intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên cơ sở thực tiễn của Tòa án thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến việc trả điều tra bổ sung của Tòa án. Đánh giá thực trạng, nguyên nhân Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của chế định này trong hoạt động tố tụng hình sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên cơ sở thực tiễn của Tòa án thành phố Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NGỌC LAN CHÕ §ÞNH TR¶ Hå S¥ §Ó §IÒU TRA Bæ SUNG CñA TßA ¸N TR£N C¥ Së THùC TIÔN CñA TßA ¸N THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Ngọc Lan
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN ....................................... 7 1.1. Mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam.......................................................................................... 7 1.1.1. Khái quát các mô hình tố tụng hình sự ................................................ 7 1.1.2. Đặc điểm mô hình tố tụng hình sự Việt Nam......................................... 9 1.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam ....................................................................... 13 1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự .................................. 13 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án ................................................................................................. 20 Chương 2: THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................... 26 2.1. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án ................................................................................................. 26 2.1.1. Một số quy định cụ thể ....................................................................... 26 2.1.2. Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung .................................................. 29 2.1.3. Thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung .................................................... 40 2.1.4. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung ........................................... 42
  4. 2.1.5. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong trả hồ sơ để điều tra bổ sung .................................................................................. 43 2.2. Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội ............................................................................... 47 2.2.1. Tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội ............................................................................... 47 2.2.2. Lý do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung ........................................ 49 2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung .......................... 60 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ................................... 66 3.1. Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo hƣớng hoàn thiện việc trả hồ sơ điều tra bổ sung......................................................................... 66 3.2. Nâng cao ý thức công vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ có chức danh tƣ pháp trong việc nghiên cứu vận dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hƣớng dẫn thi hành về trả hồ sơ để điều tra bổ sung ................................................. 71 3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn của những ngƣời tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử .................................... 72 3.4. Tăng cƣờng quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án ........... 74 3.5. Tăng cƣờng công tác tập huấn và rút kinh nghiệm nghiệp vụ ........... 76 3.6. Tăng cƣờng kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác điều tra, truy tố .......................................................................................... 77 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BKS: Biểm kiểm soát BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự TTHS: Tố tụng hình sƣ TTLN: Thông tƣ liên ngành
  6. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Bảng thống kê các vụ án tòa án trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung (từ năm 2009 đến năm 2013) 48
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình giải quyết một vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đó xét xử vụ án hình sự đóng một vai trò quan trọng. Tại phiên tòa, tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập đƣợc trong giai đoạn điều tra, truy tố đều đƣợc đƣa ra xét xử công khai thông qua việc xét hỏi và tranh luận. Trên cơ sở đó, Tòa án ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy định của pháp luật. Việc xét xử công bằng, nghiêm minh sẽ góp phần bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Thông qua việc xét xử, đặc biệt là các phiên tòa công khai sẽ góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm cũng nhƣ các vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên không phải trƣờng hợp nào Tòa án cũng có thể xét xử phù hợp với quy định của pháp luật nếu chỉ thông qua những tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập đƣợc, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa mà có rất nhiều trƣờng hợp không thu thập đƣợc đầy đủ tài liệu chứng cứ để kết luận về tội phạm, ngƣời phạm tội hoặc quá trình điều tra, truy tố còn vi phạm quy định của pháp luật tố tụng hình sự hoặc có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác, có ngƣời đồng phạm khác. Do vậy, Tòa án với tƣ cách là cơ quan xét xử phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong giai đoạn điều tra, truy tố để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ hạn chế đƣợc oan, sai, bỏ lọt tội phạm, từ đó bảo đảm hơn nữa quyền con ngƣời, quyền công dân. 1
  8. Khi nghiên cứu chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành cho thấy nhiều bất cập cần phải đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để thể hiện rõ hơn chức năng của từng cơ quan tố tụng, để có sự nhận thức thống nhất khi áp dụng pháp luật, tránh trƣờng hợp một hồ sơ vụ án hình sự bị trả đi trả lại nhiều lần ảnh hƣởng đến thời hạn giải quyết vụ án hình sự, gây tốn kém chi phí tố tụng, ảnh hƣởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ-TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 và các văn kiện khác của Đảng về cải cách tƣ pháp thì việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong đó có chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là rất cần thiết. Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên cơ sở thực tiễn của Tòa án thành phố Hà Nội” cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Chế định trả điều tra bổ sung nói chung và chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án nói riêng luôn thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Chế định này đƣợc nghiên cứu trong một số tác phẩm của một số nhà khoa học, nghiên cứu dƣới dạng các bài viết, bài báo, chuyên đề… Một số công trình nghiên cứu về vấn đề trả điều tra bổ sung ở Việt Nam cho đến nay: GS. TSKH Lê Cảm – TS. Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ 2
  9. biên), “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền”; PGS.TS Võ Khánh Vinh, “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”; PGS.TS. Trần Văn Độ, “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay”; Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dân tối cao 2008, “Chuyên đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung”; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, “Một số vấn đề về việc Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2008; Tạp chí kiểm sát, số 6/2008, “Chuyên đề về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự”; Tác giả Nguyễn Hải Ninh, “Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về điều tra bổ sung”, Tạp chí Luật học, số 7/2008; Tác giả Nguyễn Hữu Hậu, “Thẩm quyền của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên trong việc đề ra các yêu cầu điều tra và điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 16/2009; Tác giả Lê Ngọc Huấn, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng”, Tạp chí kiểm sát số 10/2009; Tác giả Nguyễn Đình Huề, “Một số vấn đề về trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 4/2009; Tác giả Trần Vi Dân, “Một số giải pháp khắc phục việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại”, Tạp chí kiểm sát số 2/2010; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, “Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2012; Tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, “Một số vấn đề về hoạt động điều tra bổ sung của Viện kiểm sát ở giai đoạn xét xử phúc thẩm”, Tạp chí kiểm sát số 6/2012; Tác giả Vũ Gia Lâm, “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Nguyễn Quang Lộc, “Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Thái Chí Bình, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 về yêu cầu điều tra bổ sung”, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 11/2013; Tác giả 3
  10. Lê Ngọc Duy, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”, Tạp chí kiểm sát số 6/2013; Tác giả Lê Tấn Cƣờng, “Giải pháp để hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố”, Tạp chí kiểm sát số 10/2014; Tác giả Đào Anh Tới, “Hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 13/2014… Các công trình trên, vấn đề trả điều tra bổ sung đƣợc đề cập đến ở các mức độ khác nhau. Có những công trình đề cập đến ý nghĩa, nội dung của chế định này trong Bộ luật TTHS. Nhƣng cũng có những công trình mà tác giả không đồng tình với việc quy định việc tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Với những lập luận của các tác giả này thì xu hƣớng thiên về giữ nguyên chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có hạn chế một số điều kiện. Nhìn chung các công trình nêu trên còn tản mạn, chƣa có công trình nào tập trung phân tích đƣợc một cách cơ bản vai trò, ý nghĩa, hậu quả pháp lý của trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, chƣa giải đáp tổng thể về thực tiễn cũng nhƣ những giải pháp thực hiện trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự mà hiện nay, việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS đang tính đến, khi vị trí pháp lý của tòa án đã khác so với trƣớc khi có Hiến pháp năm 2013. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến việc trả điều tra bổ sung của Tòa án. Đánh giá thực trạng, nguyên nhân Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của chế định này trong hoạt động tố tụng hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: 4
