Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới
lượt xem 5
download
Nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới; Chương 2: Tình hình giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển theo cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới; Chương 3: Đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức Thương mại thế giới đối với các nước đang phát triển - kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HÀ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VỚI CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI LUÂN VĂN THẠC SỸ LUẬT Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Xuân Nhự Hà nội – 2005
- iii MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN.……...…………………………………………………..……………… i LỜI CẢM ƠN.……….....…………………………………………………..……………… ii MỤC LỤC…………………………………………………………………………….…… iii DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT………………………...……………………… v DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ……………………………………………………… vi PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………… 1 CHƯƠNG 1 CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC 4 THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 1.1. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 4 ……………………………………………………... 1.1.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế 4 ………………… 1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiệp định chung về Thuế quan và thương mại…………………………………………………….……… 8 1.1.3. Những hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT và sự cần thiết ra đời một cơ chế giải quyết tranh chấp thiết thực và hữu hiệu - cơ chế của WTO………………………………………………………… 16 1.2. CƠ QUAN VÀ NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ 20 GIỚI………………………………………………. 1.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO………………………..……. 20 1.2.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp của 28 WTO…….……………..… 1.3. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI …………………..…………………………………………………… 30 1.3.1. Giai đoạn tham vấn và hoà 30 giải……………………….………………. 1.3.2. Giai đoạn giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm 34 …………………
- iii 1.3.3. Giai đoạn kháng cáo, phúc thẩm……………….…………………….. 40 1.3.4. Giai đoạn thi hành phán quyết và khuyến nghị……………….…… 42 CHƯƠNG 2 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN THEO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 49 2.1. VỊ TRÍ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG 49 WTO……………. 2.2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN THEO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI……………….…………………………………………………. 54 2.3. MỘT SỐ VỤ TRANH CHẤP CỤ THỂ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ĐƯỢC GIẢI QUYẾT THEO CƠ CHẾ CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI …………………………………………………………………... 66 CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT 86 TRIỂN - KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 3.1. ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN…. 86 3.1.1. Ưu điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp của 87 WTO……………... 3.1.2. Hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO………………... 92 3.2. KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM ……………….…………………………. 98 3.2.1. Xác định rõ cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO…. 98 3.2.2. Điều chỉnh chính sách, pháp luật kinh tế - thương mại cho phù hợp với các quy định của WTO……………….……………………………… 102 3.2.3. Nghiên cứu, vận dụng thành công những ưu đãi của WTO dành cho các nước đang phát triển……………….………………………………... 103 3.2.4. Chuẩn bị tốt về luật sư, tài liệu, tài chính và tâm lý khi theo 104 kiện 3.2.5. Tuyên truyền ý thức pháp luật thương mại quốc tế cho các doanh nghiệp và công chúng để hạn chế xảy ra tranh chấp……………. 107
- iii 3.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước 109 3.2.7. Thực hiện tốt các cam kết quốc tế……………….…………………… 110 3.2.8. Đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi để tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế……………….…………………………………………………... 111 KẾT LUẬN……………….………………………………………………………………... 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……….………………………………………… 116
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được coi là một định chế có đặc thù và là điểm nổi bật của hệ thống thương mại toàn cầu. Cơ chế đó không chỉ đơn thuần giải quyết êm thấm các tranh chấp mà nó cũng là công cụ bảo đảm sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết của các chính phủ. Nếu một nước vi phạm những quy định của WTO, nước đó có thể phải đối mặt rất nhiều những trừng phạt thương mại. Về mặt lý thuyết, bất kể nước thành viên nào cũng có thể đưa các tranh chấp ra WTO để giải quyết nhưng trên thực tế, cơ chế này chủ yếu có lợi cho các nước giàu. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO cho phép các bạn hàng đơn phương trừng phạt các nước vi phạm. Đây chính là cơ hội để các cường quốc thương mại thể hiện sức mạnh của mình. Mỹ, EU hoặc Nhật Bản có thể không sợ nếu một nước nhỏ ở Thế giới thứ ba đe doạ trừng phạt họ, nhưng các nước đang phát triển có thể sẽ bị mất nhiều nếu bị các cường quốc thương mại cấm vận. Tuy nhiên, trên thực tế, một số nước đang phát triển đã thành công trong việc thách thức các nước lớn (thí dụ điển hình là vụ Costa Rica kiện Mỹ về quy chế hạn chế nhập khẩu hàng dệt cotton và vụ Venezuela và Brazil kiện Mỹ về quy định xăng dầu, Argentina kiện Mỹ về các biện pháp chống bán phá giá ống dẫn dầu). Các nước đang phát triển cũng tích cực nhờ tới cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa họ với nhau và giải thích quy phạm của WTO. Ví dụ, các vụ kiện giữa Brazil và Philippines (về quy chế nhập khẩu dừa khô); Guatemala và Mexico (chống bán phá giá đối với xi-măng); Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ (hàng dệt may); Indonesia và Argentina (quy chế phòng vệ thương may đối với hàng giày dép); Argentina và Chile (các biện pháp phòng vệ liên quan đến sản phẩm nông nghiệp)… Việt Nam là một nước đang phát triển và đang chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế và nỗ lực đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
- 2 vào cuối năm 2005. Để gia nhập WTO, Việt Nam phải nghiên cứu cơ cấu tổ chức, chức năng của tổ chức này, các hiệp định đa phương của WTO, những quyền lợi, nghĩa vụ, những ưu đãi mà Việt Nam phải gánh vác và được hưởng. Hơn thế nữa, Việt Nam phải tìm hiểu kỹ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để vận dụng nhằm giải quyết các tranh chấp khi nước ta trở thành viên của tổ chức này, đồng thời cũng chứng minh xem cơ chế giải quyết tranh chấp này có hiệu quả không, có đảm bảo khôi phục được quyền lợi của nước bị vi phạm hay không? Từ đó xem xét có nên đưa các tranh chấp ra giải quyết theo cơ chế của WTO hay không và cần phải làm gì khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp đó. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Mục đích nghiên cứu Luận văn đánh thực trạng giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây: - Hệ thống hóa những nguyên tắc, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. - Phân tích thực trạng một số tranh chấp của các nước đang phát triển được giải quyết theo cơ chế của WTO trong thời gian vừa qua. - Đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển theo cơ chế của WTO, từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đề tài đặt ra đối tượng nghiên cứu là những nguyên tắc, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giới hạn trong việc phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại hàng hoá giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển và giữa các nước đang phát triển với nhau
- 3 theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO thông qua một số vụ tranh chấp đã được giải quyết. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh và quy nạp. 6. Những đóng góp của luận văn Luận văn có những đóng góp mới về khoa học sau đây: - Hệ thống hóa những nguyên tắc, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. - Đánh giá thực trạng một số tranh chấp của các nước đang phát triển được giải quyết theo cơ chế của WTO trong thời gian vừa qua. - Rút ra kinh nghiệm với Việt Nam trong quá trình gia nhập và trở thành thành viên của WTO . 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới Chƣơng 2: Tình hình giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển theo cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới Chƣơng 3: Đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức Thương mại thế giới đối với các nước đang phát triển - kinh nghiệm đối với Việt Nam
- 4 CHƢƠNG 1 CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 1.1. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI 1.1.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế 1.1.1.1. Tranh chấp thương mại quốc tế Tranh chấp theo giải thích trong nhiều từ điển được hiểu là sự giành giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào, là "bất đồng, trái ngược nhau". Thông thường khi nói đến tranh chấp, người ta hay liên tưởng đến mâu thuẫn, bất đồng hoặc xung đột giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật. Nguyên nhân cụ thể của tranh chấp có nhiều và đa dạng, phong phú như bản thân các quan hệ xã hội của con người vậy. Tuy nhiên, nguồn gốc của hầu hết mọi tranh chấp đều có thể được nhìn nhận dưới góc độ kinh tế. Nói cách khác, đa số các tranh chấp phát sinh đều có mối liên hệ chặt chẽ tới lợi ích kinh tế. Trong từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học Xã hội Việt Nam xuất bản năm 1992, giải thích rõ ở điểm 2 của nghĩa từ tranh chấp là: đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, thì bất kỳ một hiện tượng xã hội nào cũng có mâu thuẫn tiềm ẩn. Do đó, tranh chấp là một hiện tượng khách quan và sự tồn tại của nó có tính chất tất yếu trong mọi xã hội vốn không ngừng vận động phát triển. Cũng với sự vận động của xã hội loài người, các tranh chấp cũng phát sinh ngày càng nhiều hơn, đa dạng hơn, ở mọi nơi, mọi lúc, dưới mọi hình thức và trong mọi lĩnh vực. Theo tác giả luận văn, có thể hiểu: tranh chấp là sự bất đồng về quyền lợi, lợi ích, quan điểm mà trong đó yêu cầu hay đòi hỏi của một bên bị bên kia từ chối hay khiếu kiện lại.
- 5 Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các tranh chấp không chỉ dừng lại trong phạm vi một quốc gia, mà xuất hiện ngày càng nhiều các tranh chấp ở phạm vi quốc tế. Theo giáo trình luật quốc tế Ấn Độ do tiến sĩ S.K.Kapoor chủ biên tái bản năm 1994 thì khái niệm tranh chấp quốc tế được nêu rõ [26,724]: - Thứ nhất, là sự tranh chấp giữa các quốc gia. Trường hợp có hành vi sai trái với một dân tộc hay với một quốc gia nào đó nhưng nếu chính phủ của quốc gia đó không có hành vi phản ứng lại thì cũng không được coi đó là tranh chấp quốc tế. - Thứ hai, tranh chấp phải xảy ra những hành vi cụ thể từ phía quốc gia gây sự. - Thứ ba, sự tranh chấp phải liên quan đến các đối tượng tranh chấp cụ thể của quốc gia bị hại. Giáo trình về công pháp quốc tế của Mỹ xuất bản năm 1900 nêu rõ: Việc giải quyết các tranh chấp quốc tế là việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Trong thực tiễn, “tranh chấp quốc tế” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng tranh chấp quốc tế bao hàm không chỉ tranh chấp mà cả các tình thế (trạng thái) xung đột giữa các chủ thể của luật quốc tế, mà chủ yếu là các quốc gia; theo nghĩa hẹp thì tranh chấp quốc tế chỉ bao gồm các quan hệ xung đột giữa các chủ thể của luật quốc tế được biểu hiện qua các bên tham gia cụ thể đối với các đối tượng tranh chấp nhất định. Theo Hiến chương Liên hợp quốc có hai loại tranh chấp quốc tế là: các tranh chấp có thể đe doạ hoà bình và an ninh thế giới; và các tranh chấp khác. Tất cả các tranh chấp đều có thể dẫn đến chiến tranh, đe dọa đến hoà bình và an ninh thế giới. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy các tranh chấp về biên giới lãnh thổ là loại tranh chấp có nguy cơ đe dọa hoà bình và an ninh thế giới cao hơn. Trong khi đó, các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại quốc tế có ít nguy cơ gây ra chiến tranh hơn và được xem là loại tranh chấp nằm ở nhóm thứ hai. Như vậy, theo nhận xét ở trên, có thể kết luận tranh chấp thương mại quốc tế là một loại tranh chấp quốc tế, phát sinh trên cơ sở xung đột về mặt quyền lợi hay mâu thuẫn về lợi ích trong các quan hệ thương mại quốc tế.
- 6 Chủ thể tham gia vào tranh chấp thương mại quốc tế có thể là thể nhân, pháp nhân, các tổ chức liên chính phủ hoặc các quốc gia. Như vậy có thể phân chia tranh chấp thương mại quốc tế thành 3 nhóm: thứ nhất là các tranh chấp giữa các chủ thể của luật quốc tế (chủ yếu là các quốc gia); thứ hai là tranh chấp giữa chủ thể của luật quốc tế với pháp nhân hoặc thể nhân; thứ ba là tranh chấp giữa các thể nhân và pháp nhân với nhau. Luận văn này chỉ giới hạn ở việc xem xét tranh chấp giữa các quốc gia thành viên của WTO (tức là tranh chấp thuộc nhóm thứ nhất) liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thoả thuận của WTO. Điều này cũng phù hợp với đặc điểm của WTO với tư cách là tổ chức quốc tế có các thành viên là các quốc gia độc lập có chủ quyền, cùng nhau đàm phán, nhất trí thành lập, thông qua hoặc ký các hiệp định của WTO. Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, cũng như quá trình toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới thì hoạt động của các công ty không chỉ còn giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, hình thành nên những công ty đa quốc gia có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của các nước. Bên cạnh đó, trong quá trình này, các nước cũng muốn bảo hộ nền sản xuất trong nước, mà thực chất là các công ty trong nước, để phát triển nền kinh tế của mình. Chính vì vậy, trên thực tế khi xem xét về các tranh chấp thuộc nhóm thứ nhất, chúng ta có thể đi đến nhận xét là mặc dù các Bên trong tranh chấp là các quốc gia, nhưng thực chất đó là các tranh chấp giữa các pháp nhân với nhau. Trong tranh chấp thương mại quốc tế, các bên có thể sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau để giải quyết. Các biện pháp giải quyết tranh chấp trong Luật quốc tế hiện đại đã được nêu rất rõ trong Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc đó là: - Đàm phán trực tiếp, có các biện pháp hỗ trợ (môi giới, trung gian hoà giải). - Giải quyết tranh chấp bằng các Uỷ ban điều tra và Uỷ ban hoà giải. - Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. - Giải quyết tranh chấp bằng toà án. - Giải quyết tranh chấp tại các tổ chức quốc tế.
- 7 Các biện pháp này có thể chia thành hai nhóm lớn: Nhóm thứ nhất, gồm những biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, thương lượng. Những biện pháp này chủ yếu do các bên tự thực hiện, có thể có sự tham gia giúp đỡ của bên thứ ba không liên quan đến tranh chấp. Trong nhiều tài liệu, các phương pháp giải quyết tranh chấp này còn được gọi là các biện pháp tuỳ chọn. Nhóm thứ hai, gồm những biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua việc sử dụng các cơ quan tư pháp. Việc giải quyết tranh chấp theo các biện pháp này phải có sự tham gia của bên thứ ba. Những quyết định và phán xét của bên thứ ba có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp. 1.1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế Trong Đại từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Văn hoá thông tin xuất bản năm 1998) đã định nghĩa cơ chế là cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện và có đưa ví dụ: cơ chế thị trường, cơ chế điều chỉnh pháp luật,…[15,368]. Có thể hiểu cơ chế là một phương thức, một hệ thống các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho sự vận động của sự vật hay hiện tượng [10,58]. Nói đến cơ chế của một sự vật hiện tượng nào đó, bao giờ cũng gồm hai mặt: bên ngoài (thể hiện ở cách thức tổ chức nên nó) và bên trong (sự tổ chức và hoạt động ngay trong nội tại của sự vật và hiện tượng). Nói cách khác, cơ chế là hệ thống các mối quan hệ hữu cơ, liên quan đến cách thức tổ chức, hoạt động, cách thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Cơ chế là một quá trình, một hệ thống, là tổng thể các yếu tố tạo nên sự hoạt động của sự vật, hiện tượng. Trên cơ sở khái niệm cơ chế nói chung, chúng ta tìm hiểu khái niệm về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Có thể nói cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế là tổng hợp các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Khi nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế cần xem xét từ hai góc độ: mặt động của cơ chế (là những trình tự, thủ tục, nguyên tắc để vận hành cơ chế); mặt tĩnh của cơ chế (là các phương thức tác động vào hay còn gọi là các thiết chế, các cơ quan tham gia vào
- 8 vận hành cơ chế đó theo những nguyên tắc, thủ tục, quy trình đã được luật định, nhằm mục đích cuối cùng là khôi phục lại quyền và lợi ích bị vi phạm và trật tự xã hội). Như vậy, một tranh chấp phát sinh, dù đó là tranh chấp loại gì cũng cần được giải quyết. Để giải quyết tranh chấp cần có cơ quan giải quyết tranh chấp (như toà án, trọng tài chẳng hạn), các nguyên tắc giải quyết tranh chấp, phương pháp, cách thức giải quyết tranh chấp (như thương lượng, hoà giải, phương pháp trọng tài...), các quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp (như trình tự tiến hành, các giai đoạn giải quyết tranh chấp...), các biện pháp bảo đảm thi hành quyết định về việc giải quyết tranh chấp (như bản án, phán quyết). Tất cả những yếu tố này được thể chế hoá thành những quy phạm pháp luật, căn cứ vào đó để tiến hành giải quyết tranh chấp. Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế là hệ thống các cơ quan, các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật về phương pháp, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và bảo đảm thi hành quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp. Từ khái niệm trên, cơ chế giải quyết tranh chấp bao gồm các yếu tố cấu thành sau: - Các cơ quan giải quyết tranh chấp: Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể do Nhà nước thành lập ra, hoặc là do các bên tranh chấp thành lập ra để giải quyết tranh chấp. Thiếu cơ quan giải quyết tranh chấp thì cơ chế giải quyết tranh chấp không thể vận hành được. - Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp: Đây là những quy tắc cơ bản, quan trọng làm cơ sở, làm căn cứ cho việc thành lập cơ quan giải quyết tranh chấp và cho việc ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp. - Hệ thống các quy phạm pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp: Đó là các quy định pháp luật về cách thức giải quyết tranh chấp, về quy trình, thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp. - Tổng thể các quy phạm pháp luật về đảm bảo thi hành quyết định giải quyết tranh chấp: Đây là những quy định pháp luật về các biện pháp, cách thức đảm
- 9 bảo thi hành phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp do cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra. 1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiệp định chung về Thuế quan và Thƣơng mại 1.1.2.1. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại - GATT GATT là một trong những công cụ thương mại đa phương có quy mô lớn đầu tiên trên thế giới, có các thành viên là các quốc gia và vùng lãnh thổ. Phạm vi của GATT chỉ bao gồm các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hoá, hướng tới việc cắt giảm thuế quan đối với hoạt động thương mại quốc tế. GATT ra đời đã đánh dấu một sự thay đổi lớn trong quan hệ kinh tế toàn cầu, thúc đẩy và đảm bảo cho quá trình tự do hoá thương mại thế giới. Đồng thời GATT cũng đã tạo cơ sở cho sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), một tổ chức quốc tế có quy mô lớn về cơ cấu tổ chức và phạm vi điều chỉnh. Năm 1944, trong khi cuộc Chiến tranh thế giới Thứ hai vẫn diễn ra ác liệt, các phái đoàn của các quốc gia đồng minh cùng nhau họp tại Bretton Woods, New Hampshire (Mỹ) để bàn bạc việc hình thành một hệ thống kinh tế quốc tế mới sau khi chiến tranh kết thúc. Các cuộc họp này đã quyết định thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB). Cả hai tổ chức quốc tế này đều không có chức năng giải quyết các vấn đề thương mại quốc tế. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ chủ động thành lập một tổ chức quốc tế quy định nội quy thương mại quốc tế (các hoạt động thương mại của Mỹ vào thời điểm này chiếm một nửa giá trị thương mại thế giới). Đây là đề xuất thành lập Tổ chức thương mại quốc tế (ITO) trực thuộc Liên hợp quốc. Một bản hiến chương chi tiết được gọi là Hiến chương ITO được soạn thảo và đã được các nước đàm phán sửa đổi qua các hội nghị quốc tế tổ chức luân phiên tại London, New York, Geneva và Havana từ năm 1946 đến năm 1947. Dự thảo cuối cùng được hoàn thiện tại La Havana (Cuba) có tên gọi là “Hiến chương La Havana”. Hiến chương La Havana về việc thành lập ITO đã được 53 nước ký, chủ yếu là các quốc gia giành được độc lập sau chiến tranh, trừ các nước Đức, Italia và Nhật Bản.
- 10 Mặc dù Hiến chương ITO đã được nhất trí, nhưng việc phê chuẩn Hiến chương này ở một số nước đã không thực hiện được. Phản ứng mạnh nhất là từ phía Quốc hội Mỹ do sự chỉ trích trong nội bộ nước Mỹ, mặc dù Chính phủ Mỹ là một trong các Chính phủ tham gia tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện Hiến chương này. Vì vậy, việc một số quốc gia (trong đó có Mỹ) không phê chuẩn Hiến chương này nên trên thực tế ITO không được thành lập. Khi nhận thấy việc xây dựng Hiến chương ITO là không thể thành công, Mỹ lại một lần nữa đặt ra kế hoạch đàm phán một Hiệp định tạm thời để làm cơ sở cho các đàm phán về thuế quan và các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế. Có 23 quốc gia tham gia cuộc đàm phán này, và kết quả là một hiệp định gọi là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (gọi tắt là GATT) được hình thành vào năm 1947. Do vậy, GATT được coi như một Hiệp định tạm thời chỉ có hiệu lực cho đến khi Hiến chương ITO được phê chuẩn. Tuy nhiên, Hiến chương ITO không bao giờ trở thành hiện thực và GATT đã có hiệu lực cho đến tận cuối năm 1994. Trong khoảng gần 50 năm, GATT vẫn được coi như là một Hiệp định "tạm thời". Mục đích ngay từ ngày đầu của GATT là từng bước xoá bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan cho sự lưu chuyển của hàng hoá (những thoả thuận này chỉ là tạm thời trong khi ITO chưa ra đời). Việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan của GATT được thực hiện thông qua lộ trình thoả thuận giữa các quốc gia. GATT thiết lập nên các nghĩa vụ đa phương cho thương mại hàng hoá, bao gồm đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, tính công khai, chống phá giá và thuế đối kháng, các biện pháp tự vệ,... Không giống như phần lớn các hiệp định có hiệu lực pháp lý bắt buộc khác, GATT không phải là một hiệp định đơn nhất. GATT bao gồm hàng loạt các Thoả thuận khác nhau, trong đó có Hiệp định chung, các Nghị định thư, Thoả thuận kết nạp các thành viên mới và các Bộ luật của GATT được thông qua tại các vòng đàm phán Kennedy và Tokyo. GATT được xây dựng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là: nguyên tắc Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) được quy định tại Điều I của GATT; nguyên tắc Đãi ngộ quốc
- 11 gia (NT) được quy định tại Điều III của GATT. Hai nguyên tắc này đã đóng vai trò quan trọng và trở thành các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thương mại quốc tế. Việc sử dụng hai nguyên tắc này nhằm mục đích xoá bỏ sự phân biệt đối xử đã được áp dụng lâu dài trong quan hệ thương mại quốc tế. Chính vì vậy chúng đã được tiếp tục sử dụng làm nguyên tắc cơ bản của WTO. Ngoài những qui định về sự không phân biệt đối xử nêu ở trên, trong GATT còn có nhiều điều khoản khác về quy chế tối huệ quốc và nguyên tắc không phân biệt đối xử, liên quan đến các quy định về số lượng hàng hoá nội địa (Điều III, khoản 7), phim ảnh nghệ thuật (Điều IV (b)), quá cảnh hàng hoá (Điều V, khoản 5 và 6), nhãn hiệu xuất xứ hàng hoá (Điều IX, khoản 1), hạn chế về số lượng hàng hoá (Điều XIII khoản 1), doanh nghiệp thương mại nhà nước (Điều XVII, khoản 1), khuyến khích của nhà nước trong việc thành lập các ngành công nghiệp đặc biệt (Điều XVIII, khoản 20), và các biện pháp cần thiết đối với việc nhập khẩu và phân phối các loại hàng hoá khan hiếm (Điều 20, mục (j)). Trong quá trình tồn tại của mình, GATT đã tổ chức 8 cuộc đàm phán quốc tế, trong đó nổi bật là Vòng đàm phán Kennedy (1962-1967), Vòng đàm phán Tokyo (1973-1979), Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994). Sự hoàn thiện của GATT trong quá trình hoạt động của mình là một kết quả đáng kể. Vòng đàm phán Kennedy (62 nước tham gia) đã giải quyết được việc giảm thuế cho 30.000 loại sản phẩm và mức giảm thuế trung bình là 35%. Vòng đàm phán Tokyo (102 nước) giải quyết vấn đề hàng rào mậu dịch phi thuế quan và vấn đề giảm thuế và đã ký kết một số hiệp định thương mại quan trọng, bao gồm Hiệp định chống phá giá, Hiệp định trợ giá và thuế đối kháng, Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại, Hiệp định về định giá Hải quan, Hiệp định về mua bán chính phủ. Còn kết quả của Vòng đàm phán Uruguay là việc hình thành tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Vòng Uruguay (123 nước) đàm phán về hầu hết tất cả các khía cạnh: từ những nội dung truyền thống như cắt giảm thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, cải cách hệ thống pháp lý của GATT, cho đến những vấn đề hoàn toàn mới như thương mại dịch vụ (GATS), bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) và các biện pháp đầu tư liên
- 12 quan đến thương mại (TRIMs). Một trong những thành tựu quan trọng nhất mà vòng đàm phán Uruguay đã đạt được chính là Hiệp định về việc thành lập một tổ chức mới - Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - một phiên bản mới của Tổ chức thương mại quốc tế (ITO). 1.1.2.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT GATT quy định dù nước lớn hay nước nhỏ, khi thấy quyền lợi của mình bị nước thành viên khác đe doạ gây tổn hại hoặc gây tổn hại, có thể yêu cầu GATT giải quyết tranh chấp một cách công bằng. Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT là một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, được thiết lập nhằm mục đích giải quyết tranh chấp, tìm kiếm các cuộc đàm phán mang tính tương hỗ, làm cho hai bên tranh chấp kiềm chế, hiểu biết và thông cảm với nhau, tìm ra biện pháp giải quyết mà hai bên đều có thể chấp nhận được và bảo đảm một phán quyết phải được đồng ý của Hội đồng chung. Cơ chế giải quyết tranh chấp chung trong GATT được quy định chủ yếu trong Điều XXII (thông qua tháng 11 năm 1958) và Điều XXIII của GATT (thông qua tháng 5 năm 1966) và các Điều XIX, XXV và XXVIII. Điều XXII quy định về thủ tục tham vấn giữa các bên liên quan đến việc thực thi GATT, đòi hỏi Hồi đồng chung (đại diện là Ban thư ký) tham vấn cùng với mỗi thành viên trong các sự kiện tranh chấp có liên quan đến bất kỳ một vấn đề nào có ảnh hưởng tới hoạt động của GATT và đưa ra sự quan tâm đặc biệt tới lời phản kháng của mỗi bên. Hội đồng chung theo yêu cầu của mỗi bên, sẽ hỗ trợ việc tham vấn. Điều XXIII đưa ra cơ chế hoà giải giữa các bên trong trường hợp: “lợi ích có được một cách trực tiếp hay gián tiếp theo Hiệp định này bị vô hiệu hay bị suy giảm hoặc việc đạt được bất kỳ mục tiêu nào của Hiệp định này bị cản trở...”. Như vậy, GATT không quy định một cơ quan thường trực, một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh có chức năng giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên. Tiến trình giải quyết tranh chấp theo Hiệp định GATT được thực hiện theo các bước như sau:
- 13 Bước 1: Thương lượng Các nước ký kết Hiệp định chung tuyên bố quyết tâm tăng cường, cải tiến trình tự thương lượng, bảo đảm hưởng ứng kịp thời yêu cầu thương lượng, có tinh thần tích cực để thương lượng kết thúc nhanh chóng và đi tới kết luận thoả đáng đối với cả hai bên. Trong trường hợp các bên tranh chấp không nhất trí với nhau thì tranh chấp sẽ được chuyển sang bước tiếp theo. Bước 2: Trình vụ kiện Chỉ có các quốc gia thành viên (chứ không phải là các cá nhân hay các công ty có tranh chấp liên quan) mới được trình vụ kiện ra GATT. Nước khiếu nại cần chỉ ra các lợi ích có được hợp lý theo Hiệp định đã bị vô hiệu hay suy giảm bởi hành động của nước bị kiện. Nếu vi phạm được chỉ ra, GATT sẽ coi như là có sự vô hiệu hoá và suy giảm, nhưng nếu sau đó GATT tìm thấy không phải sự vô hiệu hóa hay suy giảm thì GATT sẽ bác bỏ điều giả định của bên khiếu nại - tức là, nếu sự vi phạm Hiệp định chưa được khẳng định thì bên khiếu nại sẽ không có quyền áp dụng bất kỳ biện pháp trừng phạt nào đối với bên kia. Bước 3: Tham vấn Tham vấn được đề cập trong Điều XXII và Điều XXIII của Hiệp định GATT và là một phần vô cùng quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp trong Hiệp định GATT. Rất nhiều vụ kiện được giải quyết theo cách này trước khi được đưa đến các bên ký kết. Tham vấn có thể rút ngắn được thời gian giải quyết tranh chấp và tiết kiệm công sức của các bên. Tham vấn phải được lập ra bằng văn bản cùng với lý do của tham vấn. Bản giải thích Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra một số thời hạn trong giai đoạn này. Trước đây, các bên ký kết sẽ trả lời yêu cầu tham vấn "ngay lập tức" và cố gắng kết luận chúng một cách nhanh chóng. Về sau, các bên ký kết trả lời yêu cầu tham vấn trong vòng 10 ngày và tham gia vào quá trình tham vấn liên quan tới vấn đề khiếu nại trong vòng 30 ngày kể từ ngày yêu cầu đầu tiên của bên khiếu nại. Thất bại trong việc tuân thủ thời hạn này sẽ cho phép bên khiếu nại quyền đề nghị thành lập Ban hội thẩm mà không cần phải duy trì quá trình tham vấn. Nếu cả hai bên đồng ý rằng, biện pháp tham vấn là không thích hợp thì bên khiếu nại có thể yêu cầu
- 14 thành lập một Ban hội thẩm. Nếu vấn đề khẩn cấp (bao gồm những tình huống có liên quan đến hàng hoá dễ hỏng đang đi trên đường), thì theo Hiệp định GATT các bên phải tham dự quá trình tham vấn trong vòng 10 ngày và một Ban hội thẩm có thể được yêu cầu thành lập sau 20 ngày nếu như không có thoả thuận nào đạt được. Bước 4: Hoà giải và trọng tài Nếu quá trình tham vấn không đem lại một giải pháp tích cực cho các bên tranh chấp, GATT sẽ cung cấp biện pháp hoà giải từ bên thứ ba. GATT cho phép bất kỳ bên tranh chấp nào đều có thể tìm kiếm sự hoà giải của bên thứ ba. Bản tuyên bố của các Bộ trưởng GATT năm 1982 đã chỉ rõ rằng bất kỳ một nước nào cũng có thể yêu cầu vai trò hoà giải của Tổng giám đốc trong việc giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, phần lớn các bên tranh chấp không phải sử dụng đến biện pháp hoà giải của bên thứ ba. Trong trường hợp tham vấn thất bại, GATT đưa ra biện pháp trọng tài dựa trên sự đồng ý sử dụng bên thứ ba như ở trên. Việc sử dụng trọng tài là hoàn toàn phụ thuộc vào sự đồng ý của các bên tranh chấp và phải được thông báo cho tất cả các bên ký kết Hiệp định GATT. Bước 5: Thành lập Ban hội thẩm hoặc Nhóm công tác Khi biện pháp tham vấn hoặc hoà giải bị thất bại thì bên khiếu nại có thể đưa vấn đề ra trước Hội đồng GATT. Bên khiếu nại phải đệ trình yêu cầu bằng văn bản, chuyển vấn đề tới Nhóm công tác hoặc Ban hội thẩm. Bên khiếu nại sẽ yêu cầu Nhóm công tác hoặc đặc biệt hơn là Ban hội thẩm (sự lựa chọn được hiểu là phụ thuộc vào bên khiếu nại). Ban hội thẩm phải được thành lập muộn nhất vào cuộc họp tiếp theo của Chương trình nghị sự. Việc cơ cấu Ban hội thẩm phải được sự đồng ý của các bên tranh chấp. Tổng giám đốc GATT có thể thành lập Ban hội thẩm nếu thời hạn không được đáp ứng nhưng chỉ sau khi đã tham khảo ý kiến cả hai bên. Bản giải thích vòng đàm phán Uruguay cho phép Tổng giám đốc sau khi tham khảo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng chung được thành lập Ban hội thẩm nếu các thành viên không đạt được sự đồng ý trong vòng 20 ngày kể từ thời điểm đáng lý nó phải được thành lập.
- 15 Sau khi được thành lập, Ban hội thẩm sẽ đưa ra lịch làm việc hay kế hoạch cho các vụ kiện để khuyến khích các bên tranh chấp ngay lập tức đáp ứng thời hạn. Sau đó, Ban hội thẩm thu thập các thông tin về vụ tranh chấp. Ban hội thẩm không phụ thuộc toàn bộ vào thông tin về vụ tranh chấp mà họ nhận được từ các bên tranh chấp. Bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào cũng có thể được hỏi về các thông tin, hoặc thậm chí về các lời khuyên mang tính chất kỹ thuật. Ban hội thẩm cũng sẽ yêu cầu các bản đệ trình phải được lập bằng văn bản, đầu tiên từ bên nguyên đơn sau đó đến bên bị đơn và từ các bên thứ ba có liên quan. Bên nguyên đơn sẽ thường xuyên được yêu cầu đưa ra bản đệ trình ban đầu, để bên bị đơn có sự chuẩn bị tốt cho vụ kiện mà nó phải đối mặt. Trên thực tế, Ban hội thẩm đặt vấn đề tranh chấp trước cả hai bên và mong muốn cả hai bên tranh luận một cách mạnh mẽ và triệt để. Cuối cùng, vào cuối phiên họp, Ban hội thẩm sẽ nghe các bên làm sáng rõ các bản tường trình, đôi khi, các bên bị đơn không thể tiến hành bào chữa cho đến lần đối chất thứ hai. Trên thực tế, nguyên nhân của sự trì hoãn thường là sự chậm chạp của các bên tranh cãi. Ban hội thẩm phải đệ trình bản báo cáo không được quá 6 tháng (không được quá 3 tháng trong trường hợp khẩn cấp) kể từ khi được thành lập hoặc từ khi các điều khoản tham chiếu được đồng ý. Nếu Ban hội thẩm tiến hành nhiều hơn thời gian cho phép, thì phải thông báo cho Hội đồng bằng văn bản nêu rõ lý do của sự trì hoãn, đồng thời dự đoán khi nào Ban hội thẩm sẽ hoàn thành trách nhiệm. Khi đủ thông tin cần thiết, Ban hội thẩm chỉ thị cho Ban thư ký để bắt đầu soạn thảo bản báo cáo mà không có mặt các bên tranh chấp. Báo cáo này sẽ được sử dụng như một nền tảng cho bản báo cáo cuối cùng tới các bên ký kết. Ban hội thẩm sẽ đánh giá một cách khách quan về những thực tế và việc các bên có tuân theo Hiệp định hay không. Trước khi Ban hội thẩm gửi Báo cáo tới các bên ký kết, bản phác thảo của các phần phải được thông báo tới các bên tranh chấp để xin ý kiến bằng văn bản. Sau đó, bản phác thảo của toàn bộ báo cáo bao gồm các quy tắc giải quyết tranh chấp phải được thông báo cho các bên tranh chấp để xin ý kiến thêm. Mục đích là các bên tranh chấp phải được biết tới Báo cáo của Ban hội thẩm và các
- 16 bên tranh chấp phải đạt được một giải pháp thoả đáng trước khi bản báo cáo được trình lên các bên ký kết. Nếu không có sự phản đối nào thì Báo cáo của Ban hội thẩm được chuyển tới các bên ký kết thông qua Hội đồng. Hội đồng tiến hành xem xét bản báo cáo ngay sau đó, mặc dù nó có thể trì hoãn quá trình xem xét cho tới chương trình nghị sự kế tiếp của Hội đồng nếu một bên tranh chấp yêu cầu như vậy. Như vậy Báo cáo của Ban hội thẩm chưa có giá trị pháp lý ngay. Theo thông lệ, Báo cáo của Ban hội thẩm phải được chấp nhận trên cơ sở đồng thuận, có nghĩa là Báo cáo sẽ trở thành "quyết định" chỉ khi không có một bên ký kết nào phản đối. Bước 6: Thực thi phán quyết Các quy tắc giải quyết tranh chấp của Hội đồng sẽ hướng dẫn các bên ký kết loại bỏ hoặc điều chỉnh biện pháp nếu biện pháp không hợp pháp theo Hiệp định GATT, hoặc tiến hành các hành động khác để duy trì sự cân bằng của các nhượng bộ nếu biện pháp tìm thấy là hợp pháp theo Hiệp định GATT nhưng đã làm vô hiệu hoá những lợi ích được trông đợi một cách hợp lý từ Hiệp định GATT. Thông thường, bên khiếu nại có trách nhiệm bảo đảm các vấn đề tranh chấp phải có sự tham dự đều đặn của Hội đồng. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày chấp nhận Báo cáo, bên tranh chấp phải thông báo ngay cho Hội đồng về dự định của họ có liên quan đến việc thực thi các quy tắc và phán quyết trong một thời hạn hợp lý dành cho thành viên vi phạm phụ thuộc vào sự đồng ý của Hội đồng, hoặc các bên tranh chấp, hoặc sẽ được quyết định bởi trọng tài. Thời hạn hợp lý này thông thường không vượt quá 15 tháng kể từ khi chấp nhận bản báo cáo của Ban hội thẩm. Sáu tháng sau khi đưa ra một khoảng thời hạn hợp lý cho việc thực thi, vấn đề sẽ tự động được đưa vào chương trình nghị sự của Hội đồng và tiếp tục được duy trì trong chương trình nghị sự của Hội đồng cho đến khi giải quyết ít nhất là 10 ngày trước mỗi cuộc họp của Hội đồng, thành viên vi phạm phải thông báo bằng văn bản tới Hội đồng về tiến triển trong việc thực thi phán quyết. 1.1.3. Những hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT và sự cần thiết ra đời một cơ chế giải quyết tranh chấp thiết thực và hữu hiệu - cơ chế của WTO
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 349 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn