intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Biện pháp bảo lãnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:135

32
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn muốn làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, phân tích các khía cạnh của BLTTHS Việt Nam hiện hành và BLTTHS của một số nước trên thế giới quy định về biện pháp bảo lĩnh, đồng thời nghiên cứu tình hình áp dụng biện pháp này trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Biện pháp bảo lãnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ DIỆP BIÖN PH¸P B¶O LÜNH TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN DŨNG HÀ NỘI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Thị Diệp
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................ 9 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ....................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam....... 9 1.1.2. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam .... 12 1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam...... 18 1.2. Phân biệt biện pháp bảo lĩnh với các biện pháp ngăn chặn khác thay thế biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam....................................................................................... 21 1.2.1. Cấm đi khỏi nơi cư trú ....................................................................... 22 1.2.2. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm ........................................ 23 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bảo lĩnh .......... 25 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 ........ 25 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai – Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ............................................................................... 31
  4. Chương 2: BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ....................................................... 38 2.1. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 ........................................................................................... 38 2.1.1. Căn cứ và đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh .............................. 38 2.1.2. Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh .......................... 43 2.1.3. Chủ thể bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của các chủ thế .................. 45 2.1.4. Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo lĩnh ........................................... 47 2.2. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới ............................................................................. 47 2.2.1. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức ............................... 48 2.2.2. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga .............................................. 52 2.2.3. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa .................... 56 2.2.4. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản ....................................................... 59 Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG .................................. 67 3.1. Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam............................................................................................ 67 3.1.1. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ............. 67 3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự .................................................................. 78 3.2. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam .............................................. 92 3.2.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung nội dung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bảo lĩnh .................. 92
  5. 3.2.2. Nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ trong cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo thực hiện đúng các quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn ................................................... 110 3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật của quần chúng nhân dân là điều kiện để đảm bảo quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn .................. 112 KẾT LUẬN .................................................................................................. 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 116 PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự 2. BPNC : Biện pháp ngăn chặn 3. TAND : Tòa án nhân dân 4. TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao 5. THTT : Tiến hành tố tụng 6. TTHS : Tố tụng hình sự 7. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân 8. VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trên toàn quốc từ năm 2008 đến năm 2013 69 Bảng 2.2: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại Thành phố Hà Nội 71 Bảng 2.3: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại quận Hoàng Mai 72 Bảng 2.4: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại quận Cầu Giấy 73 Bảng 2.5: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại huyện Từ Liêm (cũ) 73
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các biện pháp ngăn chặn (BPNC) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các BPNC là công cụ hữu hiệu giúp cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) ngăn chặn kịp thời những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Pháp luật TTHS Việt Nam quy định BPNC gồm có: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp mang tính cưỡng chế rất nghiêm khắc, có tính tước đoạt tự do của bị can, bị cáo. Thực tiễn tổng kết các BPNC ở nước ta trong những năm qua cho thấy các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được áp dụng phổ biến trong các vụ án hiǹ h sự . Theo phân tích của Vụ 4 – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), năm 2013 các cơ quan chức năng bắt, tạm giữ về hình sự 39.175 trường hợp (tăng 0,76% so với năm 2012), đã giải quyết 38.109 trường hợp, trong đó, xử lý hình sự 36.861 người tương đương tỷ lệ 96,73% (tăng 0,73% so với cùng kỳ năm 2012). Tổng số người bị tạm giam năm 2012 là 95.304 người, nhưng năm 2013 còn 94.228 người (giảm 1,13%), trong đó xử lý hình sự 47.708 người với tỷ lệ là 50,53% (giảm 2,16% so với cùng kỳ năm 2012). Áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam là cần thiết, tuy nhiên, nếu như các cơ quan tiến hành tố tụng lạm dụng việc tạm giữ, tạm giam không những làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, mà còn làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Nhà nước nếu như để lọt người phạm tội ngoài vòng pháp luật. 1
