Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 14
download
Nội dung chính của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về xét hỏi trong hoạt động xét xử sơ thẩm từ thực tiễn TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh. Đề xuất các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định pháp luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------------- NGUYỄN TẤN CHINH XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------------- NGUYỄN TẤN CHINH XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI, năm 2019
- LỜI CẢM ƠN Sau thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự với đề tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh”. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Khoa Luật hình sự và tố tụng hình sự đã định hướng cho tôi trong việc chọn lựa đề tài trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn – người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn và góp ý cho tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019 Học viên Nguyễn Tấn Chinh
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn. Các số liệu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng trong bất cứ một nghiên cứu nào khác. Tôi cam đoan mọi tham khảo trong luận văn này đều được ghi rõ nguồn gốc, trích dẫn rõ ràng. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy định viết luận văn, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019 Học viên Nguyễn Tấn Chinh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................6 1.1. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi ............6 1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự ....................................................6 1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi ...........................................................................8 1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi .......................................................10 1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi ...............................................................12 1.2. Mối tương quan giữa xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác trong phiên tòa hình sự sơ thẩm. .............................................................................................................17 1.2.1. Xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa.........................................................17 1.2.2. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa ...........................................................18 1.2.3. Xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án .........................................................18 1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. ........................................................19 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988 ....................................................................................................................19 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 ....................................................................................................................21 1.3.3. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015. ............................................................................................................................23 1.3.4. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ............................................................................................................24 Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ XÉT HỎI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, TP. HỒ CHÍ MINH.................................................................................................27 2.1. Chủ thể thực hiện quyền xét hỏi ....................................................................27 2.1.1. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa ................................................................27
- 2.1.2. Hội thẩm nhân dân ...................................................................................29 2.1.3. Kiểm sát viên ............................................................................................31 2.1.4. Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ............................................................................................................................34 2.1.5. Người giám định .......................................................................................38 2.1.6. Người định giá tài sản ..............................................................................39 2.2. Thi hành các quy định về nội dung xét hỏi.....................................................40 2.3. Thi hành các quy định về trình tự xét hỏi .......................................................47 2.4. Thi hành các quy định về công bố lời khai, xem xét vật chứng tại phiên tòa 52 2.5. Nguyên nhân và những hạn chế, vướng mắc ..................................................57 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM ..........................59 3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét hỏi.......60 3.2. Tăng cường hướng dẫn thực hiện các quy định của BLTTHS về xét hỏi ......63 3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng xét hỏi của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm tại phiên tòa. ........................................................66 3.4. Đề cao trách nhiệm và đảm bảo quyền của người bào chữa trong xét hỏi .....73 KẾT LUẬN ..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử HTND Hội thẩm nhân dân KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân VKS Viện kiểm sát
