intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ quyết định hình phạt - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:131

31
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngoài lời mở đầu, phụ lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương với nội dung như sau: Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt; quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới về căn cứ quyết định hình phạt; thực tiễn áp dụng căn cứ quyết định hình phạt và giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt của Toà án.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ quyết định hình phạt - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM ĐÌNH DŨNG CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2006
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM ĐÌNH DŨNG CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2006
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt 1.1. Khái niệm quyết định hình phạt. 7 1.1.1. Đặc điểm của quyết định hình phạt. 8 1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt. 17 1.1.3. ý nghĩa của quyết định hình phạt. 19 1.2. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt. 29 1.2.1. Đặc điểm của căn cứ quyết định hình phạt. 29 1.2.2. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt. 33 1.2.3. ý nghĩa của căn cứ quyết định hình phạt. 36 Kết luận chương 1 38 Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới về căn cứ quyết định hình phạt 2.1. Pháp luật hình sự Việt Nam về căn cứ quyết định hình phạt từ năm 1945 đến trước năm 1999. 40 2.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi BLHS năm 1985 ra đời. 40 2.1.2. Từ năm 1985 đến trước khi pháp điển hoá BLHS năm 1999. 44 2.2. Quy định của BLHS năm 1999 về căn cứ quyết định hình phạt. 47 2.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự. 48 2.2.2. Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. 52 2.2.3. Cân nhắc nhân thân người phạm tội. 55
  4. 2.2.4. Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS 61 2.3. Căn cứ quyết định hình phạt trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới. 74 Kết luận chương 2 80 Chương 3: Thực tiễn áp dụng căn cứ quyết định hình phạt và giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt của Toà án 3.1. áp dụng căn cứ quyết định hình phạt trong thực tiễn quyết định hình phạt của Toà án. 82 3.1.1. Kết quả áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong thực tiễn quyết định hình phạt của Tòa án. 82 3.1.2. Những sai sót trong thực tiễn hoạt động quyết định hình phạt của Toà án. 89 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt của Tòa án. 95 3.2.1. Hoàn thiện quy định về các căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999. 96 3.2.2. Khi quyết định hình phạt, Toà án cần tham khảo các bản án mẫu (án lệ) đã được thừa nhận chung do TAND tối cao tập hợp và phát hành. 101 3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt. 106 Kết luận chương 3 108 KẾT LUẬN 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. NHỮNG TỪ VIẾT TẮT Bộ luật hình sự BLHS Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS Cộng hoà xã hội chủ nghĩa CHXHCN Nhà xuất bản Nxb Toà án nhân dân TAND Toà án quân sự TAQS Trách nhiệm hình sự TNHS Xã hội chủ nghĩa XHCN
  6. MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự đặc biệt quan trọng do Toà án cấp sơ thẩm thực hiện trên cơ sở kiểm tra, đánh giá toàn bộ các tình tiết của vụ án theo những quy định của BLTTHS để chứng minh tội phạm, giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với ngƣời bị kết án. Trong giai đoạn này, quyết định hình phạt là hoạt động không thể thiếu sau khi đã định tội danh mà kết quả là Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nƣớc CHXHCN Việt Nam tuyên cho ngƣời bị kết tội một hình phạt cụ thể. Việc Toà án tuyên một hình phạt đảm bảo tính công lý có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý hết sức to lớn. Quyết định hình phạt đúng, đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật hình sự, tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội chính là để bảo vệ pháp chế và chế độ XHCN, là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt. Nhìn chung, quyết định hình phạt đúng không chỉ có tác dụng đối với ngƣời phạm tội mà còn thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và phát huy tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung. Vì vậy, mọi trƣờng hợp áp dụng hình phạt nhẹ hơn hoặc nặng hơn mức cần thiết đối với hành vi phạm tội đều không đảm bảo đƣợc mục đích trừng trị và giáo dục ngƣời phạm tội. Đối với trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú, thực sự ăn năn, hối cải, có khả năng cải tạo tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS... phải có sự khoan hồng. Tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị càng phải nghiêm khắc (hình phạt càng cao). Có nhƣ vậy mới buộc ngƣời phạm tội phải suy nghĩ về những sai lầm, những thiệt hại do mình gây ra cho xã hội, mới thấm thía hậu quả pháp lý mà mình phải gánh chịu để cải tạo thành ngƣời có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, không phạm tội mới và qua đó đáp ứng đƣợc yêu cầu phòng ngừa chung. 1
  7. Trong hoạt động thực tiễn, để quyết định hình phạt đúng, phát huy đƣợc hiệu quả và mục đích của hình phạt không phải là công việc đơn giản vì Hội đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân) không bao giờ quyết định hình phạt lại dựa trên một khuôn mẫu chung, mang tính định sẵn trong mối quan hệ với tính đa dạng của các loại hành vi phạm tội. Đặc biệt, từ khi BLHS đầu tiên ra đời năm 1985, án lệ không còn đƣợc coi là nguồn của pháp luật hình sự thì càng không thể có một hình phạt mẫu với những thông số cho sẵn để hoạt động quyết định hình phạt chỉ việc lắp ráp một cách máy móc. Hệ thống hình phạt đa dạng, với các mức độ nghiêm khắc khác nhau đƣợc quy định trong BLHS tuy đã phát huy đƣợc tác dụng tích cực trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nhƣng việc quy định khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa của hình phạt tù có thời hạn vẫn còn rộng nên dễ tạo ra sự tuỳ tiện trong quyết định hình phạt, không đảm bảo công bằng giữa các trƣờng hợp phạm tội. Mặt khác, hoạt động quyết định hình phạt cũng không cho phép Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đƣợc quyết định hình phạt một cách chủ quan, thiếu căn cứ pháp lý hay đi tìm tội danh cho một hình phạt đã có sẵn... vì kết quả sẽ là sự xâm hại thô bạo các quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời phạm tội, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc pháp chế của Luật hình sự trong một nhà nƣớc pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, để đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật của hoạt động quyết định hình phạt, pháp luật hình sự nƣớc ta đã chính thức ghi nhận các căn cứ quyết định hình phạt trong BLHS để Toà án dựa vào khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực đến nay đã cho thấy vẫn còn nhiều Toà án mắc phải những sai sót nhất định khi thực hiện hoạt động quyết định hình phạt, nhất là trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt. Mặt khác, xuất phát từ việc nhận thức rõ hậu quả tiêu cực cho xã hội do hoạt động quyết định hình phạt không đúng gây ra, chúng tôi cho rằng việc 2
  8. nghiên cứu một cách căn bản, có hệ thống về “Căn cứ quyết định hình phạt” dƣới góc độ lý luận và thực tiễn là hết sức cần thiết và có giá trị nhằm nâng cao nhận thức và khắc phục những vƣớng mắc, thiếu sót trong thực tiễn hoạt động quyết định hình phạt của Toà án. Ngoài ra, nghiên cứu hoàn thiện quy định về các căn cứ quyết định hình phạt cũng là một nhiệm vụ cấp thiết để xây dựng pháp luật hình sự công bằng, nhân đạo, dân chủ và công minh trong nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU: Các căn cứ quyết định hình phạt đƣợc quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999 là cơ sở pháp lý bắt buộc Toà án phải dựa vào khi thực hiện hoạt động quyết định hình phạt. Đây là một chế định quan trọng và không thể thiếu nhằm đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động quyết định hình phạt của Toà án. Chính vì vậy, các căn cứ quyết định hình phạt không chỉ đƣợc đề cập đến trong giáo trình Luật hình sự của các trƣờng đại học nhƣ Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội... để đào tạo cử nhân luật học, cán bộ tƣ pháp tƣơng lai, mà còn là mối quan tâm của các cán bộ làm công tác xét xử, là trọng tâm nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý hình sự nhƣ: TSKH. PGS. Lê Cảm: Về bản chất pháp lý của quy phạm “Nguyên tắc quyết định hình phạt” tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1+2/1989; Nhân thân người phạm tội - Tạp chí Tòa án nhân dân số 10/2001. TSKH. PGS. Lê Cảm và ThS. Trịnh Tiến Việt: Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2002. ThS. Trịnh Tiến Việt: Về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị - Tạp chí Tòa án nhân dân số 13/2004. ThS. Phạm Thanh Bình: Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/1995. 3
  9. ThS. Nguyễn Mai Bộ: Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/1999. ThS. Đinh Văn Quế: Một số điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 1999 về hình phạt và quyết định hình phạt - Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2000. Đặng Xuân Đào: “Một số nội dung mới của các quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2000... Tuy nhiên, những công trình khoa học này chủ yếu nghiên cứu về các căn cứ quyết định hình phạt dƣới góc độ là các căn cứ độc lập hoặc là một phần trong chế định quyết định hình phạt của Luật hình sự nên phần nào chƣa thể hiện đƣợc tính hệ thống, tính toàn diện về lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, các công trình khoa học này cũng chƣa đƣa ra đƣợc các giải pháp hoàn thiện quy định về căn cứ quyết định hình phạt. Điều đó cho thấy yêu cầu nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến căn cứ quyết định hình phạt và hoàn thiện quy định về căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999 là hoàn toàn có giá trị khoa học và rất thiết thực. Làm đƣợc điều này sẽ góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động quyết định hình phạt, qua đó đáp ứng mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xét xử các vụ án hình sự mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã đề ra. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI: Xuất phát từ tình hình nghiên cứu về các căn cứ quyết định hình phạt, chúng tôi nhận thấy cần có sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về các căn cứ quyết định hình phạt đƣợc quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999. Dựa trên kết quả nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực tiễn vận dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong hoạt động xét xử của Toà án các cấp, luận văn không những nhằm tiếp tục phát triển đề tài “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn” mà tác giả đã hoàn 4
  10. thành năm 1995 ở bậc cử nhân luật học mà còn đƣa ra những ý kiến đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến các căn cứ quyết định hình phạt và hoàn thiện quy định về căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999. Cũng qua đó góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động quyết định hình phạt của Toà án để đạt đƣợc mục đích cuối cùng của hình phạt là giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI: Để đạt đƣợc mục đích đã đề ra, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu là những quy định của pháp luật hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999. Trong đó, tập trung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt của Toà án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực (ngày 01/7/2000) đến nay. Qua đó chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và đề xuất ý kiến hoàn thiện các căn cứ quyết định hình phạt nhằm tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động quyết định hình phạt của Toà án đảm bảo tính đúng đắn, hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay. 5. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI: + Cơ sở lý luận: Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - LêNin, đƣờng lối (các Nghị quyết) của Đảng Cộng sản Việt Nam; Chính sách hình sự, chính sách nhân đạo, các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam; các quy định của BLHS năm 1999 về quyết định hình phạt và căn cứ quyết định hình phạt và các văn bản hƣớng dẫn thi hành BLHS năm 1999. + Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn áp dụng căn cứ quyết định hình phạt trong hoạt động quyết định hình phạt của Toà án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực (01/7/2000) đến nay. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 5
  11. Để trình bầy bản luận văn của mình, chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu là: phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp thống kê và phỏng vấn trực tiếp cán bộ làm công tác xét xử ở cơ quan Toà án. 7. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN: Các căn cứ quyết định hình phạt là những vấn đề đƣợc khá nhiều tác giả nghiên cứu dƣới những góc độ khác nhau. Thực tế đó đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu đề tài nhƣng cũng chính là khó khăn lớn đối với tác giả vì sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp về những kiến thức pháp luật hình sự cơ bản đã đƣợc thừa nhận rộng rãi trong khoa học pháp lý. Mặc dù vậy, dựa trên những nghiên cứu lý luận về quyết định hình phạt, tìm hiểu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, pháp luật hình sự một số nƣớc trên thế giới về căn cứ quyết định hình phạt và kết quả đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án, có thể thấy những điểm mới của luận văn là: + Góp phần đảm bảo sự nhận thức thống nhất về nội dung, ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt. + Chỉ ra những sai sót trong thực tiễn vận dụng và nguyên nhân của việc áp dụng chƣa đúng các căn cứ quyết định hình phạt. + Điểm mới quan trọng nhất của luận văn là đƣa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt trong thực tiễn, bao gồm: Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999, cơ sở pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt; Kiến nghị áp dụng căn cứ thực tiễn (án lệ) của hoạt động quyết định hình phạt; Nâng cao ý thức pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt. 8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN: Ngoài lời mở đầu, phụ lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng với nội dung nhƣ sau: 6
  12. Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt. Chƣơng 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới về căn cứ quyết định hình phạt. Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng căn cứ quyết định hình phạt và giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt của Toà án. 7
  13. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT. 1.1. Khái niệm quyết định hình phạt. Định tội danh và quyết định hình phạt là hai nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong đó, hoạt động định tội danh là tiền đề cho hoạt động quyết định hình phạt. Định tội danh là hoạt động đánh giá chính thức về mặt pháp lý hình sự của của Hội đồng xét xử đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm nhằm đạt đƣợc sự thật khách quan là hành vi đó đã thoả mãn các yếu tố cấu thành tội phạm của điều luật cụ thể đƣợc quy định trong phần các tội phạm của BLHS. Đây chính là cơ sở để xác định chính xác TNHS mà ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó phải gánh chịu. Vì vậy, định tội danh và quyết định hình phạt đúng không chỉ đạt đƣợc mục đích quan trọng là giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội mà cao cả hơn chính là sự khẳng định mục tiêu của pháp luật hình sự Việt Nam là: Xét xử đúng ngƣời, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội. Nhƣng, nói nhƣ vậy không có nghĩa là cứ định tội danh đúng thì quyết định hình phạt cũng tất yếu sẽ đúng. Giữa định tội danh và quyết định hình phạt luôn tồn tại mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhƣng mỗi yếu tố lại có tính độc lập tƣơng đối của nó. Quyết định hình phạt đƣợc xem là sự xác định hậu quả pháp lý của tội phạm, tuy phụ thuộc vào hoạt động định tội danh nhƣng quyết định hình phạt với tính độc lập tƣơng đối của mình có khi lại không phản ánh đúng yếu tố mà mình phụ thuộc. Điều đó thể hiện ở việc quyết định hình phạt đã không lựa chọn đúng loại và mức hình phạt phù hợp với tội danh mà hoạt động định tội danh đã khẳng định. Vì vậy, có thể nói quyết định hình phạt là hoạt động giữ vị trí, vai trò không kém phần quan trọng so với định tội danh nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, nghiêm minh, công bằng và đúng pháp luật. 8
  14. 1.1.1. Đặc điểm của quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt là một hoạt động thực tiễn có tính đặc thù của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Dựa vào các quy định của pháp luật hình sự, hoạt động quyết định hình phạt nhằm giải quyết vấn đề TNHS của ngƣời phạm tội trong các trƣờng hợp phạm tội cụ thể. Trên cơ sở đó, hình phạt đƣợc quyết định một cách công bằng, bình đẳng, đảm bảo sự kết hợp giữa trừng trị với giáo dục ngƣời phạm tội và phòng ngừa chung. Qua đó, có thể thấy quyết định hình phạt có những đặc điểm sau: a, Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự của Hội đồng xét xử. Đối tƣợng điều chỉnh của ngành Luật hình sự là những quan hệ xã hội tiêu cực phát sinh giữa một bên là ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm với bên kia là Nhà nƣớc có nghĩa vụ bảo vệ các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ pháp luật hình sự. Trong quan hệ pháp luật hình sự đó, nghĩa vụ và TNHS của ngƣời phạm tội không mặc nhiên phát sinh nếu không có hoạt động xét xử của cơ quan Toà án đƣợc tiến hành trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt những quy trình, thủ tục tố tụng do BLTTHS quy định để chứng minh ngƣời đó phạm tội và áp dụng các biện pháp chế tài của luật hình sự đối với họ. Do đó, quyết định hình phạt luôn luôn là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tiến hành trên cơ sở căn cứ vào các quy định của BLHS về quyết định hình phạt đối với từng trƣờng hợp phạm tội cụ thể. Các quy định của BLHS là những quy phạm pháp luật hình sự có tính khái quát cao và không phải để áp dụng riêng cho một tội phạm cụ thể nào nên quyết định hình phạt không thể mang tính tự động, dập khuôn mà ngƣợc lại luôn đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải có tính sáng tạo. Tức là, sau khi đã thực hiện việc định tội danh, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải cân nhắc, đánh giá, lựa chọn các quy phạm của BLHS (cả phần chung và phần các tội phạm) trên cơ sở nhận thức đúng nội dung, yêu cầu, phù hợp 9
  15. với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng giáo dục, cải tạo của ngƣời phạm tội để quyết định một hình phạt tƣơng xứng. Chỉ khi lựa chọn chính xác các quy phạm của BLHS mới có thể quyết định hình phạt đúng. Do đó, quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và vận dụng các quy phạm pháp luật hình sự một cách sáng tạo của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân để hình phạt đƣợc tuyên không những đảm bảo tính pháp lý, chính trị - xã hội mà còn là phƣơng án tối ƣu để đạt đƣợc các mục đích của hình phạt. Điều này hoàn toàn đúng nhƣ Mác đã viết: “Nếu như luật pháp tự nó vận dụng được thì Toà án sẽ là thừa” 18, tr.90. b, Đối tượng của Quyết định hình phạt là cá nhân người phạm tội. Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay chỉ thừa nhận chủ thể của tội phạm là con ngƣời cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và có lỗi trong điều kiện hoàn toàn có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định tại thời điểm thực hiện tội phạm. Trƣờng hợp, ngƣời bị coi là phạm tội (bị cáo) đƣợc đƣa ra xét xử nhƣng qua quá trình xét xử lại không có tội và đƣợc ghi nhận bằng bản án tuyên vô tội của Toà án thì đƣơng nhiên việc quyết định hình phạt sẽ không diễn ra. Điều này đã cho thấy, quyết định hình phạt chỉ diễn ra khi ngƣời phạm tội qua quá trình xét xử bị khẳng định là có tội bằng bản án kết kết tội của Toà án có thẩm quyền và phải chịu hình phạt theo quy định của BLHS. Do đó, đối tƣợng của quyết định hình phạt chỉ là ngƣời phạm tội bị kết án và chính ngƣời này sẽ phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã tuyên chứ không ai có thể chấp hành thay, cho dù là tự nguyện. Có nhƣ vậy, hình phạt mới phát huy đƣợc tác dụng trừng trị và giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội. Đối với pháp nhân phạm tội, việc quyết định hình phạt cũng đƣợc thực hiện đối với từng cá nhân ngƣời phạm tội trên cơ sở hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, lỗi và TNHS của họ thì hình phạt mới đạt đƣợc mục đích trừng trị và giáo dục ngƣời phạm tội. c, Phạm vi của quyết định hình phạt bao gồm các nội dung: Về lý luận cũng nhƣ thực tiễn, quyết định hình phạt chỉ diễn ra sau khi 10
  16. Toà án đã tiến hành hoạt động định tội danh và chỉ trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội bị khẳng định là có tội. Đây chính là kết quả của hoạt động chứng minh tội phạm do Toà án thực hiện dựa trên các tài liệu, chứng cứ do cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát thu thập và qua hoạt động xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà mà Toà án có đƣợc theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Theo đó, khi bị cáo bị kết tội thì quyết định hình phạt sẽ đƣợc thực hiện bao gồm các nội dung đƣợc sắp xếp theo thứ tự trƣớc, sau trong các trƣờng hợp cụ thể là: Trường hợp người phạm tội bị kết án bằng bản án kết tội của Toà án và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình bằng hình phạt cụ thể. Trong trƣờng hợp này, nội dung đầu tiên của quyết định hình phạt đƣợc thực hiện là hoạt động xác định khung hình phạt. Trong thực tiễn, hoạt động xét xử vụ án hình sự của Toà án cấp sơ thẩm thƣờng đƣợc trải qua 3 giai đoạn là: Định tội - Định khung hình phạt - Quyết định hình phạt. Hoạt động định tội nhằm xác định bị cáo có phạm tội hay không? nếu phạm tội thì phạm tội gì? và thuộc điều luật cụ thể nào trong phần các tội phạm của BLHS. Hoạt động định khung hình phạt nhằm xác định tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc khung nào của điều luật quy định về tội phạm đó. Hoạt động quyết định hình phạt nhằm xác định loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt của điều luật quy định về tội phạm đó. Từ 3 giai đoạn này, xuất hiện vấn đề cần giải quyết là: Giai đoạn định khung thuộc về giai đoạn định tội? hay giai đoạn định khung thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt? Xuất phát từ lập luận là khi thực hiện việc định tội danh, Hội đồng xét xử phải chỉ ra tội phạm mà ngƣời phạm tội thực hiện đƣợc quy định tại điều luật cụ thể nào trong phần các tội phạm của BLHS. Tiếp theo là phải xác định hành vi phạm tội thuộc khung nào của điều luật đó vì đa phần các điều 11
  17. luật quy định về tội phạm cụ thể của BLHS năm 1999 đều có ít nhất từ 2 khung hình phạt đến 6 khung hình phạt (257 điều trên tổng số 267 điều). Do đó, để xác định đƣợc khung hình phạt phải dựa vào cấu thành định khung tăng nặng và cấu thành định khung giảm nhẹ. Với quy trình nhƣ trên, nếu lấy giai đoạn định khung hình phạt để so sánh thì định khung hình phạt sai sẽ dẫn đến quyết định hình phạt sai vì chỉ khi xác định khung hình phạt chính xác thì mới có cơ sở để lựa chọn đúng loại và mức hình phạt cụ thể. Nhƣng cũng là định khung hình phạt sai thì việc định tội danh vẫn đúng vì việc định tội danh không phụ thuộc vào việc xác định khung hình phạt mà dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản (cấu thành định tội). Vì vậy, chúng tôi cho rằng định khung hình phạt là bƣớc đầu của quyết định hình phạt, là cơ sở để quyết định hình phạt đúng nên định khung hình phạt thuộc về quyết định hình phạt. Tuy nhiên, đối với điều luật chỉ quy định một khung hình phạt thì giai đoạn định tội và định khung hình phạt lại là một. Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 có 10 điều luật chỉ gồm 1 khung hình phạt là: Điều 94, Điều 128, Điều 130, Điều 146, Điều 148, Điều 150, Điều 151, Điều 152, Điều 269, Điều 304, Điều 341, Điều 342, Điều 343. Đối với điều luật có từ 2 khung hình phạt trở lên thì định tội và định khung hình phạt vẫn có thể là một nếu tình tiết định tội và định khung hình phạt của hành vi phạm tội đều thuộc về cấu thành tội phạm cơ bản (cấu thành định tội). Để quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải tiến hành quyết định đối với hình phạt chính trƣớc và sau đó mới quyết định hình phạt bổ sung vì hình phạt bổ sung là loại hình phạt không thể tuyên độc lập. Quyết định hình phạt chính là việc lựa chọn loại và mức hình phạt thuộc hệ thống hình phạt chính mà điều luật về tội phạm đã quy định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để áp dụng đối với ngƣời bị kết án. Nếu khung hình phạt quy định nhiều loại hình phạt chính thì việc quyết định hình phạt chỉ đƣợc lựa chọn 1 trong số các loại 12
  18. hình phạt chính đó với mức hình phạt tƣơng xứng. Ví dụ: Theo khoản 1 Điều 145 BLHS năm 1999, ngƣời phạm tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản chỉ bị áp dụng 1 trong 3 loại hình phạt chính đƣợc điều luật quy định là cảnh cáo hoặc cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Qua ví dụ này đã cho thấy, việc lựa chọn hình phạt chính chỉ diễn ra trong số các loại hình phạt chính mà điều luật về tội phạm có quy định và việc xác định mức hình phạt cụ thể chỉ diễn ra trong giới hạn tối thiểu và tối đa của khung hình phạt đó, trừ trƣờng hợp theo quy định tại Điều 47 BLHS năm 1999. Tuy nhiên, việc xác định mức hình phạt chỉ xảy ra khi các loại hình phạt chính đƣợc tuyên là phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Còn với các loại hình phạt chính khác nhƣ: cảnh cáo, trục xuất, tù chung thân, tử hình, việc quyết định hình phạt thực chất chỉ là sự lựa chọn loại hình phạt chính mà không có việc xác định mức hình phạt cụ thể. Quyết định hình phạt bổ sung là việc lựa chọn loại và mức hình phạt mà điều luật về tội phạm có quy định, nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính để áp dụng đối với ngƣời bị kết án. Khác với quyết định hình phạt chính, khi quyết định hình phạt bổ sung, Hội đồng xét xử có thể lựa chọn một hoặc một số hình phạt bổ sung với mức hình phạt tƣơng xứng trong phạm vi điều luật về tội phạm quy định để áp dụng đối với ngƣời bị kết án. Riêng với hình phạt bổ sung là trục xuất thì sẽ không có việc xác định mức hình phạt. Tuy nhiên, việc quyết định hình phạt bổ sung lại không mang tính bắt buộc mà thuộc quyền tuỳ nghi của Hội đồng xét xử. Trong từng trƣờng hợp phạm tội cụ thể, Tòa án có thể cân nhắc việc áp dụng hay không áp dụng hình phạt bổ sung trong phạm vi điều luật cho phép. Cơ sở pháp lý của quyền tuỳ nghi này là khoản 3 Điều 28 BLHS năm 1999: “Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung”. Quy định này đƣợc cụ thể hoá trong các điều luật về tội phạm cụ thể cho phép Hội đồng xét xử có thể áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt bổ sung với ngƣời phạm tội. 13
  19. Nhƣ vậy, bất kỳ ngƣời phạm tội nào bị kết án và phải chịu TNHS cũng đều phải gánh chịu một hình phạt chính đƣợc ghi rõ trong bản án do Toà án tuyên nhƣng không phải ngƣời phạm tội bị kết án nào cũng bị áp dụng hình phạt bổ sung. Điều đó cho thấy trong quyết định hình phạt, quyết định hình phạt chính giữ vị trí quyết định và không thể không đƣợc thực hiện trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội bị kết án và phải chịu TNHS. Trường hợp người phạm tội bị kết tội nhưng được Toà án miễn TNHS đối với tội phạm mà người phạm tội thực hiện. Điều 2 BLHS năm 1999 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy định này đã khẳng định bất kỳ ai nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, thoả mãn các yếu tố cấu thành của một tội phạm cụ thể tƣơng ứng đƣợc quy định trong phần Các tội phạm của BLHS thì sẽ phải chịu TNHS về việc thực hiện tội phạm đó. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của BLHS hiện hành cho thấy có những trƣờng hợp phạm tội (Điều 19, Điều 25, khoản 2 Điều 69, Điều 80, khoản 6 Điều 289, khoản 6 Điều 290, khoản 3 Điều 314), ngƣời phạm tội lại đƣơng nhiên đƣợc miễn TNHS hoặc đƣợc cơ quan tiến hành tố tụng ở mỗi giai đoạn tố tụng quyết định miễn TNHS nếu xét thấy việc miễn TNHS vẫn đảm bảo đƣợc yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo đó, ngƣời phạm tội có thể sẽ không phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm nhƣ không bị truy cứu TNHS, không bị đƣa ra xét xử, không bị áp dụng hình phạt của luật hình sự và đƣơng nhiên không có án tích 33, tr.39. Có thể nói, miễn TNHS là một trong những chính sách khoan hồng, thể hiện bản chất nhân đạo của luật hình sự Việt Nam. Miễn TNHS đƣợc áp dụng đối với ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm khi có căn cứ và thoả mãn các điều kiện do luật hình sự quy định. Song, do TNHS phát sinh từ khi có hành vi phạm tội xảy ra trong thực tế và chỉ kết thúc khi ngƣời bị kết án đƣợc xoá án (không còn án tích) nên việc 14
  20. giải quyết TNHS đối với ngƣời phạm tội sẽ thuộc thẩm quyền của bất kỳ cơ quan tƣ pháp nào (cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án), tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự tƣơng ứng. Điều này cũng có nghĩa là mỗi cơ quan tƣ pháp trên đây đều có quyền miễn TNHS cho ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm khi có những căn cứ và điều kiện nhất định. Vấn đề là việc miễn TNHS do Toà án thực hiện có gì khác so với việc miễn TNHS do cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát thực hiện? Thứ nhất, nếu cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát miễn TNHS cho ngƣời phạm tội thì ngƣời này sẽ không bị truy cứu TNHS, không bị Toà án đƣa ra xét xử và đƣơng nhiên không bị kết tội. Ngƣợc lại, nếu bị đƣa ra xét xử tại Toà án có thẩm quyền thì ngƣời phạm tội phải bị truy cứu TNHS và có thể bị kết tội, bị buộc phải chấp hành hình phạt do Toà án tuyên. Thứ hai, tuy TNHS phát sinh từ khi hành vi phạm tội đƣợc thực hiện, nhƣng TNHS này chỉ chính thức đƣợc bắt đầu thực hiện sau khi bản án kết tội của Toà án đƣợc tuyên có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, nếu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự mà ngƣời phạm tội đƣợc miễn TNHS thì họ vẫn bị kết tội nhƣng vì có đủ các điều kiện do luật hình sự quy định nên ngƣời này đƣợc miễn TNHS, tức là không phải chịu các biện pháp cƣỡng chế của luật hình sự (hình phạt hay các biện pháp tƣ pháp). Tất cả những vấn đề nêu trên đây, chỉ để đƣa đến vấn đề cuối cùng là miễn TNHS thuộc về định tội danh hay miễn TNHS thuộc về quyết định hình phạt? Trƣờng hợp ngƣời phạm tội bị đƣa ra xét xử và bị khẳng định là có tội nhƣng đƣợc miễn TNHS thì có nghĩa là ngƣời phạm tội không bị buộc phải chịu TNHS về tội phạm mà ngƣời này đã thực hiện. Nhƣ vậy, so sánh về trình tự trƣớc, sau thì việc định tội phải đƣợc tiến hành trƣớc vì chỉ trên trên cơ sở tội danh mới xác định ngƣời phạm tội đƣợc miễn hay không đƣợc miễn TNHS về tội phạm mà họ thực hiện. Nếu ngƣời phạm tội không đƣợc miễn TNHS thì việc quyết định hình phạt sẽ đƣợc tiến hành thông qua các nội dung là xác định khung hình phạt, lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2