intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

17
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn có mục đích làm rõ hơn về lý luận chế định các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự để đánh giá và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về vấn đề này. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------------------- TRẦN THỊ THANH THỦY c¸c t×nh tiÕt lo¹i trõ tr¸ch nhiÖm h×nh sù trong luËt h×nh sù viÖt nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------------------- TRẦN THỊ THANH THỦY c¸c t×nh tiÕt lo¹i trõ tr¸ch nhiÖm h×nh sù trong luËt h×nh sù viÖt nam Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa HÀ NỘI – 2015
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ................................................................. 7 1.1. Khái niệm các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự................................. 7 1.1.1. Các cách hiểu và tên gọi khác nhau về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự ............................................................................................................... 7 1.1.2. Định nghĩa và các đặc điểm của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự ............................................................................................................. 13 1.2. Phạm vi các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự ................................... 21 1.3. Phân biệt các tình tiết loại trừ TNHS với những trường hợp không có TNHS và miễn TNHS ..................................................................................... 23 1.4. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự ............................................................................................................. 26 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ...................................................... 26 1.4.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay ............ 28 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 30 CHƢƠNG 2: CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH ....................... 32 2.1. Loại trừ trách nhiệm hình sự do phòng vệ chính đáng .......................... 32 2.1.1. Khái niệm phòng vệ chính đáng ......................................................... 32 2.1.2. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng ............................................. 34 2.2. Loại trừ trách nhiệm hình sự do tình thế cấp thiết................................. 43 2.2.1. Khái niệm tình thế cấp thiết................................................................ 43
  4. 2.2.2. Các điều kiện của tình thế cấp thiết .................................................... 45 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 50 CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...... 52 3.1. Đánh giá các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS Việt Nam .................. 52 3.2. Hoàn thiện BLHS quy định về các tình tiết loại trừ TNHS ..................... 57 3.2.1. Hoàn thiện quy định về phòng vệ chính đáng ....................................... 58 3.2.2. Bổ sung quy định về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự khác ... 60 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 69 KẾT LUẬN .................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73
  5. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nội dung trong luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu, các trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Ngƣời cam đoan Trần Thị Thanh Thủy
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CHLB: Cộng hòa Liên bang CHND: Cộng hòa nhân dân CTTP: Cấu thành tội phạm PLHS: Pháp luật hình sự PVCĐ: Phòng vệ chính đáng TTCT: Tình thế cấp thiết TNHS: Trách nhiệm hình sự TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trách nhiệm hình sự (TNHS) là một dạng trách nhiệm pháp lý buộc người phạm tội phải chịu chế tài hình sự được luật hình sự quy định. Theo đó, luật hình sự có nhiệm vụ xác định các hành vi vi phạm pháp luật là tội phạm và phải chịu TNHS. Bên cạnh đó, luật hình sự cũng có những quy định về các trường hợp mà hành vi đã thực hiện về hình thức tuy có các dấu hiệu của tội phạm nhưng vì có những tình tiết đặc biệt nên không bị coi là tội phạm và không phải chịu TNHS. Luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành chưa có tên gọi cho các tình tiết này mà chỉ có tên gọi cho từng tình tiết cụ thể, đó là phòng vệ chính đáng (Điều 15) và tình thế cấp thiết (Điều 16). Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết này được các nhà khoa học gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau. Các tên gọi khác nhau đó là: “căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm cho xã hội”; “những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”; “các yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”; “những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự”; “các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi” và “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự”... Mặc dù chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ như kể trên nhưng xét về nội dung, các trường hợp này đều được hiểu không khác nhau và hậu quả pháp lý mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau – không phải chịu TNHS. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả chọn thuật ngữ “các tình tiết loại trừ TNHS” theo cách gọi trong Giáo trình Luật hình sự (Phần chung) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2003). Cùng với chế định TNHS, chế định “các tình tiết loại trừ TNHS” có ý nghĩa trong việc giải quyết TNHS, là “cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, xây dựng nhà nước pháp 1
  8. quyền XHCN Việt Nam trên con đường đổi mới” [9, tr.280]. Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự và trong thực tiễn, nhận thức và áp dụng các tình tiết loại trừ TNHS đang còn có một số vướng mắc. Bản thân hai tình tiết được quy định trong BLHS hiện hành (phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết) vẫn còn nhận thức và áp dụng chưa thống nhất; bên cạnh đó, phạm vi các tình tiết loại trừ TNHS gồm những trường hợp nào vẫn còn nhiều tranh luận. Hơn nữa, việc Dự thảo BLHS (sửa đổi) đã quy định thêm một số trường hợp cùng với “phòng vệ chính đáng” (PVCĐ) và “tình thế cấp thiết” (TTCT) trong chương mới - chương IV - “Những trường hợp loại trừ TNHS” cũng đòi hỏi có sự nghiên cứu về các trường hợp bổ sung này để làm rõ hơn chế định “các tình tiết loại trừ TNHS”. Với lý do như vậy, tác giả lựa chọn đề tài “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam” làm đề luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định “các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự” trong luật hình sự có ý nghĩa quan trọng về mặt xã hội cũng như về mặt pháp lý hình sự. Do đó, vấn đề này được nhiều nhà khoa học và nhà hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, các Giáo trình Luật hình sự - Phần chung của các cơ sở đào tạo đại học đều có nội dung trình bày những kiến thức cơ bản về chế định này cũng như về nội dung của hai điều luật trong BLHS quy định về phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, đây chỉ là những kiến thức cơ bản, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu sâu về lý luận cũng như thực tiễn. Các công trình nghiên cứu khác về vấn đề mà tác giả luận văn nghiên cứu bao gồm các luận án, luận văn, các sách và các bài báo. Các công trình này có thể được chia thành các nhóm sau: - Nhóm nghiên cứu về nhiều vấn đề của Luật hình sự trong đó có nội dung về chế định mà tác giả luận văn nghiên cứu. Ví dụ: Lê Văn Cảm, Những 2
  9. vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo Sau đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005); Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội (2010); Trịnh Tiến Việt, Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb. Lao động, Hà Nội (2013); - Nhóm nghiên cứu “các trường hợp (tình tiết) loại trừ trách nhiệm hình sự” được hiểu bao gồm cả các trường hợp không có TNHS khác. Do vậy, trong các công trình này, vấn đề mà tác giả luận văn nghiên cứu chỉ là một nội dung trong nhiều nội dung khác được nghiên cứu. Ví dụ: Nguyễn Ngọc Chí, Về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4 (1999); Giang Sơn, Các yếu tố loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, Luận án tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (2002); Trịnh Tiến Việt, Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQG, Luật học, tập 29, số 4 (2013); Nguyễn Tuyết Mai, Hoàn thiện chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 2 (2014);... Như vậy, hai nhóm nghiên cứu này có nội dung nghiên cứu tương đối rộng và nội dung thuộc đề tài luận văn của tác giả không phải là nội dung được tập trung nghiên cứu của các công trình này. - Nhóm nghiên cứu chuyên về chế định phòng vệ chính đáng hoặc về tình tiết cấp thiết. Đây là nhóm có nhiều công trình nghiên cứu để phục vụ trực tiếp việc giải thích, bình luận các điều luật của BLHS. Điểm chung của các công trình này là tập trung giải thích nội dung quy định của BLHS về phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết, từ cơ sở, nội dung, phạm vi đến các vướng mắc có liên quan. Ví dụ: Hoàng Văn Hùng, Tìm hiểu về bản chất của tình thế cấp thiết, Tạp chí Luật học số 5/1999; Nguyễn Đức Mai, Phòng vệ chính đáng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6 (2000); Giang Sơn, Quy định về chế định phòng vệ chính đáng theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện 3
  10. Nhà nước và pháp luật, số 8 (2001); Phạm Quốc Hưng, Phòng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (2001); Đinh Văn Quế, Một số vấn đề phòng vệ chính đáng, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và những vướng mắc trong thực tiễn xét xử, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17 (2009); Nguyễn Hương Giang, Tình thế cấp thiết trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011); Nguyễn Sơn, Phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2014); v.v… Các công trình này đều nghiên cứu từng điều luật trong BLHS mà không gắn kết các điều luật này với nội dung của chế định chung “các tình tiết loại TNHS”. - Nhóm nghiên cứu “các tình tiết loại trừ TNHS” theo nghĩa như cách hiểu trong luận văn của tác giả. Ví dụ: Hoàng Văn Hùng, Các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội (1999);… Các công trình công trình nghiên cứu này tuy đã làm rõ hơn cơ sở lí luận về các tình tiết loại trừ TNHS nhưng mới chỉ tập trung vào hai tình tiết đã được quy định trong BLHS. Tóm lại, các công trình đã được công bố đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận cũng như những vướng mắc trong thực tiễn của chế định các tình tiết loại trừ TNHS. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn pháp lý, vẫn còn một số vấn đề yêu cầu cần được làm rõ hơn như: làm rõ hơn bản chất của các trường hợp được loại trừ TNHS; mối quan hệ giữa chế định này với các trường hợp không có TNHS và miễn TNHS; cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS, cũng như làm rõ nội dung của các quy định mới được bổ sung trong Dự thảo BLHS (sửa đổi) hoặc nội dung liên quan đến thực tiễn gần đây như vấn đề thi hành công vụ và phòng vệ chính đáng. 4
  11. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có mục đích làm rõ hơn về lý luận chế định các tình tiết loại trừ TNHS để đánh giá và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về vấn đề này. Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự; - Giải thích các quy định của BLHS năm 1999 về phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết trong sự so sánh với lý luận và thực tiễn lập pháp của một số quốc gia trên thế giới. Từ đó, tác giả luận văn đề xuất những kiến nghị hoàn thiện chế định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Ngoài cơ sở lý luận của chế định các tình tiết loại trừ TNHS, luận văn còn có các đối tượng nghiên cứu là: các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999, của Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi) và luật hình sự một số quốc gia khác trên thế giới về các tình tiết này. Cụ thể: Các điều luật được nghiên cứu là các điều 15, 16 BLHS Việt Nam năm 1999; các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi); các điều 37, 38, 39, 40, 41,42 BLHS Liên bang Nga; các điều 1, 2, 4, 8, (chương 24) BLHS Thụy Điển; các điều 25, 27, 34 BLHS Cannada; các điều 32, 33, 34 BLHS Cộng hòa Liên bang Đức; các điều 20, 21 BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, so sánh, tổng hợp. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: 5
  12. - Chương 1. Một số vấn đề chung về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự - Chương 2. Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành - Chương 3. Hoàn thiện chế định các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam 6
  13. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự 1.1.1. Các cách hiểu và tên gọi khác nhau về các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự Các tình tiết loại trừ TNHS là chế định không thể thiếu trong luật hình sự của mỗi quốc gia, có quan hệ chặt chẽ với chế định TNHS cũng như các chế định khác để tạo thành cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho việc truy cứu TNHS. Một người chỉ có thể phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại cho xã hội khi họ có đủ điều kiện về chủ thể của tội phạm và có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại. Trái lại, họ sẽ không có TNHS khi thuộc về một trong các trường hợp sau: - Chưa đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật hình sự (PLHS); - Là người đang trong tình trạng mắc bệnh nên mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội hoặc - Không có lỗi (có thể là trường hợp bất khả kháng hoặc trường hợp sự kiện bất ngờ). Các trường hợp này có thể được gọi là các trường hợp không có TNHS. Ngoài các trường hợp trên đây, một người cũng không phải chịu TNHS về hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà mình đã thực hiện nếu việc thực hiện được PLHS cho phép vì có những tình tiết nhất định (như phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp thiết). Những tình tiết này có thể được gọi là các tình tiết loại trừ TNHS. Như vậy, các trường hợp không có TNHS và các tình tiết loại trừ TNHS có sự khác nhau. Tuy nhiên, về vấn đề này hiện có các ý kiến khác nhau. Từ đó dẫn đến có những cách hiểu khác nhau về các tình tiết loại trừ TNHS. Cụ thể: các tình tiết loại trừ TNHS có thể được hiểu theo nghĩa không bao gồm các trường hợp không có TNHS. Cách hiểu khác lại cho rằng, các tình tiết loại trừ TNHS bao gồm tất cả các trường hợp đã được nêu trên. 7
  14. Khái niệm “các tình tiết loại trừ TNHS” trong luận văn của tác giả được sử dụng theo các hiểu thứ nhất (không bao gồm các trường hợp không có TNHS) như đã được khẳng định trong Phần mở đầu. Cách hiểu này cũng được Giáo trình luật hình sự Việt Nam của nhiều cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam sử dụng như trường Đại học Luật Hà Nội, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Huế. Khác với quan điểm trên đây, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (2003) khẳng định các tình loại trừ TNHS còn bao gồm cả “Sự kiện bất ngờ; tuổi chịu trách nhiệm hình sự; không có năng lực trách nhiệm hình sự …” [9, tr. 291]. Cùng với quan điểm trên đây, GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã xác định 10 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: tình tiết chưa đủ tuổi chịu TNHS; tình trạng không có năng lực TNHS; tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể; sự kiện bất ngờ; tình trạng bất khả kháng; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro chấp nhận được về kinh tế hoặc nghề nghiệp [8, các tr.514, tr.515]. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: “Loại trừ trách nhiệm hình sự bao gồm nhiều quy định tạo thành một nhóm quy phạm điều chỉnh hành vi gây hậu quả về hình sự nhưng được loại trừ trách nhiệm hình sự” [11, tr.35]. Theo đó, tác giả xác định 9 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: Sự kiện bất ngờ; tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; chưa đủ tuổi chịu TNHS; bắt người phạm tội; chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro trong nghiên cứu khoa học, trong sản xuất [11; tr.33]. TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: “Loại trừ trách nhiệm hình sự là trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng đối chiếu (căn cứ) vào các quy định của Bộ luật hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Nói một cách khác, trong hành vi 8
  15. của một người khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội do không thỏa mãn ít nhất một trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm, nên tính chất tội phạm của hành vi đó được loại trừ, và logic tương ứng, người thực hiện nó không phải chịu trách nhiệm hình sự hay được loại trừ trách nhiệm hình sự” [54, các tr.17, tr.18]. Theo đó, tác giả xác định 14 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể; sự kiện bất ngờ; chưa đủ tuổi chịu TNHS; tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; sự kiện bất khả kháng; không có lỗi trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác; gây thiệt hại hợp pháp khi bắt người phạm tội; rủi ro trong sản xuất, nghiên cứu khoa học; thi hành quyết định của cấp trên; giúp người đã thành niên tự sát theo yêu cầu tự nguyện của người đó; người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo; hành vi phạm tội thái quá của người thực hành trong đồng phạm [54, các tr.18, tr.26 – tr.28]. TS. Nguyễn Tuyết Mai định nghĩa: “Loại trừ trách nhiệm hình sự là những trường hợp người thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội nhưng được pháp luật xác định không phải chịu trách nhiệm hình sự do: tính nguy hiểm cho xã hội không đáng kể; hoặc thiếu yếu tố của tội phạm; hoặc có căn cứ hợp pháp của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội” [22, tr.12]. Tác giả cũng xác định 14 tình tiết loại trừ TNHS, bao gồm: hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể; sự kiện bất ngờ; chưa đủ tuổi chịu TNHS; tình trạng không có năng lực TNHS; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; không tố giác tội phạm; bị ép buộc đưa hối lộ; tình trạng bất khả kháng; không có lỗi với tình trạng say; bị cưỡng bức; thi hành mệnh lệnh của cấp trên; rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã [22, các tr.12, tr.13]. Tác giả Đinh Văn Quế còn mở rộng hơn nữa khái niệm này khi xác định 18 trường hợp loại trừ TNHS và phân chia thành 3 nhóm: a) Nhóm thứ nhất - những trường hợp “không có năng lực TNHS” (bao gồm ba trường hợp là: tình trạng không có năng lực TNHS; chưa đến tuổi chịu TNHS; chưa bị kết 9
  16. án, chưa bị xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật, chưa được giáo dục); b) Nhóm thứ hai - những trường hợp “không bị coi là có lỗi” (bao gồm 9 trường hợp là: phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; sự kiện bất ngờ; tình trạng không thể khắc phục được; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; rủi ro trong nghề nghiệp hoặc trong sản xuất; không phải chịu TNHS về hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm); c) Nhóm thứ ba - những trường hợp được loại trừ TNHS theo quy định của pháp luật (bao gồm 6 trường hợp là: tính chất nguy hiểm không đáng kể của hành vi; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại chưa tới mức phải truy cứu TNHS; được miễn TNHS; hết thời hiệu truy cứu TNHS; hành vi nguy hiểm cho xã hội không thuộc phạm vi áp dụng BLHS) [24, các tr.18, tr.19]. Trong khoa học hình sự nước ngoài, GS. TSKH luật Xlutxki I.I của Liên bang Nga đã phân các trường hợp loại trừ TNHS thành ba nhóm: a) Nhóm thứ nhất – các tình tiết thể hiện rõ lợi ích cho xã hội tính hợp pháp của hành vi (bao gồm: phòng vệ chính đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt giữ người phạm tội, tình thế cấp thiết, chấp hành mệnh lệnh hợp pháp, thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp và công vụ, thực hiện quyền của mình và bắt buộc phải tuân thủ); b) Nhóm thứ hai – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội và tính phải bị xử phạt của hành vi (bao gồm: tự nguyện đình chỉ tội phạm, sự đồng ý của người bị hại, tính chất nhỏ nhặt của vi phạm pháp luật, sự thay đổi của pháp luật, sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội, hết thời hiệu truy tố hình sự, hết thời hiệu thi hành của bản án); c) Nhóm thứ ba – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi (bao gồm: sự cưỡng bức về thể xác và, sức mạnh không thể chống lại được) [8; các tr.510, tr.511]. Tóm lại, các tình tiết loại trừ TNHS có thể được các tác giả hiểu theo nhiều phạm vi khác nhau. Bên cạnh đó, tên gọi của các trường hợp này cũng có sự không thống nhất. 10
  17. Tên gọi “các tình tiết loại trừ TNHS” là tên gọi được sử dụng trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (2003). Tác giả của Giáo trình này cho rằng “TNHS là hậu quả pháp lý của trường hợp hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm và đối lập với TNHS là không có hay loại trừ TNHS, là hậu quả pháp lý của hành vi gây hậu quả về hình sự nhưng không bị coi là tội phạm” [9, tr.284]. Tác giả luận văn chọn cách gọi này vì nó “… xác định rõ ràng phạm vi điều chỉnh của luật hình sự, đồng thời phù hợp với nhận thức chung của cán bộ áp dụng pháp luật đã được thống nhất lâu nay ở nước ta” [24, tr.9]. Khác với Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, các giáo trình Luật hình sự Việt Nam của hầu hết các cơ sở đào tạo luật khác như trường Đại học Luật Hà Nội (2013), trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), trường Đại học Huế (2001) đều đặt tên cho nhóm các quy phạm này là: “Những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi”. Sở dĩ tên gọi này được lựa chọn vì các tác giả cho rằng “hành vi đã thực hiện, xét về khách quan đã gây ra thiệt hại nhưng xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội... Do không có lỗi nên hành vi gây thiệt hại không bị coi là có tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm” [47, tr.201]. Các tác giả cho rằng, hành vi gây thiệt hại sẽ không phải chịu TNHS vì “xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội”. Do vậy, hành vi được thực hiện tuy gây thiệt hại nhưng không phải là tội phạm. Theo đó, “gốc” của vấn đề là tính chất nguy hiểm cho xã hội bị loại trừ. Từ đó, các tác giả đưa ra định nghĩa về những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là “những tình tiết làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại nên được quy định trong luật hình sự để xác định những trường hợp bình thường là tội phạm nhưng không bị coi là tội phạm khi được thực hiện trong những điều kiện kèm theo tình tiết đó” [47, tr.202]. Như vậy, các tác giả đã xuất phát 11
  18. từ đặc điểm (dấu hiệu) về nội dung của tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội) khi đặt tên gọi riêng cho nhóm các quy phạm này. Ở đây, tính chất nguy hiểm cho xã hội được hiểu bao gồm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi về chủ quan. Nếu hiểu tính nguy hiểm cho xã hội chỉ là tính gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thì tên gọi trên đây sẽ không chính xác vì đặc điểm này “… của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện luôn tồn tại không phụ thuộc vào có hay không có tình tiết phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp thiết” [15, tr.39]. Khác với cách đặt tên trên đây, GS. TSKH. Lê Văn Cảm gọi các tình tiết đó là “Những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”. Trong cuốn “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)”, tác giả cho rằng, “tính chất tội phạm của hành vi là phạm trù rộng hơn và bao trùm lên tất cả các tính chất khác – tính nguy hiểm cho xã hội, tính chất lỗi, và tính chất trái pháp luật hình sự” [8, tr.516]. Theo đó, “những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi là những tình tiết được điều chỉnh trong pháp luật hình sự mà khi có căn cứ do luật định thì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự không bị coi là tội phạm và do vậy, người gây ra thiệt hại đó không phải chịu TNHS” [8; tr.504]. Một tên gọi khác được GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa nêu trong cuốn “Tội phạm và cấu thành tội phạm” là “các căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm cho xã hội”. Cách gọi này xuất phát từ quan điểm cho rằng “hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong BLHS và không thuộc những trường hợp có căn cứ hợp pháp khác. Theo đó, hành vi đã thực hiện tuy được quy định trong BLHS nhưng vẫn không phải là tội phạm nếu chủ thể có căn cứ hợp pháp được quy định trong BLHS khi thực hiện hành vi này” [15, tr.38]. Tác giả của tên gọi này cho rằng, các hành vi được quy định trong BLHS là các hành vi bị cấm nhưng một người vẫn có thể được quyền thực hiện những hành vi có tính gây thiệt hại đã được quy định đó trong trường hợp có căn cứ (tình tiết) nhất định được Bộ luật quy định. Do 12
  19. vậy, những căn cứ (tình tiết) này được coi là các căn cứ hợp pháp của hành vi. Các căn cứ này làm cho hành vi đã thực hiện “...không còn tính trái pháp luật hình sự” [15, tr.39]. Bên cạnh các quan điểm về các tình tiết loại trừ TNHS được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau như đã trình ở trên, còn có quan điểm khoa học của một số nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề loại trừ TNHS. Mỗi nhóm quan điểm nêu trên đều có lập luận khoa học và nhân tố hợp lý riêng của mình. Trên cơ sở tổng kết, tiếp thu các quan điểm khác nhau được giới thiệu khái quát trên đây, tác giả luận văn lựa chọn tên gọi “các tình tiết loại trừ TNHS” và hiểu các tình tiết này theo phạm vi chỉ bao gồm những tình tiết cho phép được thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội. 1.1.2. Định nghĩa và các đặc điểm của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự Các tình tiết loại trừ TNHS là các tình tiết mà khi có một trong các tình tiết này thì người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong luật hình sự vẫn không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, các tình tiết loại trừ TNHS chỉ được đề cập đến trong trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội và về hình thức đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm (CTTP). Nếu không có một trong các tình tiết loại trừ TNHS thì hành vi của họ đã CTTP, TNHS đã được đặt ra và họ phải gánh chịu trách nhiệm này. Nhưng TNHS đã không được đặt ra vì hành vi được thực hiện có một trong các tình tiết đặc biệt này, hay nói cách khác, các tình tiết đặc biệt này đã làm mất đi TNHS. Do có đặc điểm làm mất đi TNHS mà các tình tiết này có thể được gọi là các tình tiết loại trừ TNHS. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp về mặt ngôn ngữ. Theo Từ điển Tiếng Việt, loại trừ có nghĩa là “làm cho mất đi, …” [21, tr.574] và như vậy các tình tiết loại trừ TNHS có nghĩa là các tình tiết làm mất đi TNHS. Khác với các tình tiết loại trừ TNHS, các tình khác như tình tiết chưa đủ tuổi 13
  20. trách nhiệm hình sự hay tình tiết trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay tình tiết sự kiện bất ngờ là các tình tiết phản ánh hành vi thiếu dấu hiệu của tội phạm (dấu hiệu về chủ thể hoặc dấu hiệu về lỗi) và do vậy vấn đề TNHS không được đặt ra. Câu hỏi được đặt ra là tại sao các tình tiết loại trừ TNHS lại có thể làm mất trách nhiệm hình sự mặc dù chủ thể đã có hành vi gây thiệt hại và hành vi này đã được quy định trong luật hình sự? Xét về mặt khách quan, người được loại trừ trách nhiệm hình sự đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội và hành vi này được quy định trong luật hình sự. Xét về mặt chủ quan, họ cũng thấy trước khả năng gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, động cơ thực hiện các hành vi này không phải là động cơ phạm tội mà là động cơ có ích và mục đích hướng tới không phải là gây thiệt hại mà cũng là lợi ích chung, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác. Ví dụ: Trường hợp phải gây thiệt hại cho kẻ tấn công để bảo vệ chính mình hay người khác là trường hợp mà hành vi gây thiệt hại có động cơ và mục đích như vậy. Chính động cơ và mục đích này đã loại trừ trách nhiệm hình sự. Do đó, phòng vệ được coi là một tình tiết loại trừ TNHS. Như vậy, trong trường hợp có tình tiết loại trừ TNHS, chủ thể tuy lựa chọn hành vi gây thiệt hại nhưng không phải là lựa chọn xử sự trái với đòi hỏi của xã hội mà là lựa chọn hành vi cần thiết và phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Điều này cũng có nghĩa, chủ thể không có lỗi (theo đúng nghĩa) đối với hành vi khách quan đã gây thiệt hại. Cũng như trách nhiệm hình sự, các tình tiết loại trừ TNHS cũng cần phải được luật hóa để đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Cơ sở của TNHS phải được luật quy định. Điều này cũng đòi các tình tiết cụ thể cũng như các dấu hiệu của các tình tiết đó cũng phải được luật quy định. Việc được quy định này chính là cơ sở pháp lý cho phép cá nhân được thực hiện hành vi gây thiệt hại mà bình thường là tội phạm. Đây cũng là lý do giải thích tại sao có tác giả gọi các tình tiết này là các căn cứ hợp pháp của hành vi gây thiệt hại. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2