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta từ khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới được ban hành, công tác tư pháp đã có những chuyển biến nhất định. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì công tác tư pháp đã có những đổi mới căn bản. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp được xác định rõ hơn và từng bước được củng cố, kiện toàn; Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tốt; Công tác xét xử được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng án phúc thẩm đã cơ bản được khắc phục; Tỷ lệ khám phá án, điều tra, truy tố, xét xử đạt cao và năm sau đều cao hơn năm trước; Chủ trương “nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà” được triển khai thực hiện, tạo không khí dân chủ trong các phiên toà, vai trò của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn... Bên cạnh những kết quả nêu trên, hệ thống tư pháp, trong đó có tư pháp hình sự còn bộc lộ những bất cập, hạn chế như chưa có sự phân định hợp lý giữa các chức năng cơ bản của tố tụng, dẫn đến việc quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng chưa phù hợp, cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa hoàn thiện; ý kiến tranh luận, tranh tụng của các luật sư vẫn chưa thực sự được coi trọng, không ít bản án, quyết định của Tòa án chưa thực sự dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa, dẫn đến số lượng các bản án bị huỷ, sửa còn chiếm tỷ lệ khá cao; Phương pháp điều tra, xét hỏi vẫn là phương pháp chủ yếu được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng v.v… Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng đến kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự là thủ tục trọng tâm, quan trọng của giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có những thay đổi về quy 1
- định thủ tục xét hỏi so với các Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành trước đó, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về pháp luật thực định và cả việc áp dụng pháp luật trên thực tế. Đổi mới và hoàn thiện thủ tục xét hỏi không phải là vấn đề mới được đặt ra, nhưng những gì đạt được hiện nay chưa đáp ứng được cao nhất yêu cầu cải cách tư pháp, vẫn còn tồn tại nhiều tranh luận khi áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS trong xét xử. Do đó, trên cơ sở phân tích những mặt ưu điểm, tiến bộ của quy định thủ tục xét hỏi hiện hành, bên cạnh đó cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập cần bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng xét hỏi cũng là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm. Từ những phân tích nêu trên, học viên chọn đề tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề xét hỏi tại phiên tòa hình sự được một số tác giả đề cập trong các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, các luận án, luận văn, sách chuyên khảo, cụ thể là: - Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Trương Tín (2007), Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, bảo vệ tại Trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sỹ Luật học của Võ Hồng Phúc (2016), Hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ tại trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sỹ Luật học Đặng Minh Phương (2013), Hoạt động xét hỏi của Kiểm sát viên trong Tố tụng hình sự Việt Nam) bảo vệ tại trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận án TS của Nguyễn Văn Hiển (2011), Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội. 2
- - Bài viết “Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003” của tác giả Đinh Văn Quế. - Bài viết “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,” của Lê Thị Thúy Nga đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2008. - Bài viết của PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Luật học, số 10/2009 - Bài viết “Quá trình hình thành và phát triển thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ” của tác giả Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 11/2014. - Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Chủ biên. GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 2013; - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, TS. Nguyễn Ngọc Kiên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2017 và một số công trình khác có liên quan. Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập nhiều vấn đề về thủ tục xét hỏi liên quan đến áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành cũng bắt đầu bộc lộ vướng mắc. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện thủ tục xét hỏi trong phiên tòa sơ thẩm hình sự.. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận và các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này từ thực tiễn TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau đây: 3
- - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật của thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. - Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về xét hỏi trong hoạt động xét xử sơ thẩm từ thực tiễn TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh. - Đề xuất các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định pháp luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân Quận 10, TP Hồ Chí Minh - Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2019 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được vận dụng để nghiên cứu tính thống nhất của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, tính thống nhất nội tại của thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự. Nguyên lý về sự phát triển, quy luật lượng đổi-chất đổi được sử dụng để nghiên cứu quá trình hoàn thiện chế định pháp luật về xét hỏi trong TTHS. Các phạm trù nội dung và hình thức, khả năng và hiện thực được sử dụng để nghiên cứu về xét hỏi trong các mô hình tố tụng hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong Luận văn gồm: phương pháp hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh luật học, phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần vào quá trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề của thủ tục xét hỏi qua đó đề ra các kiến nghị 4
- giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Đề tài có ý nghĩa thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm hình sự ở TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh và có thể là tài liệu tham khảo cho một số TAND cấp quận. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của Luận văn được cấu trúc thành 3 Chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Chương 2: Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về xét hỏi tại Tòa án nhân dân Quận 10. Chương 3: Các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định của Bộ luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi 1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự Xét xử sơ thẩm được xem là việc xét xử lần thứ nhất do Tòa án có thẩm quyền thực hiện theo quy định pháp luật. Đây là một giai đoạn của tố tụng hình sự, sau khi đã kết thúc giai đoạn điều tra, truy tố. Xét xử được thực hiện bằng một phiên tòa mà tại đó, các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày, tranh luận và cả các tình tiết, nội dung chưa từng công bố hay thu thập trước đó được xem xét, đánh giá công khai ngay tại phiên tòa để đi đến việc xác định tội phạm và hành vi phạm tội. Xét xử sơ thẩm được xem là giai đoạn quan trọng nhất của việc thực hiện quyền tư pháp, vì là xem xét vụ án về nội dung. Giai đoạn này có vai trò đặc biệt quan trọng, tác động đến toàn bộ hệ thống tư pháp. Nếu xét xử tốt, khách quan, đúng pháp luật, công lý được thực hiện ngay ở cấp sơ thẩm, quyền lợi của người dân sẽ được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi, hạn chế việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc nâng cao chất lượng xét xử ở cấp cơ sở là yêu cầu hàng đầu của cải cách tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp, có ý nghĩa quyết định đến các nội dung khác của cải cách, bắt buộc phải thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm có thể đánh giá được sự công bằng, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội mà trong đó, Tòa án ở giữa có quyền “cầm cân nảy mực”, những quyền và lợi ích hợp pháp mà bên yếu thế hơn nhận được, quyền con người có được đề cao hay không, khả năng của cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng đến đâu trong việc tìm ra sự thật khách quan để không bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan người vô tội. Phiên tòa sơ thẩm không chỉ xem xét chứng cứ mà còn đòi hỏi các chủ thể tham gia tố tụng phải đưa ra các lý lẽ thuyết phục, sắc bén, nhanh chóng phù hợp với diễn biến phiên tòa và các tài liệu có liên quan thu thập được. Do đó, tổ chức tốt một phiên tòa sơ thẩm cũng là phương pháp để nâng cao kinh nghiệm xét xử, nâng 6
