vực khác nhau của hoạt động chung xã hội. Những quy tắc này có thể đã được quy phạm hóa hoặc có thể chỉ là những quy tắc xử sự xã hội thông thường đã trở thành nếp quen sinh hoạt, mọi người đều biết và thừa nhận. Trong Bộ luật hình sự có nhiều tội danh khác nhau được quy định cho hành vi vô ý làm chết người, tùy thuộc vào lĩnh vực có quy tắc an toàn mà chủ thể đã vi phạm. Các trường hợp vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc an toàn công cộng (an toàn giao thông, an toàn lao động, an toàn trong xây dựng, an toàn trong quản lý vũ khí...) được quy định thành những tội danh khác nhau thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng. Tội vô ý làm chết người được quy định trong Chương "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người" gồm những trường hợp vô ý làm chết người còn lại chưa được quy định thành các tội riêng [25, tr.297]. Tuy vậy, qua nghiên cứu cơ sở lý luận của chế định lỗi nói chung và các tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý nói riêng, người làm luận văn tán thành với cách lập luận về tội vô ý làm chết người như sau: Vô ý làm chết người là trường hợp người phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự đã có hành vi vi phạm quy tắc an toàn nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho con người. Các quy tắc đó thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy định trong các văn bản quy 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2