  11. - Nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của Tòa án trong hệ thống cơ quan tƣ pháp hình sự và quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án. - Nêu và phân tích thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; - Nêu giải pháp hoàn thiện, kiến nghị xung quanh tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài tập trung nghiên cứu việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án và Viện kiểm sát (trên địa bàn thành phố Hà Nội); - Số liệu và tƣ liệu về việc trả điều tra bổ sung của Tòa án từ năm 2009 đến năm 2013. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về công tác tƣ pháp và cải cách tƣ pháp. Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong nghiên cứu luận văn gồm: - Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu tại chỗ; - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; - Phƣơng pháp so sánh; - Phƣơng pháp thống kê hình sự; - Phƣơng pháp khảo sát thực tế; - Phƣơng pháp lịch sử… 5. Những điểm mới đóng góp của luận văn - Luận văn nêu đƣợc một số điểm về cơ sở lý luận về trả hồ sơ điều tra bổ sung trong cơ chế mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và Tòa án đƣợc xác định là cơ quan xét xử thực hiện quyền tƣ pháp. 5
  12. - Nêu đƣợc những bất cập của chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung qua thực tiễn xét xử ở Hà Nội. - Kiến nghị xung quanh chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án Chương 2: Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung 6
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN 1.1. Mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam Để nghiên cứu chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trong tố tụng hình sự Việt Nam, cần xuất phát từ đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự mà Việt nam đã áp dụng. Mô hình tố tụng hình sự, theo cách hiểu chung nhất, là sự khái quát cao những đặc trƣng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử) [26]. Nhƣ vậy, xem xét, đánh giá về mô hình tố tụng hình sự đƣợc tiến hành trên các yếu tố cơ bản nhƣ: Địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự; các mục tiêu, nhiệm vụ tố tụng đặt ra cần hƣớng tới; phƣơng pháp, thủ tục tố tụng đƣợc áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.1.1. Khái quát các mô hình tố tụng hình sự Trên thế giới trƣớc đây và hiện nay tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng hình sự khác nhau trong đó có hai loại mô hình tố tụng chủ yếu là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn (mô hình tố tụng hình sự xét hỏi) và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Ngoài ra còn tồn tại mô hình tố tụng hình sự kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng. Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn là huy động các cơ 7
  14. quan tố tụng chuyên trách của Nhà nƣớc (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát/ Viện Công tố, Toà án) vào quá trình đi tìm sự thật của vụ án, các cơ quan này cùng đƣợc giao trách nhiệm chứng minh tội phạm. Thủ tục tố tụng không nặng về buộc tội hay gỡ tội của một bên tranh tụng, do vậy sẽ tránh đƣợc xu hƣớng che giấu sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm khả năng kiểm soát tình hình tội phạm, không bỏ lọt tội phạm. Hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn đƣợc đánh giá là cao hơn so với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng (đại diện của mô hình này là các nƣớc theo hệ thống luật lục địa nhƣ Pháp, Italia, Đức…). Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng là bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội (cơ quan công tố) và bên bào chữa (luật sƣ) trong suốt quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Theo mô hình tố tụng hình sự tranh tụng thì cơ quan công tố không phải là cơ quan tiến hành tố tụng mà đƣợc coi là một bên tham gia tranh tụng. Công tố viên cũng nhƣ luật sƣ bào chữa là những ngƣời có trong tay toàn bộ những chứng cứ của vụ án mà họ tự thu thập đƣợc. Địa vị tố tụng của Công tố viên, bị cáo, ngƣời bào chữa tại phiên toà sơ thẩm đƣợc xác định là các bên có quyền bình đẳng nhƣ nhau trong việc sử dụng tất cả các nguồn lực và phƣơng tiện đƣợc pháp luật cho phép để thực hiện chức năng của mình. Trong quá trình xét xử, công tố viên và luật sƣ bào chữa tranh luận công khai, đóng vai trò chính trong việc thẩm vấn, đối đáp lẫn nhau. Các quan toà chỉ tiếp cận thông tin về vụ án thông qua quá trình tranh tụng giữa Công tố viên và luật sƣ bào chữa. Nguyên tắc tranh tụng xuyên suốt quá trình tố tụng hình sự, kể từ khi bắt đầu cuộc điều tra cho đến khi Toà án ra phán quyết (đại diện của mô hình này là các nƣớc theo hệ thống thông luật nhƣ Anh, Hoa Kỳ, Canada, Ôxtraylia...) Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự xét hỏi kết hợp với tranh tụng là 8
  15. sự giao thoa, tiếp biến giữa các yếu tố tích cực, tiến bộ của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng nhằm hƣớng tới việc xây dựng mô hình tố tụng hình sự có khả năng giải quyết một cách tối ƣu nhiệm vụ phát hiện và xử lý tội phạm, đồng thời bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con ngƣời, quyền công dân. Sự giao thoa giữa các mô hình tố tụng hình sự đƣợc thực hiện theo hƣớng kết hợp những yếu tố tích cực của mô hình thẩm vấn và mô hình tranh tụng. Sự kết hợp này theo tỷ lệ nhƣ thế nào giữa các yếu tố là do sự lựa chọn của các nhà lập pháp trên cơ sở các điều kiện cụ thể về lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội của từng quốc gia (điển hình của mô hình này là Liên Bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc…) 1.1.2. Đặc điểm mô hình tố tụng hình sự Việt Nam Mỗi mô hình tố tụng hình sự trên đây đều có ƣu điểm nhƣợc điểm hạn chế nhất định. Đối với Việt Nam, mô hình tố tụng hình sự trong quá trình phát triển chịu ảnh hƣởng lớn từ mô hình tố tụng hình sự Pháp và mô hình Xô viết (hai mô hình tố tụng hình sự vốn bắt nguồn từ truyền thống luật Châu Âu lục địa) và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn. Hệ thống pháp luật, hệ thống tƣ pháp của Pháp đã hiện diện ở nƣớc ta trong khoảng 80 năm - bên cạnh hệ thống pháp luật và hệ thống tƣ pháp phong kiến bản xứ - đã ảnh hƣởng sâu sắc đến truyền thống, tƣ duy pháp lý ở nƣớc ta. Các Bộ luật tố tụng hình sự đƣợc ban hành và áp dụng trong thời kỳ Pháp thuộc là sự sao chép cơ bản Bộ luật tố tụng hình sự của Pháp thời đó. Sau năm 1945, từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tƣ pháp và hệ thống pháp luật nƣớc ta chịu sự ảnh hƣởng mạnh mẽ của mô hình Xô viết. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự ảnh hƣởng này đƣợc thể hiện đậm nét trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nƣớc ta ban hành năm 1988 và vẫn tiếp tục ảnh hƣởng trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003. 9
  16. Đến nay, tuy trong quá trình phát triển, Việt Nam đã tiếp thu một số hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, nhƣng mô hình tố tụng hình sự ở nƣớc ta cho đến thời điểm ban hành Hiến pháp năm 2013 về cơ bản vẫn là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn. Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự hiện hành thể hiện ở một số điểm sau [26]. + Tố tụng hình sự Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp, xung đột pháp lý giữa các bên, điều này khác với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Vụ án hình sự xảy ra bị xem là đã xâm hại tới trật tự công cộng, lợi ích chung của xã hội và Nhà nƣớc phải có trách nhiệm giải quyết, việc giải quyết vụ án hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nƣớc. Các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng đại diện cho Nhà nƣớc trong giải quyết vụ án hình sự, bị can, bị cáo có vai trò thụ động phụ thuộc rất lớn vào các cơ quan tiến hành tố tụng và gần nhƣ là đối tƣợng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngƣời bị hại không có quyền lựa chọn cách thức giải quyết vụ việc. Khởi tố hay không khởi tố vụ án không phụ thuộc vào ý muốn của ngƣời bị hại, mà hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. + Mục tiêu tố tụng hình sự Việt Nam là tìm ra sự thật, chân lý khách quan của sự việc, mục tiêu này chi phối mọi trình tự, thủ tục, cũng nhƣ thẩm quyền của các chủ thể trong tố tụng hình sự. Pháp luật trao trách nhiệm tìm kiếm chứng cứ, xác định sự thật vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. + Tố tụng hình sự Việt Nam xác định việc tìm kiếm sự thật vụ án bằng phƣơng pháp điều tra, thẩm vấn. Trong giai đoạn điều tra, Điều tra viên thực hiện mọi biện pháp điều tra do pháp luật quy định để thu thập chứng cứ. 10
  17. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát tiếp tục kiểm tra hồ sơ vụ án để ra quyết định truy tố hoặc không truy tố ngƣời phạm tội. Tại phiên tòa áp dụng chủ yếu phƣơng pháp điều tra, thẩm vấn mà không phải là sự đối tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Phƣơng pháp điều tra đƣợc thực hiện dƣới hình thức xét hỏi. Hội đồng xét xử đặt những câu hỏi về từng tình tiết của vụ án nhằm xác minh tính trung thực, tính đúng đắn của các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; thẩm tra các nhân chứng; xem xét những vật chứng liên quan... Sau việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của Kiểm sát viên, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự. + Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án thành các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ở mỗi một giai đoạn thực hiện bởi các chủ thể khác nhau và gắn với quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể nhƣng đều hƣớng tới mục tiêu chung là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Các giai đoạn tố tụng đƣợc tiến hành gắn liền và kế tiếp nhau, giai đoạn tố tụng trƣớc làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau, giai đoạn tố tụng sau kiểm nghiệm lại kết quả đạt đƣợc của giai đoạn tố tụng trƣớc đó. Việc phân chia các giai đoạn tố tụng gắn với quyền hạn, trách nhiệm các chủ thể tiến hành tố tụng nhƣ vậy làm cho các hoạt động tố tụng có tính chuyên nghiệp, tạo nên hiệu quả hoạt động tố tụng đáp ứng yêu cầu điều tra, xử lý tội phạm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, hạn chế việc vi phạm quyền của bị can, bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác. + Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia các chủ thể tố tụng thành hai loại: chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng. Việc phân chia này khác với mô hình tố tụng tranh tụng gồm bên buộc tội, bên gỡ tội và Tòa án trung lập. Chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền chứng minh trong vụ án hình sự, độc quyền trong việc thu thập chứng cứ. Những ngƣời tham gia tố 11
  18. tụng không có quyền thu thập chứng cứ của vụ án, chỉ có quyền cung cấp tài liệu, đồ vật, đƣa ra yêu cầu. Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng luôn ở thế chủ động, từ việc thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ đến việc đƣa ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đối lập với vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng là vai trò thụ động của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo không đƣợc xem là một bên trong quan hệ tố tụng nhƣ trong mô hình tố tụng tranh tụng và trên thực tế, nhiều trƣờng hợp gần nhƣ là đối tƣợng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. + Việc thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam cũng giống với mô hình tố tụng hình sự của nhiều nƣớc trên thế giới, tố tụng hình sự Việt Nam quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội; chức năng bào chữa do ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và ngƣời bào chữa của họ thực hiện; Tòa án thực hiện chức năng xét xử. + Trong tố tụng hình sự Việt Nam luôn tồn tại khái niệm “hồ sơ vụ án hình sự”, điều này ngƣợc lại với mô hình tố tụng tranh tụng. Hồ sơ vụ án hình sự đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng lập thống nhất từ giai đoạn điều tra, chứa đựng các tài liệu, chứng cứ về tội phạm và ngƣời phạm tội và đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào đó để thực hiện các chức năng tố tụng của mình, đồng thời đƣợc bổ sung, hoàn thiện qua từng giai đoạn tố tụng. Với những đặc điểm nêu trên, mô hình tố tụng hình sự nƣớc ta thời gian qua đã phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng bƣớc đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong điều kiện trình độ dân trí cũng nhƣ kinh tế còn thấp. 12
  19. 1.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự Mang đặc điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn nên tồn tại hồ sơ vụ án hình sự và sự phân chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án); ngƣời tiến hành tố tụng (thủ trƣởng, phó thủ trƣởng cơ quan điều tra, điều tra viên; viện trƣởng, phó viện trƣởng viện kiểm sát, kiểm sát viên; chánh án, phó chánh án tòa án, thẩm phán, hội thẩm và thƣ kí tòa án); ngƣời tham gia tố tụng (ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; ngƣời bào chữa; ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự; ngƣời làm chứng; ngƣời giám định và ngƣời phiên dịch), của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự [31, tr. 9]. Giai đoạn tố tụng hình sự là bƣớc của quá trình tố tụng hình sự tƣơng ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tƣ pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ quyền hợp pháp của công dân trong tƣ pháp hình sự [1]. Luật tố tụng hình sự chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn sau: 13
  20. Khởi tố vụ án hình sự: là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, trong đó, cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung và về pháp luật về hình thức của việc điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này đƣợc bắt đầu từ khi nhận đƣợc những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó. Giai đoạn này có ý nghĩa: là sự phản ứng nhanh chóng của Nhà nƣớc đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và ngƣời phạm tội, là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cƣờng pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trƣớc khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. Điều tra vụ án hình sự: là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dƣới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng nhƣ ngƣời có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thƣờng thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc chuyển toàn 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2