  9. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định [36]. Quy định này của Hiến pháp đã đ ảm bảo công dân không bị áp dụng BPNC một cách tùy tiện. Trong nhiều trường hợp, nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xét thấy không cần thiết phải áp dụng các biện pháp mạnh trên thì phải thay đổi ngay BPNC khác có tính ít nghiêm khắc hơn, như thế thể hiện sự tự tin trong nhận thức, dám nghĩ, dám làm của người THTT, vừa tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Mặt khác , tinh thần của Nghi ̣quyế t số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về mô ̣t số nhiê ̣m vu ̣ tro ̣ng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới ; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiê ̣n hê ̣ thố ng pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam đế n năm2010, đinh ̣ hướng đế n năm 2020; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiế n lươ ̣c cả i cách tư pháp năm 2020 chỉ rõ nô ̣i dung “Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam…”[5] lại càng thể hiện rõ hơn quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc hạn chế áp dụng các BPNC có tính nghiêm khắc nói chung và hạn chế, thay thế áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng, nhằm bảo đảm yêu 2
  10. cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm gắn với việc bảo vệ quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được xem là các biện pháp có tính ít nghiêm khắc và được các cơ quan THTT áp dụng để thay thế biện pháp tạm giữ, tạm giam khi các cơ quan này xét thấy không cần thiết phải tạm giữ, tạm giam nhưng vẫn cần thiết phải ngăn chặn, phòng ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Trong các biện pháp này thì bảo lĩnh là một biện pháp đảm bảo mục đích trên. Tuy được sử dụng để thay thế biện pháp tạm giam nhưng khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh, các bị can, bị cáo không bị tước đoạt tự do, không bị hạn chế các quyền công dân miễn sao việc thực hiện các quyền này không gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Mặc dù là một biện pháp ưu việt được quy định từ BLTTHS năm 1988, song thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong nhiều năm qua cho thấy, chế định bảo lĩnh ít được các cơ quan THTT sử dụng bởi còn thiế u nhiề u quy pha ̣m hư ớng dẫn cụ thể cầ n làm sáng tỏ xung quanh chế định này như : Căn cứ áp dụng vẫn còn mơ hồ, thiếu quy định cụ thể về tiêu chuẩn của cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh; Nhiều trường hợp người nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án nhưng chưa có biện pháp xử lý trách nhiệm của họ… Tình hình trên xảy ra là do nhiều nguyên nhân , bao gồm yế u tố khách quan và yếu tố chủ quan, vì vậy cần phải nghiên cứu, tìm hiểu và làm sáng tỏ các vướng mắc còn tồn tại của biện pháp bảo lĩnh để từ đó làm rõ hơn về mặt khoa học pháp lý cũng như về mặt thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đáp ứng được yêu cầu , nhiệm vụ trong tiǹ h hiǹ h mới , hướng tới sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật TTHS Viê ̣t Nam. 3
  11. Vì lẽ đó , tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Biê ̣n pháp bảo lin ̃ h trong Luật tố tụng hình sự Viê ̣t Nam " – mô ̣t vấ n đề mang tiń h cấ p bách , thiế t thực không những về mă ̣t lý luâ ̣n mà cả về mă ̣t thực tiễn trong giai đoa ̣n xây dựng Nhà nước pháp quyề n hiê ̣n nay. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Các BPNC trong Luật TTHS giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc áp dụng đúng các BPNC có ảnh hưởng rất lớn đến quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Vì thế, nhận thức đúng, áp dụng đúng các BPNC là cần thiết. Do đó đã có nhiều bài viết về các BPNC được đề cập đến ở các mức độ khác nhau, những khiá ca ̣nh khác nhau. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ , có các đề tài của các tác giả : Nguyễn Văn Điệp, Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996; Lê Thanh Bình, Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; v.v… Ở cấp độ luận án tiến sĩ, có các đề tài của một số tác giả: Nguyễn Văn Điệp, Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Trường Đại học Luật Hà Nô ̣i , 2005; Nguyễn Trọng Phúc, Chế định các biện pháp ngăn chặn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010; v.v… Bên ca ̣nh đó , về giáo trình , sách chuyên khảo , bình luận có các công trình sau: PGS. TS Nguyễn Ngo ̣c Chí (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam , Nxb Đa ̣i ho ̣c Quố c gia , Hà Nội ; Ths. Phạm Thanh Bình và TS .Nguyễn Vạn Nguyên có công trình Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam... đúng pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993; TS. Nguyễn Vạn Nguyên có công triǹ h Các biện pháp ngăn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1995; 4
  12. Ths. Nguyễn Mai Bộ có công triǹ h Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Phạm Thanh Bình, Một số vấn đề chung quanh việc tạm giữ, tạm giam, Nxb. Đồng Nai, 1997; v.v… Ngoài ra một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề câ ̣p đế n các biện pháp ngăn chặn như: Ths.Phạm Thanh Bình, Bắt - Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 3/1998; Nguyễn Văn Dũng, Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và những bất cập, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số 12/2002; TS. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao, Số 7/2005; TS. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề về biện pháp bảo lĩnh quy định trong BLTTHS năm 2003, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao, Số 15/2006; TS.Phạm Mạnh Hùng, Hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp , Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao. Số 21/2007; Nguyễn Đình Bình, Một số ý kiến về việc hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao. Số 5/2008; TS. Trịnh Tiến Việt, Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo liñ h và hướng sửa đổi, bổ sung, Tạp chí nghiên cứu lâ ̣p pháp . Văn phòng Quố c hô ̣i , Số 02/2010; Nguyễn Ngọc Ánh, Một số vướng mắc bất cập khi áp dụng điều 92 BLTTHS, Tạp chí TAND. TAND tối cao, Số 8/2012; Phùng Văn Tài, Những vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 8/2012; Vũ Gia Lâm, Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 9/2012; v.v… Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập đến các BPNC có ý nghĩa là các biện pháp nói chung. Vì nhiều lý do 5
  13. khác nhau, chỉ có một công trình nghiên cứu thật chuyện sâu về biện pháp bảo lĩnh. Để có nhận thức đúng hơn về biện pháp này trong mối liên hệ với các BPNC khác . Như vâ ̣y, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Biện pháp bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan , cấ p thiế t , vừa có tiń h lý luâ ̣n , vừa có tin ́ h thực tiễn . 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn muốn làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, phân tích các khía cạnh của BLTTHS Việt Nam hiện hành và BLTTHS của một số nước trên thế giới quy định về biện pháp bảo lĩnh, đồng thời nghiên cứu tình hình áp dụng biện pháp này trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mu ̣c đích nghiên cứu nêu trên , luâ ̣n văn có những nhi ệm vu ̣ chủ yế u sau: - Dựa trên cơ sở kế t quả tổ ng hơ ̣p các quan điể m của các tác giả trong nước về biê ̣n pháp ngăn chă ̣n , luâ ̣n văn nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về biê ̣n pháp bảo liñ h. - Phân tích , đánh giá các quy định của BLTTHS hiê ̣n hành liên quan đến biê ̣n pháp bảo liñ h trong Luật TTHS. - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp du ̣ng biê ̣n pháp ngăn chă ̣n bảo lĩnh trong luâ ̣t TTHS ở nước ta. - Tìm ra những bất cập hạn chế để đưa ra những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện về pháp luật biện pháp bảo lĩnh trong luật TTHS Việt Nam. 6
  14. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về biê ̣n pháp bảo liñ h trong luâ ̣t TTHS Việt Nam. - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quy định của một số nước trên thế giới và thực tiễn áp dụng để đưa ra những kiến nghị, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trên các vấn đề cơ bản sau: - Cơ sở lý luận về biê ̣n pháp bảo liñ h trong luâ ̣t TTHS Việt Nam - Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đế n biê ̣n pháp bảo liñ h trong luâ ̣t TTHS Việt Nam. - Về thực trạng áp du ̣ng quy đinh ̣ của pháp luâ ̣t tố tu ̣ng hiǹ h sự hiê ̣n hành về biê ̣n pháp bảo liñ h. - Các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiê ̣n các quy đinh ̣ của pháp luâ ̣t tố tu ̣ng hin ̀ h sự hiê ̣n hành về biê ̣n pháp bảo liñ h. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật. Luâ ̣n văn đư ợc thực hiện trên cơ sở quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước về các BPNC. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử du ̣ng các phương pháp nghiên cứu cụ thể và đ ặc thù của khoa h ọc xã hội như phương pháp phân tích và t ổng hợp; phương pháp đố i chiế u ; phương pháp diễn dich ̣ ; phương pháp quy nạp ; phương pháp thố ng kê , điề u tra xã h ội ho ̣c để tổ ng h ợp các tri thức khoa ho ̣c và luâ ̣n chứng các vấ n đề tương ứng đươ ̣c nghiên cứu trong luâ ̣n văn . 7
  15. 6. Những đóng góp của luận văn 6.1. Về mặt lý luận - Luận văn đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về biê ̣n pháp bảo lĩnh trong Luâ ̣t TTHS Viê ̣t Nam. - Luận văn đã tìm hiểu, phân tích các quy định của một số nước trên thế giới về biện pháp bảo lĩnh, để từ đó kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của các nước nhằm tiếp tục phát triển các quy định của pháp luật trong nước về chế định này. 6.2. Về mặt thực tiễn - Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của BLTTHS và đánh giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn áp dụng biê ̣n pháp bảo liñ h trong Luâ ̣t TTHS Việt Nam, từ đó tìm ra được những hạn chế bất cập về biê ̣n pháp bảo liñ h trong luâ ̣t TTHS và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế. - Luận văn đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường biê ̣n pháp bảo liñ h trong Luâ ̣t TTHS Viê ̣t Nam. - Kế t quả nghiên cứu của luâ ̣n văn còn phục vụ cho viê ̣c trang bi như ̣ ̃ ng kiế n thức chuyên sâu cho các cán bô ̣ đang công tác ta ̣i các Cơ quan đi ều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá triǹ h giải quyế t vu ̣ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luâ ̣t. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn kết cấu gồm 3 chương, như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về biê ̣n pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới. Chương 3: Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh và các kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng trong tố tụng hình sự. 8
  16. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Biện pháp bảo lĩnh là một trong sáu BPNC được pháp luật TTHS Việt Nam quy định. Do đó, muốn hiểu rõ bản chất pháp lý của biện pháp bảo lĩnh cần phải nghiên cứu biện pháp này trong mối liên hệ có tính hệ thống với các BPNC. 1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Biện pháp cưỡng chế của Luật TTHS là những biện pháp được thực hiện bởi cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng nhất định áp dụng theo một trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ của mình nhằm bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử [35; 54]. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS, BPNC được xem như một chế định pháp lý quan trọng, bởi việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cá nhân người bị áp dụng, nhất là quyền nhân thân và quyền tự do cá nhân. Các BPNC không ngoài mục đích nào khác là tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan THTT xác định sự thật khách quan của vụ án, phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội chuẩn bị thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện. Tuy nhiên, còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm BPNC, cần được làm sáng tỏ; Theo Điều 79 BLTTHS Việt Nam 2003, mặc dù không đưa ra một khái niệm cụ thể về BPNC, tuy nhiên cũng đã quy định một số nội dung trọng điểm áp dụng các BPNC: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ 9
  17. bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những BPNC sau đây: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [34]. Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn” [9]. Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [53]. Nhìn chung, các quan điểm khoa học trên đã chỉ ra những yếu tố cần có của một BPNC đó là: xác định thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, mục đích áp dụng, được quy định trong BLTTHS. Các BPNC là quy phạm có tính chất lựa chọn, không phải tất cả các đối tượng đều bị áp dụng BPNC mà chỉ trong những trường hợp pháp luật quy định. BPNC thể hiện sự tác động từ phía cơ quan THTT đối với bị can, bị cáo, người bị kết án, đối với người chưa bị khởi tố trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội 10
  18. quả tang. Cần phải hiểu rõ các BPNC không có tính chất trừng phạt, mà chỉ là phương tiện đảm bảo cho việc làm rõ trách nhiệm hình sự và trong thực tế hoàn toàn có khả năng một người phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không bị áp dụng BPNC. Do đó, khái niệm BPNC cần mang tính khoa học, logic, phân định rõ ràng về thẩm quyền áp dụng, căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng và mục đích áp dụng: Biện pháp ngăn chặn là một trong những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, ngăn chặn việc bị can, bị cáo cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án cũng như ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Qua những phân tích trên cho thấy, so với biện pháp cưỡng chế TTHS thì BPNC có nội dung và phạm vi hẹp hơn. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế. Ngoài BPNC, biện pháp cưỡng chế còn có các biện pháp thu thập chứng cứ (khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể…) và các biện pháp bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án (kê biên tài sản, áp giải các bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng...) [54]. Những nhóm biện pháp này cùng song song tồn tại và hỗ trợ lẫn nhau, đều phải giải quyết những nhiệm vụ khác nhau. Đối tượng áp dụng của biện pháp cưỡng chế rộng hơn BPNC, đó là người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, bị can, bị cáo, người làm chứng,… So với các biện pháp cưỡng chế khác trong TTHS thì BPNC có tính nghiêm khắc hơn, nên các cơ quan THTT cũng cần cân nhắc thận trọng khi áp dụng, tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân. Mục đích áp dụng của BPNC là kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người 11
  19. phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật và tạo điều kiện để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không để người phạm tội tiêu hủy chứng cứ, xóa dấu vết, không để người phạm tội và người làm chứng thông cung... Mục đích của biện pháp cưỡng chế bao quát hơn đó là ngoài những mục đích trên biện pháp cưỡng chế còn có mục đích răn đe, đảm bảo cho hoạt động thu thập chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền được thuận lợi để tìm ra chứng cứ xác thực, kịp thời góp phần cho việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử diễn ra thuận lợi. 1.1.2. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Biện pháp bảo lĩnh đã được quy định từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm bảo lĩnh, có thể chỉ ra một số quan điểm sau: Theo BLTTHS năm 2003, quy định tại Điều 92: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh” [34]. Quan điểm này đã làm rõ căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh đó là căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, đây là hai căn cứ quan trọng, là cơ sở pháp lý mà các cơ quan THTT dựa vào đó để áp dụng. Còn điều kiện áp dụng như thế nào thì chưa được đặt ra. Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam – Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự thay thế cho biện pháp tạm giam, được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy 12
  20. cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng [9]. Đồng quan điểm này Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập” [53]. Các quan điểm này đã làm rõ thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đối tượng áp dụng, chủ thể nhận bảo lĩnh, thủ tục bảo lĩnh, mục đích áp dụng biện pháp này nhưng lại thiếu sót khi chưa đưa ra căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Quan điểm của GS. TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là BPNC ít nghiêm khắc hơn tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án [57]. Bên cạnh việc làm sáng tỏ về thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng, tác giả đã chỉ rõ hơn điều kiện và mục đích áp dụng biện pháp bảo lĩnh mà không phải quan điểm nào cũng nêu ra là “được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án”. Tuy nhiên, căn cứ áp dụng BPNC là gì thì chưa được tác giả đề cập. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2