- cao khả năng tranh tụng, bảo vệ quan điểm của các chủ thể tham gia như luật sư, người bào chữa, kiểm sát viên. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, lần đầu tiên vụ án hình sự được đưa ra xem xét công khai với tất cả các chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra cùng với các chứng cứ mới được xem xét một cách khách quan, toàn diện, trực tiếp. Tại phiên tòa bị cáo thực hiện quyền của mình như tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, được quyền trình bày quan điểm gỡ tội của mình trước Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác phải thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sử dụng các quyền của mình, tránh sự xâm phạm các quyền đối với bị cáo. Phiên tòa sơ thẩm là cơ hội để bị cáo sử dụng các quyền của mình lần đầu tiên tại phiên tòa một cách công khai. Đây là điểm khác với giai đoạn điều tra. Vì vậy phiên tòa HSST trước hết phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật TTHS: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc suy đoán vô tội…Trong những nguyên tắc chung được quy định tại BLTTHS 2015 thì hiện nay, nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại các phiên tòa sơ thẩm của Việt Nam chưa thực sự được đảm bảo. Việc xét hỏi trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa đã bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn đến phiên tòa hình sự sơ thẩm tập trung vào việc luận tội, xét hỏi dựa trên những chứng cứ thu thập được tại các giai đoạn tố tụng trước đó, các cơ quan tiến hành tố tụng về một phía và bị can, bị cáo, người bảo vệ quyền lợi ích cho bị can, bị cáo về một phía yếu hơn. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng tham gia xét xử phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử biểu quyết theo đa số. Tuy nhiên, trên thực tế Hội thẩm chưa phát huy hết vai trò chủ 7
- động, tích cực của mình trong quá trình xét xử, đặc biệt ở việc xét hỏi gần như phụ thuộc hoàn toàn vào Thẩm phán, hỏi không làm rõ được nội dung vụ án, hỏi không đúng trọng tâm hoặc không tham gia xét hỏi. Do đó trong công tác chuẩn bị xét xử và điều hành diễn biến tại phiên tòa, trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa rất nặng nề. Kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng là lúc ban hành các phán quyết liên quan đến hành vi phạm tội, tội phạm và hình phạt bị cáo phải chịu hay giải phóng bị can, bị cáo khỏi sự trừng phạt của pháp luật. Những yếu tố trên cho thấy, xét xử sơ thẩm hình sự có vị trí quan trọng trong suốt quá trình tố tụng, khi lần đầu tiên các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ được kiểm chứng công khai tại phiên tòa, các quan điểm chính thức của Viện kiểm sát được đưa ra, những lập luận để bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo được trình bày. Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp giữ vị trí trung tâm trong việc điều hành và kiểm soát diễn biến phiên tòa, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xem xét tội danh và điều khoản áp dụng, đồng thời giải quyết quyền lợi của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại…trong cùng một vụ án. Quan trọng nhất là kết thúc phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đưa ra quyết định bị cáo có tội hay không có tội, tội phạm và hình phạt cụ thể dành cho bị cáo. Cũng tại giai đoạn này, quyền kháng cáo của bị cáo được đặt ra. Trong khi ở cấp phúc thẩm, bị cáo đã không còn quyền kháng cáo. Đề cao tính chất đặc biệt của xét xử sơ thẩm hình sự, qua đó cho thấy việc xét hỏi theo đúng trình tự thủ tục, xét hỏi có khoa học và bám sát nội dung vụ án là tiền đề chuẩn bị cho việc nghị án, tuyên án chính xác, khách quan, đúng người đúng tội, hạn chế tối đa oan sai cũng như hạn chế tiến hành giải quyết thủ tục kháng cáo sau phiên tòa sơ thẩm, làm kéo dài thời gian giải quyết một vụ án hình sự. 1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi Bộ luật TTHS không đưa ra định nghĩa thế nào là thủ tục xét hỏi mà chỉ quy định về trình tự, thủ tục, nội dung xét hỏi và các vấn đề khác có liên quan đến thủ tục hỏi tại một phiên tòa hình sự. Tuy vậy, trong các tài liệu nghiên cứu và giảng dạy, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về thủ tục xét hỏi, Giáo trình Luật TTHS Việt 8
- Nam của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm xem xét công khai những chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng minh vụ án”. Định nghĩa này đánh giá hoạt động xét hỏi chủ yếu ở việc xem xét chứng cứ và chưa nêu bật được những vấn đề quan trọng khác trong thủ tục xét hỏi như về mặt chủ thể và vai trò trung tâm của giai đoạn xét hỏi trong toàn bộ quá trình xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự. Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế: “Xét hỏi là thủ tục chính của phiên tòa sơ thẩm, trong đó Tòa án cùng các bên tranh tụng xem xét, kiểm tra chứng cứ của bên buộc tội, thu thập trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ do bên bào chữa đề xuất được Tòa án chấp nhận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án” [18, tr.3-10]. Tại định nghĩa này, tác giả đã đề cập đến chủ thể thực hiện hoạt động xét hỏi, trong đó Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá các chứng cứ trong vụ án để đạt được mục đích là tìm ra sự thật khách quan. Tuy nhiên, định nghĩa chưa nêu được đầy đủ các hoạt động khác trong thủ tục xét hỏi, bởi việc xem xét chứng cứ chỉ là một trong các hoạt động trong thủ tục này. Tác giả Võ Hồng Phúc cho rằng: “Thủ tục xét hỏi là hoạt động trung tâm trong quá trình xét xử vụ án hình sự và cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác định sự thật vụ án. Trong đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác theo quy định của pháp luật thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực tiếp cho bị cáo và những người tham gia tố tụng; xem xét chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng; xem xét hiện trường xảy ra vụ án nhằm kiểm tra công khai tất cả tình tiết liên quan đến vụ án tại phiên tòa” [16, tr.7]. Định nghĩa về xét hỏi mà tác giả Võ Hồng Phúc đưa ra là tương đối toàn diện. Qua các ý kiến trên đây, có thể thấy xét hỏi tại phiên tòa hình sự là một hoạt động tố tụng được thực hiện bởi những chủ thể khác nhau như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Người bào chữa, Người giám định…việc xét hỏi phải theo một trình tự tố tụng chặt chẽ được quy định tại BLTTHS. Mục đích của việc xét hỏi nhằm xem xét lại các chứng cứ được thu thập tại giai đoạn điều tra, các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa. Thông 9
- qua việc xét hỏi, xác định được sự thật khách quan của vụ án, đi đến mục đích chứng minh có hay không tội phạm và hành vi phạm tội. Việc hỏi và trả lời phải được tiến hành công khai, trực tiếp bằng lời nói tại phiên tòa và thủ tục hỏi phải diễn ra liên tục bắt đầu từ sau khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và chấm dứt tại thời điểm Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần hỏi và chuyển sang phần Kiểm sát viên trình bày luận tội và các chủ thể khác thực hiện quyền bào chữa tại phiên tòa. Có thể nói, tại phiên tòa, thủ tục xét hỏi đóng vai trò vô cùng quan trọng, là bước quyết định để làm sáng tỏ vụ án, xác định lại những người, những tình tiết có liên quan hoặc không liên quan, qua đó có thể quyết định có cần thu thập thêm chứng cứ hay không? Giai đoạn này làm tiền đề cho phần tranh luận và tuyên án. Khi đã tuyên án, Chủ tọa phiên tòa không được quyền trở lại phần xét hỏi. Do đó, toàn bộ hoạt động chứng minh tội phạm tại phiên tòa và xem xét toàn diện các vật chứng, lời nói, lời bào chữa.... được diễn ra chủ yếu trong giai đoạn xét hỏi. Tại giai đoạn xét hỏi, các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện quyền hỏi theo những mục đích khác nhau tùy vào vai trò của mình. Chủ tọa, Hội thẩm thực hiện việc hỏi để tìm ra sự thật của vụ án, Kiểm sát viên hỏi để bảo vệ cho quan điểm trong cáo trạng truy tố của mình, người bào chữa hỏi để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình... Tuy nhiên, tất cả đều đi đến mục đích chung là chứng minh có hay không tội phạm và việc xét hỏi trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, không nhằm mục đích che giấu tội phạm hoặc làm sai lệch nhận thức về hành vi phạm tội và các dấu hiệu tội phạm. 1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi Trước khi chuyển sang mô hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng (theo tinh thần và nội dung Bộ luật TTHS năm 2015), tố tụng hình sự Việt Nam trong một thời gian dài xác định việc tìm kiếm sự thật chủ yếu bằng phương pháp điều tra, thẩm vấn. Phương pháp này được sử dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng. Phương pháp điều tra được thực hiện dưới hình thức xét hỏi, chủ thể của việc xét hỏi đầu tiên và trước hết sau khi Viện kiểm sát công bố bản cáo trạng thuộc về Hội 10
- đồng xét xử và được quyền hỏi toàn bộ các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án. Sau việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự...Trong mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, Tòa án có vai trò tích cực, chủ động trong việc xác định sự thật của vụ án, khác với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, mô hình tố tụng thẩm vấn trao cho Tòa án quyền chủ động rất lớn trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án hình sự, việc xét xử tại phiên tòa thực chất là giai đoạn Tòa án tiếp tục củng cố tài liệu, chứng cứ trên cơ sở dữ liệu do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát lập nên. Điểm giống nhau trong chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan kể trên với Tòa án là cùng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người đúng tội. Tòa án được tiếp xúc hồ sơ vụ án ngay từ trước khi mở phiên tòa, thời gian nghiên cứu hồ sơ tương đối dài. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Tòa án được quyền trả lại hồ sơ cho Viện kiệm sát để điều tra bổ sung, hoặc khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác, khi phát hiện có sự vi phạm thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử thông qua hoạt động xét hỏi, xem xét chứng cứ, tài liệu tại phiên tòa để đi đến kết luận cuối cùng về tội phạm và hình phạt. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng trong tố tụng hình sự, các nhiệm vụ chức năng của ba cơ quan được quy định cũng đều nhằm mục đích đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động chứng minh sự thật vụ án. Các cơ quan này có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau mà trong đó, Tòa án giữ vị trí trung tâm và là cơ quan sau cùng có thẩm quyền quyết định, kết luận lại tất cả các hoạt động thu thập được ở giai đoạn trước đó, quyết định tính hợp pháp và thuyết phục của chứng cứ do các cơ quan đưa ra và tuyên án để khép lại vụ án hình sự. Tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam phân biệt các chức năng của TTHS bao gồm: buộc tội, xét xử và bào chữa, trong đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm chứng minh bị can phạm tội, Tòa án là cơ quan xét xử và người bào chữa cho bị can, bị cáo thực hiện chức năng bào chữa. Việc 11
- phân định rõ chức năng nhằm mục đích tạo ra bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội. Sự bình đẳng ở đây không chỉ là địa vị pháp lý, về quyền và nghĩa vụ của các bên mà thừa nhận khả năng ngang bằng nhau của các bên trong hoạt động chứng minh, đưa ra yêu cầu và giải quyết yêu cầu. Trong phạm vi xét hỏi, nếu bên buộc tội được sử dụng những quyền gì khi tham gia tố tụng thì bên buộc tội cũng được áp dụng những quyền đó, ví dụ quyền đặt câu hỏi, quyền xem xét chứng cứ. Còn về Tòa án, việc phân định chức năng phải xác định Tòa án là cơ quan độc lập và khách quan trong xét xử. Xét hỏi là thủ tục trọng tâm tại phiên tòa sơ thẩm, vì tính chất đặc biệt quan trọng của nó nên BLTTHS năm 2015 đã hướng dẫn thủ tục này khá đầy đủ bằng Mục V - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cần vận dụng linh hoạt các quy định trong quá trình xét hỏi để đạt được mục đích chứng minh tội phạm, đổi mới việc xét hỏi kết hợp với tranh tụng theo xu hướng tiếp cận gần hơn với các nền lập pháp tiên tiến trên thế giới, kết hợp giữa mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Qua đó góp phần thực hiện chủ trương và định hướng được xác định tại các Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 48 – NQ/TW của Bộ chính trị, đó là cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện; bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại Tòa án làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp. 1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi Trong xét hỏi tại phiên tòa, các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành TTHS cũng như những người tham gia TTHS cần tuân thủ các nguyên tắc TTHS với các yêu cầu cụ thể sau đây: - Việc xét hỏi phải công khai: Công khai phái sinh từ nguyên tắc Hiến định là Tòa án xét xử công khai…trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước…Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai (Điều 67 – Hiến pháp 1946, Điều 101 – Hiến pháp 1959, Điều 133 – Hiến pháp 1980, Điều 131 – Hiến pháp 1992, Điều 12
- 103 – Hiến pháp 2013, Điều 18 BLTTHS 2003). Tòa án đóng vai trò quan trọng trong công tác xét xử, đại diện cho quyền lực nhà nước, nhân danh Nhà nước trong việc quyết định số phận pháp lý của một công dân, do đó việc xét xử và xét hỏi công khai là nguyên tắc đầu tiên cần tuyệt đối tuân thủ, có xét xử và xét hỏi công khai thì nhân dân và các cơ quan quyền lực khác mới thực hiện được quyền giám sát của mình. Qua đó mới đánh giá được tính công bằng, khách quan và đảm bảo được pháp chế xã hội. Việc ghi nhận nguyên tắc này ngay trong Hiến pháp đã thể hiện quan điểm của nhà lập pháp trong việc bảo vệ quyền con người, với mục đích cao nhất là hướng đến một nền tư pháp mà không ai bị đối xử bất công, cho dù người đó đang bị cáo buộc phạm tội và sắp đối mặt với những hình phạt của pháp luật. Nguyên tắc xét hỏi công khai đặt ra yêu cầu xem xét, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận cuối cùng, tất cả phải được diễn ra tại phiên tòa, có sự tham gia của các cơ quan khác ngoài Tòa án, của những người tham gia phiên tòa, tham gia tố tụng như Luật sư, người làm chứng, bị hại, người nhà bị cáo và cả những người tham dự phiên tòa mà không có bất kỳ sự liên quan nào đến vụ án. Nguyên tắc này dần trở nên quan trọng trong thời điểm hiện nay khi nhu cầu bảo vệ cao hơn nữa quyền con người, quyền và lợi ích cơ bản, hợp pháp của công dân đang được đặt ra trong xã hội hiện đại. Nguyên tắc xét hỏi công khai không được quy định thành điều luật cụ thể nhưng trong các quy định về thủ tục tại phiên tòa thì được thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau như Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố. Những vấn đề khác như xem xét hiện trường, tài liệu đồ vật không thể đưa đến phiên tòa, cả việc phải công khai các băng ghi âm, ghi hình khi bị cáo cho rằng bị bức cung, nhục hình, các báo cáo tài liệu của cơ quan, tổ chức về những tình tiết của vụ án trong trường hợp không có đại diện của cơ quan, tổ chức tham dự thì Hội đồng xét xử công bố tài liệu, báo cáo đó tại phiên tòa cũng cho thấy việc xét xử, xét hỏi công khai gần như được tiến hành và tuân thủ suốt quá trình tố tụng của một vụ án hình sự. Nguyên tắc công khai phải được thực hiện nghiêm túc 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 73 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 105 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 122 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 66 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 59 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn