Luận văn Thạc sĩ Luật học: Địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
lượt xem 5
download
Đề tài sẽ tập nghiên cứu những quy định pháp lí cũng như những cơ sở lí luận của vấn đề địa vị pháp lý của nhà đầu tư, từ đó xác định rõ quyền của nhà đầu có những quyền, lợi ích cũng như nghĩa vụ gì khi tham gia thị trường chứng khoán. Đề tài sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn về xu hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, cũng như trách nhiệm của nhà đầu tư, qua đó nêu lên kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của nhà đầu tư.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
- Đ ẠI H ỌC QU ỐC GIA H À N ỘI KHOA LU ẬT -------- HO ÀNG V ĂN TH Ứ Đ ỊA V Ị PH ÁP L Ý C ỦA NH À Đ ẦU T Ư TR ÊN TH Ị TR Ư ỜNG CH ỨNG KHO ÁN VI ỆT NAM LU ẬN V ĂN TH ẠC S Ĩ LU ẬT H ỌC H À N ỘI, N ĂM 2009
- Đ ẠI H ỌC QU ỐC GIA H À N ỘI KHOA LU ẬT -------- HO ÀNG V ĂN TH Ứ Đ ỊA V Ị PH ÁP L Ý C ỦA NH À Đ ẦU T Ư TR ÊN TH Ị TR Ư ỜNG CH ỨNG KHO ÁN VI ỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 60 38 50 LU ẬN V ĂN TH ẠC S Ĩ LU ẬT H ỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS, Phạm Duy Nghĩa H À N ỘI, N ĂM 2009
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán hình thành và phát triển như một tất yếu, khi nền kinh tế ấy đạt những tiêu chuẩn nhất định. Tuy nhiên, mức độ phát triển cụ thể thị trường chứng khoán từng quốc gia lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố, trong đó pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Sự khác nhau về mức độ phát triển nền kinh tế - xã hội, tính hoàn thiện, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật là một trong những nhân tố quyết định cho việc vận hành bình thường thị trường chứng khoán. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu phải hình thành và phát triển từng bước thị trường chứng khoán. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra yêu cầu chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Theo đó, luật thị trường chứng khoán nước ta dần được hoàn thiện và đã xác định được các quyền của các chủ thể tham gia thị trường, trong đó có các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, cơ cấu thị trường chứng khoán, trên cơ sở đó thể chế hóa kịp thời, đầy đủ những yêu cầu thị trường chứng khoán đặt ra có ý nghĩa quan trọng. Ở phương diện này, việc nghiên cứu đề tài “Địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán” để từ đó nhận biết quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán có vai trò đặc biệt quan trọng. Do đó, việc nghiên cứu để tìm ra những luận cứ khoa học, những định hướng và giải pháp cho việc bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán là đòi hỏi bức thiết cả về lý luận và thực tiễn. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta, sự ra đời của thị trường chứng khoán gắn với quá trình chuyển đổi nền kinh tế và nó còn khá mới mẻ đối với nhiều người dân. Do vậy việc nghiên cứu về thị trường chứng khoán nói chung và địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nói riêng, trong đó bao gồm cả quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư dưới góc nhìn pháp luật chưa có nhiều đề tài nghiên cứu, đề cập sâu về vấn đề này. Vì vậy, việc cần làm sáng tỏ địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán để đề ra các biện pháp đảm bảo các quyền của nhà đầu tư được đảm bảo trên thực tế, tránh những thiệt hại, rủi ro cho các nhà đầu tư đang đặt ra hết sức cấp bách. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Đề tài sẽ tập nghiên cứu những quy định pháp lí cũng như những cơ sở lí luận của vấn đề địa vị pháp lý của nhà đầu tư, từ đó xác định rõ quyền của nhà đầu có những quyền, lợi ích cũng như nghĩa vụ gì khi tham gia thị trường chứng khoán. Đề tài sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn về xu hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, cũng như trách nhiệm của nhà đầu tư, qua đó nêu lên kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của nhà đầu tư. 4. Phương pháp nghiên cứu luận văn Dựa trên phương pháp của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng các phương pháp sau đây: - Tổng hợp, phân tích các quy định pháp luật hiện hành và thông qua các ví dụ cụ thể liên quan đến nội dung nghiên cứu. - So sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật với thực tiễn liên quan đến quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán để chỉ ra được những điểm hạn chế, không phù hợp trong các quy định pháp luật hiện hành để từ đó có những kiến nghị, đề xuất nhằm tiếp tục bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. 2
- 5. Đóng góp mới của luận văn - Căn cứ thực tế tình hình thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay và thông qua các ví dụ điển hình, luận văn chỉ ra được những điểm còn bất hợp lý, không phù hợp trong quy định của pháp luật chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan về quyền và lợi ích của nhà đầu tư. - Từ việc đánh giá, phân tích đó, luận văn sẽ đề cập những vấn đề thực trạng, lý do và nguyên nhân dẫn đến việc nhà đầu tư cá nhân thường ở vị thế yếu và nhà đầu tư dễ bị các chủ thể khác lợi dụng, làm ảnh hưởng đến quyền của bản thân nhà đầu tư trong thị trường chứng khoán. - Luận văn chỉ ra được những điểm cần thiết phải sớm được sửa đổi, bổ sung cụ thể trong các văn bản pháp luật hiện hành để tạo niệm tin, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư luôn được thực hiện trên thực tế. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thị trường chứng khoán, nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Chương 2: Những quy định về địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. 3
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN, NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. Những vấn đề lý luận về thị trường chứng khoán 1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về chứng khoán Trong đời sống kinh tế, thuật ngữ chứng khoán (stock, security) được tìm hiểu theo những yêu cầu, mục đích khác nhau. Đây là khái niệm phức tạp vì bản thân nó đã hàm chứa một loạt quan hệ kinh tế phức tạp phát sinh giữa người cần vốn và người có vốn. Chứng khoán theo quan điểm truyền thống là phương tiện xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Hình thức tồn tại của chứng khoán rất đa dạng, phụ thuộc vào thực tế phát triển nền kinh tế. Chứng khoán có thể có hình thức chứng chỉ, hình thức bút toán ghi sổ dần phát triển do yêu cầu của nhà phát hành và sở hữu chứng khoán. Khi công nghệ phát triển, hình thức điện tử cũng được ghi nhận như một dạng tồn tại của chứng khoán. Một số nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng chứng khoán là mọi sản phẩm tài chính có thể chuyển nhượng được. Với cách hiểu này, đối tượng được coi là chứng khoán thực sự đa dạng: cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ tại thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng và các loại thương phiếu. Cách hiểu này cũng có thể dẫn tới khả năng thống nhất các bộ phận của thị trường tài chính: thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán thành một thị trường chứng khoán duy nhất. Tuy nhiên, nếu xem xét cấu trúc thị trường tài chính, việc tiếp tục tồn tại những bộ phận thị trường như hiện tại là hoàn toàn cần thiết. Điều này xuất phát từ yêu cầu tác động, phương pháp tác động của Nhà nước đến các bộ phận thị trường là khác nhau. Đối với thị trường tiền tệ, bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng như một biện pháp hữu hiệu và trực tiếp để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Những liệu pháp như tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, các giao dịch liên ngân hàng không thể áp dụng chung cho mọi đối tượng trên thị trường tài chính nói 4
- chung. Mặt khác, nhìn chung các quốc gia trên thế giới đều coi ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước đối với Việt Nam) là cơ quan quản lý thị trường tiền tệ. Đồng thời, những giao dịch ngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng tiền tại thị trường ngoại tệ liên ngân hàng không thể điều chỉnh giống các giao dịch chứng khoán thông thường. Chứng khoán xác nhận quyền, lợi ích của người sở hữu, điều đó cũng có nghĩa là xác định quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét theo phương diện pháp lý. Cho dù chứng khoán có hình thái biểu hiện cụ thể như thế nào thì đều có chung đặc trưng là xác nhận quyền chủ nợ hoặc quyền sở hữu đối với chủ thể phát hành ra nó. Để nhận diện chứng khoán với các đối tượng khác, thường phải dựa trên đặc điểm của chúng. Đặc điểm quan trọng đầu tiên của chứng khoán là tổ chức, đơn vị phát hành ra chúng phải có sự cam kết trả cho người sở hữu chứng khoán một khoản lợi tức trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng vốn. Tính sinh lời của chứng khoán là động lực thúc đẩy người đầu tư mua chứng khoán, và cũng là tiền đề xuất hiện chứng khoán. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở tính sinh lời thì cơ hội đầu tư cũng như hiệu quả đầu tư chưa đạt được. Vì vậy, gắn liền với chứng khoán là khả năng chuyển đổi được thành tiền, người sở hữu chứng khoán có thể chuyển nhượng, có thể đặt lệnh bán nếu thấy không cần thiết phải nắm giữ nó. Tính thanh khoản tạo cho người sở hữu chứng khoán chuyển đổi dạng tài sản từ chứng khoán sang tiền thông qua một giao dịch tại thị trường thứ cấp hoặc thông qua nghiệp vụ ngân hàng. Tính thanh khoản tạo ra sự hấp dẫn đối với người đầu tư, thỏa mãn nhu cầu của họ đồng thời cũng hạn chế rủi ro làm giảm sút giá trị tiền tệ của chứng khoán. Có thể nói rằng, khả năng thanh khoản của mỗi chứng khoán là khác nhau, điều đó cũng có ý nghĩa trong việc xác định hiệu suất vốn đầu tư của nền kinh tế đồng thời tạo ra sức cạnh tranh cho các chủ thể phát hành. Tính thanh khoản của một loại chứng khoán phụ thuộc vào uy tín của chủ thể phát hành, vào chi phí chuyển đổi và sự biến động của thị trường. 5
- Cuối cùng, nói tới chứng khoán, đồng thời cũng phải nói tới tính rủi ro của chứng khoán, thể hiện ngay ở bản chất của hoạt động đầu tư vốn. Cũng như bất kỳ hoạt động đầu tư, kinh doanh nào khác, việc kinh doanh chứng khoán là "đầu tư một lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi trong tương lai" thì cả quãng thời gian đó cũng chính là thời gian chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro tiềm tàng đến đâu còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn cùng các cam kết khác chính là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới độ rủi ro. Mức độ rủi ro của chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khoán. Chứng khoán rất đa dạng về chủng loại và phong phú về cách thức biểu hiện. Đây cũng là một trong những lý do mà pháp luật nhiều quốc gia không đưa ra một định nghĩa cụ thể về chứng khoán. Mặc dù vậy, có thể khái quát một số loại chứng khoán tiêu biểu, hiện đang được phát hành và giao dịch phổ biến. Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận sự góp vốn và quyền liên quan đến phần vốn góp của chủ sở hữu chứng khoán đối với đối tượng phát hành ra nó. Chứng khoán vốn tồn tại dưới hai dạng cơ bản là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Ngoài ra, còn có các chứng khoán phái sinh từ loại chứng khoán vốn như chứng quyền. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận số cổ phần mà cổ đông đó nắm giữ tại một công ty cổ phần và quyền được hưởng một phần lợi nhuận dưới hình thức cổ tức cũng như quyền tham gia quản lý công ty. Cổ phần là phần lợi ích sở hữu của cổ đông đối với tổ chức phát hành. Cổ phần trong công ty rất đa dạng về thể loại và tính chuyển nhượng. Cổ phần phổ thông (common stock) không qui định trước về cổ tức mà cổ đông có thể được hưởng và gắn liền với kết quả kinh doanh của công ty nhưng cổ đông nắm giữ lại được hưởng đầy đủ quyền và lợi ích so với các loại cổ phần khác. Cổ phần ưu đãi (preference stock) xác nhận một số ưu đãi (về tài chính, về một số quyền ưu tiên khác), đồng thời cũng chịu những hạn chế nhất định về quản lý công ty. Do nội dung ưu đãi khác 6
- nhau nên cũng hình thành nhiều loại cổ phiếu ưu đãi khác nhau như cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết. Trong đời sống kinh tế, tùy mục đích của nhà phát hành, còn có thể tồn tại nhiều hình thái cổ phiếu khác, với tính chất là sản phẩm của quá trình phát triển, cải tiến nhằm mang lại khả năng lựa chọn rộng rãi cho các nhà đầu tư, đồng thời cũng tạo ra cơ hội cạnh tranh cho các nhà phát hành. Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ hoặc các quỹ đầu tư phát hành, xác nhận phần vốn góp và quyền hưởng lợi của người đầu tư đối với quỹ. Mỗi quốc gia có thể có mô hình quỹ đầu tư hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư khác nhau nên quyền và lợi ích của người sở hữu chứng chỉ quỹ đầu tư đối với công ty quản lý quỹ có sự khác biệt nhất định nhưng về bản chất, chứng chỉ quĩ đầu tư đều là chứng khoán vốn. Tùy thuộc vào bản chất trong mối quan hệ giữa công ty quản lý quỹ với quỹ đầu tư chứng khoán mà giá trị của chứng chỉ quỹ đầu tư có điểm khác nhau. Trường hợp quỹ đầu tư tồn tại độc lập, có tư cách pháp nhân thì chứng chỉ quỹ đầu tư về bản chất không khác so với cổ phiếu. Trường hợp quỹ đầu tư không tồn tại độc lập, không có tư cách pháp nhân, mặc dù đều là chứng khoán vốn; chứng chỉ quỹ đầu tư khác với cổ phiếu ở chỗ chứng chỉ quỹ đầu tư mang lại cho người đầu tư lợi nhuận không trực tiếp từ hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành mà từ toàn bộ hoạt động đầu tư của quỹ. Một loại chứng khoán rất phổ biến, tạo ra sự ổn định tương đối trong giao dịch trên thị trường là trái phiếu. Trái phiếu là phương tiện vay nợ, theo đó chủ thể phát hành ra nó cam kết sẽ trả lại cả gốc và lãi vào một thời gian nhất định trong tương lai. Với tính chất là một hợp đồng vay, người cấp vốn được hưởng khoản lãi cố định không phụ thuộc vào kết quả sử dụng vốn của người nhận vốn; nhưng không có quyền tham gia hoạt động quản lý đối với bên nhận vốn. Do có sự khác biệt về mệnh giá, về lãi suất, về quyền đối với chủ thể phát hành mà người đầu tư có thể lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp nhất. 7
- Trên thực tế tồn tại rất nhiều loại trái phiếu khác nhau, tùy thuộc vào vị thế của người phát hành cũng như các cam kết đi kèm của nhà phát hành. Vị thế của một loại trái phiếu có liên quan trực tiếp đến tính thanh khoản của trái phiếu và mức độ sôi động của thị trường. Trái phiếu chính phủ có độ an toàn cao, lãi suất loại trái phiếu này thường là cơ sở để các doanh nghiệp tính toán lãi suất trái phiếu dự định phát hành. Trái phiếu doanh nghiệp do doanh nghiệp phát hành nhằm tăng vốn vay để mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, có những khác biệt nhất định so với trái phiếu của các tổ chức tín dụng. Trong mỗi loại trái phiếu, tùy mục đích thu hút đầu tư mà nhà phát hành có thể lựa chọn những loại trái phiếu cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu lãi suất thả nổi, trái phiếu thu nhập, trái phiếu trả trước thường có khả năng thu hút đầu tư nếu xét dưới góc độ cơ hội sinh lời. Trái phiếu chính phủ, trái phiếu có bảo đảm có khả năng thu hút đầu tư nếu xét theo góc độ an toàn. Ngoài những chứng khoán cơ bản nêu trên, có những loại chứng khoán khác như chứng quyền (rights) hoặc bảo chứng phiếu; hợp đồng lựa chọn, hợp đồng giao sau. Chứng quyền hay bảo chứng phiếu đều nhằm tới quyền mua chứng khoán của sở hữu chủ chứng khoán hiện hữu của nhà phát hành, mặc dù nội dung cụ thể có khác nhau. Hợp đồng lựa chọn và hợp đồng giao sau thường chỉ được giao dịch ở các thị trường phát triển và hình thức thể hiện cụ thể cũng có nhiều lai tạp [14]. Như vậy, nhu cầu vốn đã làm nảy sinh rất nhiều loại chứng khoán khác nhau. Các chủ thể có liên quan sẽ lựa chọn cho mình những loại chứng khoán thích hợp nhất để phát hành trên cơ sở đặc tính những loại chứng khoán đó và mục đích huy động vốn của mình. Mặt khác, nhà đầu tư dựa trên khả năng thực tế sẽ quyết định loại chứng khoán phù hợp nhất, đảm bảo tính hiệu quả, tính an toàn đối với quyết định đầu tư. 8
- 1.1.2. Khái quát về thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Cũng như các thị trường khác, thị trường chứng khoán cũng qua những bước phát triển sơ khai ban đầu, sau đó ngày càng đa dạng, phức tạp dần theo sự phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội. Trong nền kinh tế, luôn có sự tồn tại hai thái cực: một cực có vốn cần đầu tư, một cực cần vốn để thực hiện đầu tư kinh doanh. Khi kênh dẫn vốn trực tiếp giữa hai cực đó với nhau được hình thành theo nguyên tắc đầu tư, cũng đồng nghĩa với việc hình thành thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi các giao dịch chứng khoán được tiến hành bởi những đối tượng khác nhau. Đây là thị trường đặc biệt, lưu hành loại hàng hóa đặc biệt là chứng khoán. Sự khác biệt cơ bản đó làm cho nguyên tắc, tổ chức, quản lý thị trường chứng khoán cũng có sự khác biệt so với các thị trường thông thường. Thị trường chứng khoán được hình thành, phát triển trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Đó là nền kinh tế thị trường với những qui luật vốn có của nó. Tại đó, cơ hội kinh doanh, khả năng chuyển đổi mới hình thành và tồn tại. Đối với nền kinh tế tập trung không thực hiện được những hoạt động này. Nếu trong thời kỳ đầu, thị trường chứng khoán chỉ xuất hiện ở các nước có nền kinh tế tự do phát triển như Hà Lan, Anh, Đức, Hoa Kỳ... thì hiện nay mô hình thị trường này đã lan rộng và trở thành hiện tượng phổ biến của các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Mặc dầu vậy, phù hợp với trình độ phát triển nền kinh tế, thực lực nền kinh tế mà mức độ phức tạp, đa dạng cũng như mức độ sôi động của thị trường chứng khoán các quốc gia là khác nhau. Sự khác biệt ấy không chỉ dừng lại giữa các quốc gia, ngay ở những khu vực phát triển kinh tế khác nhau trong một quốc gia, mức độ lưu hoạt vốn của các bộ phận thị trường (mang tính địa phương) cũng khác nhau rõ rệt. Điều đó có thể thấy rất rõ qua hoạt động của các loại thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Đức, Úc, 9
- Nhật Bản... Cùng với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế, hoạt động của thị trường chứng khoán các quốc gia ngày càng trở nên gần nhau hơn, thông qua các liên kết giao dịch, nhu cầu kinh doanh, đầu tư của tất cả các đối tượng. Hình thái tồn tại, hoạt động cụ thể của thị trường chứng khoán rất đa dạng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đối tượng tham gia, đặc tính của hàng hóa giao dịch tại thị trường... và do vậy có nhiều cách phân loại khác nhau. Nếu xét theo tiêu chí lưu thông chứng khoán, có thể phân ra thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Tại thị trường sơ cấp, các chứng khoán lần đầu tiên được bán cho các nhà đầu tư nên còn được gọi là thị trường phát hành. Điều đó cũng có nghĩa, thông qua thị trường sơ cấp, những nguồn đầu tư mới thực sự được chuyển cho nhà phát hành. Thị trường thứ cấp diễn ra các giao dịch chứng khoán chưa được thanh toán. Bộ phận thị trường này không làm tăng nguồn vốn mới cho nền kinh tế nhưng có thể hoạt động liên tục, tạo ra khả năng thanh khoản cho chứng khoán đã phát hành và tăng tối đa hiệu suất sử dụng vốn của nhà phát hành. "Thị trường thứ cấp phục vụ cho hai mục đích chính: thúc đẩy sự tạo vốn cho các doanh nghiệp, chính phủ và tạo ra các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư". Thông qua thị trường thứ cấp, các bên tham gia đều mong muốn đạt tới hiệu ích kinh tế của mình. Hai bộ phận thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp có mối quan hệ nội tại, mật thiết: thị trường sơ cấp là cơ sở, tiền đề; thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có chứng khoán để vận hành thị trường thứ cấp; ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp sẽ khó khăn trong việc phát hành vì chứng khoán hầu như không có khả năng thanh khoản khi chưa đến hạn thanh toán. Nếu xét theo phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán bao gồm thị trường tập trung và không tập trung. Thị trường chứng khoán tập trung diễn ra các hoạt động mua hoặc bán chứng khoán, hoặc tham khảo để thực hiện các giao dịch chứng khoán, được tồn tại dưới hình thức phổ biến là Sở giao dịch chứng khoán hoặc các sàn giao dịch 10
- chứng khoán. Thị trường không tập trung diễn ra hoạt động giao dịch chứng khoán không có đủ điều kiện giao dịch tại thị trường tập trung, có thể tiến hành thông qua những hình thức đa dạng khác nhau như hệ thống giao dịch nối mạng hoặc là giao dịch chứng khoán riêng lẻ. Khi xem xét mô hình hoạt động của các bộ phận thị trường theo phương diện này, điều dễ nhận thấy là, các bộ phận thị trường khác nhau thể hiện mức độ phát triển của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán tập trung có giá trị như "bộ mặt" thị trường chứng khoán quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa dạng của các giao dịch có thể lựa chọn. Hàng hóa của thị trường tập trung cũng là những hàng hóa có thể đánh giá có chất lượng hơn so với hàng hóa của thị trường khác, do tính có tổ chức của nó; điều đó cũng có nghĩa sự an toàn hay rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong các giao dịch trên thị trường. Để hoạt động bình thường, thị trường chứng khoán phải tuân thủ những qui định rất nghiêm ngặt, chặt chẽ. Các giao dịch chứng khoán về hình thức bên ngoài có vẻ "hỗn loạn", nhưng thực chất lại là những giao dịch trật tự với những nguyên tắc nhất định. Từ cơ cấu thị trường chứng khoán có thể cho thấy nguyên tắc công bằng, công khai, trung gian được thể hiện trong các giao dịch, nhưng ở các bộ phận thị trường khác nhau thì yêu cầu của những nguyên tắc này là khác nhau. Nguyên tắc công bằng yêu cầu các giao dịch phải đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên dưới các hình thức khác nhau ở các bộ phận thị trường. Chẳng hạn, trong giai đoạn phát hành chứng khoán, nếu đó là chứng khoán phát hành ra công chúng thì yêu cầu phải dành tỷ lệ chứng khoán tối thiểu cho các nhà đầu tư phổ thông. Tại thị trường tập trung, phương thức đấu giá là hình thức thực hiện nguyên tắc công bằng. Theo đó, có thể thực hiện đấu giá liên tục hoặc đấu giá theo định kỳ nhưng đều đi đến một kết quả duy nhất là người bán sẽ bán được với giá cao nhất và người mua sẽ mua được với giá thấp nhất, không phân biệt các chủ thể đó là ai. Như vậy, nguyên tắc đấu giá tạo ra sự bình đẳng giữa các chủ thể 11
- cùng có nhu cầu như nhau. Nguyên tắc công bằng đối với thị trường riêng lẻ phản ánh trong cơ cấu hoạt động và phân phối các lợi ích giữa các nhà đầu tư riêng lẻ. Nguyên tắc công khai đòi hỏi trước hết các thông tin liên quan đến chứng khoán phải được cung cấp cho tất cả các đối tượng quan tâm. Phương thức cung cấp thông tin và nội dung thông tin phải đảm bảo đáp ứng được yêu cầu tìm hiểu về cung cầu thị trường đối với từng loại chứng khoán, giá trị thực của các loại chứng khoán để có thể đưa ra được những quyết định đầu tư có hiệu quả. Đòi hỏi của nguyên tắc công khai đối với từng bộ phận thị trường cũng khác nhau. Chẳng hạn, đối với thị trường tập trung, nguyên tắc công khai được chính quyền các quốc gia qui định rất chặt chẽ về phương thức, nội dung; nhưng đối với thị trường riêng lẻ, hình thức và nội dung chủ yếu do chính chủ thể phát hành chứng khoán xác định trước trên cơ sở không trái luật. Nguyên tắc trung gian chỉ coi là bắt buộc đối với phát hành ra công chúng và giao dịch tại thị trường tập trung, đòi hỏi các giao dịch mua bán phải qua chủ thể trung gian. Nguyên tắc này "đảm bảo người đầu tư có những thông tin chính xác để lợi ích của mình không bị tổn thương bởi những hành vi lừa đảo". Thị trường chứng khoán ra đời do nhu cầu của chính đời sống kinh tế, xuất hiện và tồn tại khách quan. Tham gia vào thị trường có rất nhiều loại chủ thể khác nhau; mỗi chủ thể tham gia với những mục đích khác nhau: quản lý, đầu tư, phát hành, giao dịch. Thị trường chứng khoán là thị trường rất nhạy cảm, năng động, có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng và tức thì đối với các thị trường khác cũng như đối với nền kinh tế. Điều đó lý giải vì sao cần phải có những biện pháp tác động hữu hiệu cũng như có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp và tác động này không phải bằng những biện pháp hành chính thuần túy mà thông qua hệ thống pháp luật, thông qua hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các kết quả nghiên cứu kinh tế, pháp lý liên quan đến thị trường 12
- chứng khoán đều thống nhất cho rằng, thị trường chứng khoán là sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường, phải vận hành theo các qui luật của kinh tế thị trường mà không thể áp dụng các biện pháp hành chính cứng nhắc. Vì vậy, cơ quan quản lý thị trường cũng phải có những cách thức và biện pháp phù hợp. Do thị trường chứng khoán gồm nhiều bộ phận hợp thành nên yêu cầu và mức độ quản lý các bộ phận đó cũng là khác nhau. Trong thị trường chứng khoán, dù ở giai đoạn phát triển nào và ở bộ phận nào của thị trường thì cũng tồn tại hai loại chủ thể chủ yếu là nhà phát hành và nhà đầu tư chứng khoán. Nhà phát hành là tất cả chủ thể huy động vốn bằng cách bán chứng khoán cho người đầu tư. Tùy theo điều kiện cụ thể, pháp luật mỗi nước qui định rõ những đối tượng nào là "nhà phát hành". Ở thị trường, thường là các doanh nghiệp (bao hàm cả các tổ chức tín dụng) và Chính phủ (bao gồm cả chính quyền trung ương và chính quyền địa phương). Đối tượng thứ hai là nhà đầu tư chứng khoán - những chủ thể có nhu cầu đầu tư bằng cách mua các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Loại chủ thể đầu tư này rất đa dạng và đông đảo, mục đích của các nhà đầu tư cũng không giống nhau. Thường thì người ta chia nhà đầu tư thành hai nhóm cơ bản: nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá thể. Nhà đầu tư có tổ chức có thể chỉ chiếm số lượng nhỏ so với nhà đầu tư cá thể nhưng đối tượng này lại có tiềm năng lớn, khả năng phân tích đánh giá chứng khoán tốt. Nhà đầu tư cá thể chiếm tỷ trọng đông đảo về số lượng nhưng lại là đối tượng thường được quan tâm của nhà quản lý với mục đích bảo vệ quyền lợi cho họ. Để tạo ra tính thanh khoản của chứng khoán, hiệu suất sử dụng vốn của nền kinh tế, các giao dịch thứ cấp được rất nhiều nhà kinh doanh quan tâm và coi đây là nghiệp vụ kinh doanh chính của mình. Hành vi kinh doanh chứng khoán cũng nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận như hành vi kinh doanh khác, nhưng do đặc điểm của chứng khoán rất phức tạp và rủi ro dây chuyền nên chủ thể thực hiện kinh doanh chứng khoán thường phải đạt những tiêu chuẩn nhất 13
- định, cho dù mỗi quốc gia có thể cho phép tổ chức và cá nhân cùng kinh doanh hoặc chỉ cho phép tổ chức kinh doanh. Chủ thể kinh doanh chứng khoán thường tồn tại dưới hình thức công ty chứng khoán hoặc những hình thức cá biệt khác. Ngoài những chủ thể chủ yếu trên còn có thể có một số đối tượng khác như các ngân hàng thương mại (tham gia với tư cách là trung gian thanh toán), các đại lý phát hành chứng khoán... Như đã đề cập, tham gia thị trường chứng khoán một quốc gia chỉ thực sự coi đã có thị trường chứng khoán khi đã hiện diện thực tế mô hình thị trường tập trung mặc dù có qui mô khác nhau: Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán. Pháp luật các nước đều qui định tổ chức thị trường tập trung này có tư cách pháp nhân, mặc dù có thể thuộc về những hình thức sở hữu khác nhau. Đây là tổ chức có cơ cấu chặt chẽ, tồn tại nhằm cung cấp dịch vụ cho các giao dịch chứng khoán như niêm yết, công bố thông tin và nhiều dịch vụ khác với mục đích phi lợi nhuận hoặc tìm kiếm lợi nhuận. Tóm lại, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán giữa các chủ thể có liên quan, có cấu trúc phức tạp và vận hành theo những nguyên tắc nhất định. Trong các bộ phận, thị trường chứng khoán tập trung có giá trị mang tính đại diện và các quốc gia có thị trường đều phải kiểm soát chặt chẽ bộ phận thị trường này. 1.1.3. Vai trò của thị trường chứng khoán Chứng khoán và thị trường chứng khoán tồn tại như một tất yếu của nền kinh tế thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế đó. Thứ nhất, xuất phát từ nguồn gốc ra đời của chứng khoán và thị trường chứng khoán, có thể khẳng định, thị trường chứng khoán là công cụ quan trọng trong việc huy động vốn trung và dài hạn. Với chi phí thấp, khả năng chủ động trong việc lựa chọn đối tượng, lượng vốn cần thiết cũng như hình thức huy động vốn, thị trường chứng khoán có vai trò rất lớn trong việc trợ giúp cho các doanh nghiệp thu hút, huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh một cách dễ 14
- dàng. Thực tiễn hoạt động của thị trường chứng khoán các quốc gia đã chỉ ra rằng, thị trường chứng khoán tạo ra sự cạnh tranh với các bộ phận thị trường truyền thống mà đại diện là thị trường tín dụng. Nếu như trước đây các tổ chức tín dụng là chỗ dựa tiềm tàng về vốn cho các doanh nghiệp, từ nguồn vốn nhỏ nhất trong thời gian ngắn nhất đến nguồn vốn lớn nhất trong thời gian dài nhất theo nhu cầu thì thị trường chứng khoán đã mở ra cơ hội huy động vốn mới cho các doanh nghiệp. Nội dung, hình thức huy động vốn của doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán rất đa dạng, không đơn thuần là nguồn vốn vay; bản thân các nguồn vốn kèm theo cam kết của doanh nghiệp phát hành cũng thể hiện nhu cầu và tính cạnh tranh to lớn. Thứ hai, thị trường chứng khoán còn là công cụ thực hiện chính sách tài chính tiền tệ quốc gia và các chính sách vĩ mô khác. Thị trường chứng khoán phản ánh các giá cả chứng khoán của các doanh nghiệp và các ngành kinh tế. Mức độ dao động giá chứng khoán cho thấy dấu hiệu và kết quả đầu tư của nền kinh tế, không loại trừ cả những dấu hiệu tiêu cực. Việc thực hiện tốt chính sách tài chính quốc gia tạo căn cứ chắc chắn cho việc ổn định giá trị đồng tiền, là nội dung cơ bản và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ quốc gia. Chính vì thế, có thể nói rằng, thị trường chứng khoán tạo môi trường thuận lợi cho Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Đối với các quốc gia chuyển đổi, thị trường chứng khoán còn là nhân tố thúc đẩy tiến trình đa hình thức sở hữu nền kinh tế. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc trong giai đoạn 1983 đến nay đã chỉ ra rằng, thị trường chứng khoán giúp Chính phủ thực hiện tốt công cuộc cải tổ nền kinh tế. Thứ ba, thị trường chứng khoán đóng vai trò tạo khả năng thanh khoản cho các chứng khoán. Nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán của họ thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán mà họ mong muốn khác tại thị trường. Chính tính thanh khoản của chứng khoán giúp cho thị trường sôi động đồng thời cũng là một trong những yếu tố quyết định mức hấp dẫn của chứng khoán đối 15
- với người đầu tư. Vì vậy, bản thân tính thanh khoản và hoạt động của thị trường có mối quan hệ nội tại và đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả. Bất kỳ quốc gia nào có thị trường chứng khoán đều phải tính toán sự ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế trong nước. Có thể nói, thị trường chứng khoán thu hút đầu tư nước ngoài với độ nhậy lớn. Đối với những hình thức đầu tư tài chính thông qua thị trường có vai trò quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, nếu thị trường có tính ổn định, môi trường đầu tư thuận lợi, cơ hội nhận vốn đầu tư nước ngoài sẽ lớn. Điều này lại được phản ánh trong tính thanh khoản của chứng khoán và những giới hạn đầu tư chứng khoán đối với nhà đầu tư nước ngoài (kể cả nhà đầu tư có tổ chức và đầu tư cá thể). Đối với việc thu hút đầu tư trực tiếp cũng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa doanh nghiệp chứng khoán trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm của nhà kinh doanh chứng khoán nước ngoài là những bài học không thể định giá cho các nhà kinh doanh chứng khoán non trẻ của quốc gia mới có thị trường. Tuy nhiên, đi đôi với việc xem xét những mặt tích cực của thu hút đầu tư nước ngoài, bản thân nó cũng có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế trong nước nếu có sự lệ thuộc quá lớn vào nguồn vốn nước ngoài. Vì vậy, đối với những thị trường mới mở, Chính phủ thường có những hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài (kể cả đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp). Thứ tư, thị trường chứng khoán Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã tạo điều kiện hết sức quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển của thị trường sơ cấp cũng như hình thành thị trường thứ cấp ở Việt Nam. Việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp được cổ phần hóa làm sôi động hơn thị trường phát hành, chuyển hóa phần vốn tiết kiệm trong dân chúng thành vốn kinh doanh. Việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường tập trung làm tăng thêm, sôi động thêm lượng hàng hóa tại thị trường thứ cấp. Thực tế cho thấy, các cổ phiếu niêm 16
- yết tại thị trường tập trung hiện nay đều là cổ phiếu của các công ty cổ phần hình thành từ con đường cổ phần hóa. Ngược lại, thị trường chứng khoán cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, từ giai đoạn cổ phần hóa đến giai đoạn niêm yết chứng khoán và khi có nhu cầu phát hành chứng khoán để tăng vốn doanh nghiệp. Cuối cùng, là cần có sự phân tích các yếu tố tác động qua lại của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính. Hệ thống pháp luật phản ánh chính sách tiền tệ quốc gia, gây ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tiền của toàn xã hội. Chính sách lãi suất của Chính phủ làm thay đổi cơ cấu tiền trong lưu thông, làm ảnh hưởng trực tiếp đến luồng tiền và mức độ giao dịch của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước đối với Việt Nam) có ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất thị trường tín dụng (bao gồm cả lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, lãi suất tái chiết khấu), đồng thời kích ứng mức độ sôi động thị trường chứng khoán (thông qua biến động các chỉ số giá chứng khoán). Những biến động về lãi suất như vậy sẽ ảnh hưởng lớn tới nguồn cung vốn cho các nhà kinh doanh trong mở rộng đầu tư và hình thành vốn, làm cho nguồn vốn được đưa vào đầu tư có chi phí thấp nhất, các bộ phận thị trường tài chính có mức độ tự cạnh tranh cao nhất. Ngoài ra, thị trường ngoại hối cũng như cán cân thương mại cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Đối với đồng nội tệ có sức mua ổn định, chỉ số giá chứng khoán có mức độ cân bằng tương đối so với thị trường nước ngoài sẽ không xảy ra tình trạng luồng tiền được chuyển ra đầu tư nước ngoài bằng con đường chứng khoán hay các con đường khác. Sức mua đối ngoại của đồng tiền ổn định cũng tạo cho nhà đầu tư chứng khoán an tâm, không có sự chuyển dịch đầu tư từ bộ phận thị trường này sang bộ phận thị trường khác, xa lánh thị trường chứng khoán (chẳng hạn từ thị trường chứng khoán chuyển sang thị trường ngoại hối, thị trường bất động sản...). Những yếu tố kinh tế như tốc độ tăng trưởng, chính sách đầu tư của Nhà nước, thay đổi cơ cấu tổ chức hoặc 17
- người đứng đầu bộ máy nhà nước, tác động của các tổ chức tiền tệ quốc tế đều có thể làm biến động thị trường chứng khoán. Với phân tích trên muốn chỉ ra rằng, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm với các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội; việc ổn định và phát triển các yếu tố đó chính là cơ sở quan trọng để thị trường chứng khoán ổn định và phát triển. Vai trò của thị trường chứng khoán: “…Hiện nay chúng ta không thể phủ nhận vai trò của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia. TTCK phản ánh rõ nét nhất các qui luật của nền kinh tế thị trường. TTCK được ví như chiếc nhiệt kế để đo “nhiệt độ” của nền kinh tế. Sự tăng trưởng của nền kinh tế được đánh giá qua chỉ số giá chứng khoán của TTCK. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở các quốc gia phát triển đã khẳng định TTCK ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Đối với Việt Nam, để hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính, tạo các tiền đề kinh tế quan trọng, đưa đất nước ta đến năm 2020 cơ bản là một nước công nghiệp như Đại hội Đảng VIII đã đề ra thì việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính (trong đó có TTCK) là hết sức cần thiết. - TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu cho các doanh nghiệp: Doanh nghiệp là đầu tàu của nền kinh tế, quyết định tới sự thịnh vượng của một quốc gia. Doanh nghiệp có tồn tại, phát triển, kinh doanh có hiệu quả thì mới có tiền để nộp thuế vào ngân sách nhà nước, đáp ứng các nhu cầu chi tiêu ngày càng gia tăng của nhà nước. Nhưng để tồn tại, doanh nghiệp cần vốn. Không thể triển khai các dự án tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nếu không tập hợp được những nguồn vốn khổng lồ mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng cho những mục tiêu trung và dài hạn. TTCK có vai trò đó, cái mà ngành ngân hàng với phương thức kinh doanh ăn chắc không thể làm được (Xem: TTCK và công ty cổ phần, Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả, Hà Nội, 1989, tr. 98). TTCK là nơi thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư sản xuất kinh doanh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo thành nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các định chế tài chính khác không làm được. Thông qua các công cụ cổ phiếu, trái phiếu, các loại chứng khoán khác, TTCK cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, kể cả Chính phủ, chính quyền địa phương huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, đưa vào đầu tư phát triển. ở Việt Nam, trong một thời gian khá dài, kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài (năm 1986), chúng ta chủ yếu chú trọng tới việc thu hút nguồn vốn nước ngoài mà gần như lãng quên nguồn vốn trong nước. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu, bởi dưới góc độ nào đó, việc huy động vốn trong nước còn khó hơn huy động vốn từ nước ngoài vì chúng ta còn thiếu một hệ thống cơ sở hạ tầng về tài chính để tập trung chuyển tải các đồng vốn nằm phân tán, rải rác trong công chúng đến những doanh nghiệp cần vốn. Để khắc phục nhược điểm này thì việc xây dựng và phát triển TTCK là một trong các tiền đề tạo cơ sở hạ tầng đó. TTCK ra đời, một mặt tạo cơ hội cho các doanh nghiệp lựa chọn hình thức huy động vốn, không chỉ phụ thuộc vào kênh ngân hàng với những thủ tục, trình tự cho vay rườm rà, với những điều kiện quá ngặt nghèo như yêu cầu bắt buộc phải 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 309 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 210 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 347 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 94 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn