intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đổi mới toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

30
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận cũng như thực tiễn vị trí, vai trò, tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam, thấy được những điểm hợp lý và những điểm còn bất cập trong các quy phạm về Toà án. Qua đó, đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình mới về tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đổi mới toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -----  ----- THẠCH THỊ HẰNG Đổi mới toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cảI cách tư pháp LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -----  ----- THẠCH THỊ HẰNG Đổi mới toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cảI cách tư pháp Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí Hà Nội – 2012 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, chưa từng được công bố trong một công trình khoa học nào của người khác. Các tài liệu tham khảo được trích dẫn một cách hợp pháp. Học viên THẠCH THỊ HẰNG 3
  4. LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến phó Giáo sư-Tiến sĩ luật học Nguyễn Ngọc Chí - Giảng viên khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà Nội - người đã hướng dẫn khoa học và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giảng viên của khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà Nội và các thầy cô cộng tác viên giảng dạy tại Khoa - những người đã tận tình dìu dắt và truyền đạt những kiến thức khoa học pháp lý bổ ích cho tôi trong suốt khoá học. Xin cảm ơn gia đình, người thân, các bạn đồng môn và đồng nghiệp đã luôn ở bên cạnh động viên và cổ vũ tôi trong quá trình thực hiện Luận văn này. THẠCH THỊ HẰNG 4
  5. BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự HĐND : Hội đồng nhân dân Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/1/2002 Nghị quyết 08-NQ/TW : của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” Nghị quyết 49-NQ/TW : Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” TAND : Tòa án nhân dân TTHS : Tố tụng hình sự UBND : Uỷ ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 5
  6. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... 3 LỜI CẢM ƠN........................................................................................................... 4 BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT.................................................................................. 5 MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 8 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TOÀ ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ................................................................................................................. 15 1.1. Vị trí, chức năng của Toà án...................................................................... 15 1.1.1. Vị trí của Toà án .................................................................................... 15 1.1.2. Chức năng của Tòa án ........................................................................... 23 1.2. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự ......... 25 1.2.1. Nguyên tắc độc lập ................................................................................ 25 1.2.2. Nguyên tắc xét xử công bằng ................................................................. 28 1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm những điều kiện để Thẩm phán độc lập, yên tâm trong hoạt động xét xử. .................................................................................... 33 1.3. Toà án trong tố tụng hình sự một số nƣớc điển hình trên thế giới ........ 36 1.3.1. Hệ thống Toà án được tổ chức theo các cấp Toà án ............................. 37 1.3.2. Hệ thống Toà án được tổ chức theo cấp hành chính hoặc theo khu vực .......................................................................................................................... 43 1.3.3. Các Toà án chuyên trách độc lập với Toà án tư pháp .......................... 45 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM .................................................... 49 2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tổ chức và hoạt động của Toà án......................................................................................... 49 2.1.1. Toà án trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1987 ............................. 49 2.1.2. Toà án trong giai đoạn từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến nay........................................................... 61 2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ............................................. 67 6
  7. 2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 78 Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRƢỚC YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƢ PHÁP ................................................................................................... 81 3.1. Những yêu cầu của công cuộc cải cách tƣ pháp đặt ra đối với Toà án . 81 3.1.1. Sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự...................................................................................................... 81 3.1.2. Những nguyên tắc của việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự ................................................................................... 83 3.1.3. Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự .............................................................................................................. 88 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự ........................................................................................................ 93 3.2.1. Nhóm giải pháp đổi mới mô hình tổ chức hệ thống Toà án và phân định lại thẩm quyền của Toà án các cấp ................................................................. 93 3.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật. ...................... 98 3.2.3. Nhóm giải pháp đổi mới tổ chức của TAND cấp huyện ...................... 104 3.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực, phẩm chất, địa vị pháp lý của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. ............................................................... 106 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 111 PHỤ LỤC .............................................................................................................. 116 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, trong đó cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng bởi mục tiêu của cải cách tư pháp là đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai người vô tội. Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, ngày 02/1/2002, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08 – NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết 08 – NQ/TW). Tiếp đó là Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49 –NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49 –NQ/TW). Tinh thần của các Nghị quyết trên đều xác định trong nhiệm vụ cải cách tư pháp, Toà án có vị trí trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm, việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật các vụ án hình sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân. Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần vào việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm và giáo dục pháp luật trong nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp đã đạt được thì hoạt động của Toà án vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế, bất cập. Cụ thể như: Tỷ lệ án tồn đọng vẫn còn cao, án sửa, huỷ, bị giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn còn nhiều, hiện tượng chạy án, tham nhũng vẫn còn tồn tại, v.v,… Điều đó đã làm giảm lòng tin của nhân dân vào ngành Toà án. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là mô hình tổ chức và hoạt động của Toà án vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý. Toà án chưa thực sự độc lập trong hoạt động xét xử, chưa đảm bảo được nguyên tắc Tư 8
  9. pháp là một nhánh quyền lực độc lập với các nhánh còn lại (lập pháp, hành pháp, độc lập với chính trị, các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, các nhóm quyền lực hoặc bất kỳ cơ quan, tổ chức nào), trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất còn thiếu, hiện tượng suy thoái đạo đức trong một số Thẩm phán, v.v,… Trước những thực trạng trên, công tác cải cách tư pháp đã đặt nhiệm vụ trọng tâm vào cải cách Toà án, coi đây là một khâu đột phá, đưa ra những phương hướng chỉ đạo và một số nhiệm vụ mà ngành Toà án cần phải làm trong thời gian tới. Tuy nhiên, đó mới chỉ dừng lại ở những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, còn việc triển khai thực hiện sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam lại đặt ra nhiều vấn đề cần phải làm rõ. Cũng có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về Toà án nhưng chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận chung về Toà án, có một số bài viết cũng đã đề cập đến nhiệm vụ cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án trước yêu cầu của cải cách tư pháp nhưng mức độ nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra các luận giải khoa học, các kiến nghị lập pháp thì chưa sâu. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm trái chiều về việc nên hay không nên tổ chức lại mô hình Toà án, nếu có thì mô hình Toà án nên tổ chức, hoạt động như thế nào cho phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, các vấn đề tranh tụng tại phiên toà, v.v,…đặc biệt là trong tố tụng hình sự (TTHS). Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Đổi mới Toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình. Nội dung của luận văn là cố gắng tìm hiểu nguyên nhân, đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án trong TTHS trên cơ sở có nghiên cứu thực tiễn, phân tích đưa ra các luận giải khoa học, các kiến nghị lập pháp cho việc xây dựng, hoàn 9
  10. thiện mô hình tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm: Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp thì Toà án có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng vì phán quyết của Toà án thể hiện kết quả cuối cùng của tiến trình tố tụng, tuyên bố một người có tội hay không có tội, đúng hay sai. Toà án là nơi thể hiện sâu sắc bản chất Nhà nước và nền công lý, thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của Toà án nên trong thời gian qua đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về Toà án như: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân của Phạm Quý Tỵ đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 07, tháng 07/2005; Đổi mới hệ thống tổ chức Toà án nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử của Vũ Gia Lâm đăng trên Tạp chí luật học số 06/2007; Một số vấn đề về tổ chức hệ thống Toà án theo định hướng cải cách tư pháp của Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí TAND số 23/2007; Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước, mã số 92-98-353, Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Yểu và Nguyễn Đình Lộc; Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp năm 1992), Đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: Hoàng Thế Liên, năm 2001; Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, PGS.TS Lê Minh Thông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001; Những vấn đề đổi mới hệ thống tư pháp ở nước ta, PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí TAND, số 4 năm 1999; Tìm hiểu tổ chức và thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự một số nước trên thế giới của Nguyễn Văn Trượng và Trần Ngọc Thành đăng trên Tạp chí TAND số 06/2007; Các hệ thống Toà án ở một số nước trên thế giới của Võ Khánh 10
  11. Vinh đăng trên Tạp chí TAND số 23/2004; Cải cách tư pháp với việc sớm hình thành Toà án sơ thẩm khu vực của Lê Thúc Anh đăng trên Tạp chí TAND số 20/2007; Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường năng lực xét xử của TAND cấp huyện - đề tài thuộc Bộ tư pháp, chủ nhiệm đề tài Nguyễn Văn Hiện; Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của Toà án trong bối cảnh cải cách tư pháp của Nguyễn Trương Tín đăng trên Tạp chí Nhà nước pháp luật số 10/2008; Thẩm quyền của TAND các cấp theo luật tố tụng hình sự Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên bảo vệ năm 2000; Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TNAD ở Việt Nam của Hoàng Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí cộng sản số 1 (122) năm 2007; Sách tham khảo “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền” do TSKH. Lê Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên (2004), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội; Bài viết trao đổi “Bàn thêm về cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Toà án nhân dân, số 14 năm 2009, v.v,… Khái quát tất cả những bài viết, công trình nghiên cứu trên cho thấy các nghiên cứu chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Toà án nói chung, chưa có một công trình nghiên cứu nào về “Đổi mới Toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp”, chưa có điều kiện đi sâu để phân tích nguyên nhân và những giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS nói riêng đặc biệt là khi đặt trong bối cảnh của cải cách tư pháp. 3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn a/ Mục đích nghiên cứu Mục đích đặt ra của luận văn là: Nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận cũng như thực tiễn vị trí, vai trò, tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam, thấy được những điểm hợp lý và những điểm còn bất cập trong các quy 11
  12. phạm về Toà án. Qua đó, đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình mới về tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS. Đặc biệt trong tiến trình cải cách tư pháp thì việc nghiên cứu trên càng cần thiết và có ý nghĩa quan trọng bởi theo tinh thần của cải cách tư pháp đã xác định trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án. b/ Nhiệm vụ nghiên cứu Các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu đặt ra đối với luận văn là: Về mặt lý luận: Phải đưa ra được các luận giải khoa học và các kiến giải lập pháp cho việc xây dựng mô hình tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu lịch sử tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, so sánh với mô hình tổ chức, hoạt động của Toà án một số nước trên thế giới. Về mặt thực tiễn: Phải đánh giá thực trạng hoạt động của Toà án trong thực tiễn TTHS Việt Nam, tìm ra nguyên nhân của tình trạng đó. Qua đó, đề xuất phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. c/ Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về Toà án trong TTHS Việt Nam như: Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án. Thực trạng hoạt động của Toà án, các nguyên tắc và một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án trong TTHS trên cơ sở có so sánh, tham khảo có chọn lọc mô hình tổ chức, hoạt động của Toà án một số nước trên thế giới nhưng phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam. 12
  13. 4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hổ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước. Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh, thống kê, lịch sử, v.v,… 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Thứ nhất, Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện các vấn đề tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam. Thứ hai, Hệ thống hoá lịch sử hình thành, phát triển các quy phạm về tổ chức, hoạt động của Toà án trong hệ thống pháp luật nói chung và trong TTHS Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở đó, đưa ra nhận xét, đánh giá về tính hợp lý, bất hợp lý và những tồn tại, bất cập của các quy định về tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS, có nghiên cứu, so sánh với hệ thống Toà án trong TTHS của một số nước trên thế giới. Đưa ra các kiến nghị về mặt lập pháp xây dựng mô hình mới về tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS. Thứ ba, Tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá thực trạng tổ chức cũng như hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam. Thứ tư, Xác định rõ vị trí, vai trò của Toà án trong công cuộc cải cách tư pháp trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và được cụ thể hoá bằng các yêu cầu cụ thể đặt ra với Toà án. Luận văn đã đưa ra được cơ sở, phương hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện về mặt tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án trong TTHS. 13
  14. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện các vấn đề tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS. Trên cơ sở đó bằng các luận giải khoa học về việc xây dựng hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy phạm về tổ chức và hoạt động của Toà án ở khía cạnh lập pháp. Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam, luận văn đưa ra một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án trong TTHS nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra của công cuộc cải cách tư pháp. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục luận văn gồm 3 chương với cơ cấu như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Toà án trong tố tụng hình sự Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự ở Việt Nam Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của cải cách tư pháp. 14
  15. Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TOÀ ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Vị trí, chức năng của Toà án 1.1.1. Vị trí của Toà án a/ Ngày nay, ở tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới, Toà án nếu không phải là chủ thể duy nhất thì cũng là chủ thể trung tâm của hoạt động xét xử, của quyền lực tư pháp. Vai trò đặc biệt của Toà án bắt nguồn từ một quá trình phát triển lâu đời, gắn liền với sự hình thành trong lịch sử. Tư pháp là hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn và tính hợp pháp của các hành vi [15]. Tư pháp còn “là pháp đình y theo pháp luật mà xét định các việc ở trong vi phạm pháp luật” [1]. Ngay từ buổi ban đầu, tư pháp đã mang hai nội dung chính, đó là: (1) Phán xét đối với những hành vi vi phạm pháp luật và (2) Phân xử những tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Nói một cách chung nhất, quyền lực tư pháp là quyền lực xét xử và thuật ngữ “tư pháp xét xử” lần đầu tiên đã được sử dụng trong Bộ luật Hammurabi, một đạo luật được ban hành từ 1700 năm TCN. Sự ra đời của nhà nước và pháp luật đã chuyển hoá quyền phán xét và phân xử của cộng đồng thành một bộ phận quan trọng của quyền lực nhà nước và được bảo vệ bằng pháp luật. Tuy nhiên, trong những nhà nước cổ xưa, quyền lực tư pháp không phải ngay từ đầu đã là một nhánh quyền lực nhà nước độc lập. Tiếp nối những truyền thống quản lý xã hội theo kiểu công xã, đồng thời chịu ảnh hưởng từ những tâm thức tôn giáo về sự cai trị tuyệt đối của Đấng Tối Cao, nhà nước đã được xác lập để thay thế công xã, người đứng đầu nhà nước thay thế cho những thủ lĩnh hay những Hội đồng bộ lạc và có vai trò đại diện cho Đấng Tối Cao để cai trị xã hội. 15
  16. Người đứng đầu nhà nước do đó tập trung trong tay tất cả mọi thứ quyền lực, có quyền nói lên những ý muốn của Đấng Tối Cao và coi đó là Luật, có quyền điều hành các hoạt động của xã hội, và có quyền phán xét đối với những kẻ dám xâm phạm đến luật. Đó cũng chính là các quyền mà sau này người ta gọi là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền triệt để này đã tồn tại trong phần lớn lịch sử của nhà nước và pháp luật. Để thực hiện quyền lực nhà nước, các vị Vua và Hoàng đế thời Cổ đại và Trung cổ đã biết tổ chức nên bộ máy nhà nước với tư cách thuần tuý là một bộ máy giúp việc chứ không phải là nơi để chia sẻ quyền lực. Bộ máy tư pháp cũng đã được hình thành từ rất sớm. Ở Ai Cập cổ đại, một bộ máy tư pháp khá hoàn chỉnh đã được các Pharaon hình thành ngay từ đầu để đáp ứng yêu cầu cai trị xã hội. Pharaon – người truyền đạt ý nguyện của Chúa Trời cho con người chính là người xét xử cao nhất. Giúp việc cho sự phán xét của thần thánh là một cơ quan chuyên môn gồm 6 viện, đứng đầu là viện chưởng lý với rất nhiều nhân viên phục vụ [23]. Ở Babylonia cổ đại, cùng với việc ban hành bộ luật nổi tiếng, vua Hammurabi cũng đã thành lập Toà án tối cao để giúp việc cho mình với một Hội đồng thẩm phán gồm các bô lão có uy tín trong xã hội. Như vậy, mặc dù được hình thành từ rất sớm và đóng vai trò là một bộ phận quan trọng của bộ máy cai trị nhưng bộ máy tư pháp hoàn toàn không mang tính chất là một nhánh của quyền lực nhà nước để chia sẻ với quyền lực tối cao của các hoàng đế. Vai trò của nó bị che lấp bởi các hoàng đế. Nó có bổn phận là bộ máy giúp việc trung thành cho các hoàng đế để thực hiện một cách triệt để quyền lực thiêng liêng là phán xét và phân xử. Trong Kinh Cựu Ước, vị quan toà nổi tiếng nhất chính là vua Salomon mà với sự anh minh của mình, ông đã phân xử việc tranh chấp con của hai người đàn bà bằng cách vờ ra lệnh chặt đứa trẻ làm đôi để nhìn thấy tình thương của người mẹ đích 16
  17. thực [49]. Trong suốt thời kỳ trung cổ, chỉ có một biệt lệ duy nhất về sự chia sẻ quyền lực tư pháp của hoàng đế cho bộ máy tư pháp. Vào năm 1215, khi ký vào bản Đại hiến chương Magna Carta, Hoàng đế của nước Anh đã nhường một số quyền tư pháp cho các quan lại và nhân dân và lần đầu tiên trong lịch sử, một vị hoàng đế đã chấp nhận rằng mình có thể phải tôn trọng các đạo luật [20]. Trong suốt thời kỳ cổ đại và trung cổ, quyền lực tư pháp cũng bị chi phối bởi hai xu hướng chính trong cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, đó là: tập trung, thống nhất và cát cứ, chia cắt. Những cuộc chiến tranh liên miên để tranh giành quyền lực được thúc đẩy bởi những lợi ích từ đất đai, tài nguyên và nô lệ đã làm hình thành những đế quốc to lớn nhưng cũng đồng thời là nguyên nhân chia rẽ một đế quốc to lớn thành nhiều quốc gia nhỏ hơn. Điều đó đã diễn ra ở khắp các nhà nước quốc gia từ Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ân Độ, Hy lạp và La Mã... Trong những giai đoạn chia cắt, cát cứ, khi quyền lực nhà nước trung ương suy yếu và bị chia nhỏ thì quyền lực tư pháp cũng bị chia nhỏ bởi sự trỗi dậy của các thế lực địa phương. Sự phân chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ mới bắt đầu từ thời kỳ cách mạng tư sản cách đây không quá 300 năm. Về mặt tồn tại xã hội, thời kỳ này là thời kỳ lớn mạnh của giai cấp tư sản ngay trong lòng của xã hội phong kiến đến mức có thể công khai thách thức lại với các đặc quyền phong kiến. Về mặt ý thức xã hội, nhận thức của con người cũng có những biến đổi lớn lao, phản ánh đầy đủ và không kém gì cuộc đấu tranh đang diễn ra trong thực tại xã hội. Nhận thức được chuyển dần từ chỗ coi Thượng Đế là trung tâm sang một bước phát triển mới, coi Con Người là trung tâm; “Mắt của Con Người đã hướng lên trời suốt bao nhiêu thế kỷ nay đã hướng vào bản thân mình” [50] để tìm câu trả lời ngay trong thực tại xã hội. Khi người ta đã dám công khai nghi ngờ tính chất thần thánh của quyền lực nhà nước, khi mà những luân lý tôn 17
  18. giáo về bổn phận và sự phục tùng vô điều kiện phải đối diện với những thách thức to lớn từ việc nhận thức đầy đủ hơn về quyền, nghĩa vụ, khi mà địa vị thần dân bị sói mòn bởi sức công phá ngày càng tăng của một trào lưu mới đòi thừa nhận địa vị công dân...., thì khi đó, việc tập trung quyền lực tuyệt đối trong tay một vị hoàng đế ngày càng ít đi cơ sở để tồn tại. Sự phân chia quyền lực nhà nước giữa các thế lực phong kiến đang suy tàn với tầng lớp tư sản đang lớn mạnh đã diễn ra, bắt đầu ở quyền lực lập pháp và dần dần lan toả sang quyền lực hành pháp và quyền lực tư pháp. Nơi diễn ra sự phân chia ấy chính là bộ máy nhà nước. Suốt bao nhiêu thế kỷ, bộ máy nhà nước đã là nơi để phục vụ cho việc thực thi quyền lực của các hoàng đế thì nay lại là nơi chia sẻ quyền lực với các hoàng đế. Bộ máy tư pháp từng bước được tách khỏi bộ máy hành pháp, xác lập tính độc lập với bộ máy lập pháp và đại diện cho một nhánh quan trọng của quyền lực nhà nước - đó là quyền lực tư pháp. Quyền lực tư pháp là quyền lực xét xử dựa trên cơ sở của pháp luật đối với các hành vi vi phạm pháp luật cũng như đối với những tranh tụng phát sinh trong đời sống xã hội. Như vậy, việc thực hiện quyền lực tư pháp có bản chất là hoạt động áp dụng pháp luật của nhà nước thông qua bộ máy tư pháp. b/ Nếu như quyền lực tư pháp chính là quyền lực xét xử thì Toà án chính là chủ thể trung tâm của quyền lực xét xử và gần như nó được hình thành cùng với việc các nhà nước đầu tiên tổ chức nên bộ máy nhà nước để cai trị xã hội. Ngay từ khi còn bị coi là bộ máy giúp việc cho các hoàng đế cổ đại và trung cổ, Toà án đã là biểu tượng thiêng liêng của công lý, là sự hiện diện sống động của pháp luật với đầy đủ tính chất nghiêm khắc vốn có của nó, là hình ảnh rất thực tế về nhà nước với sức mạnh của một thứ quyền lực không thể vượt qua. Trong tiếng La tinh, Toà án được gọi là Forum hay Comitia – có nghĩa “Nơi công cộng”, “Công đường” hay “Nơi họp các hội nghị nhân dân”. Điều này đã 18
  19. được ghi trong Luật 12 Bảng đồng (Duedecim Tabulae) vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 TCN [9]. Tuy nhiên, các thuật ngữ như “Toà án”, “Quan toà” hay “Xét xử” đã được quy định trong pháp luật từ sớm hơn thế rất nhiều trong Bộ luật Hammurabi vào khoảng 1700 năm TCN [9]. Bộ luật này lại được xây dựng trên cơ sở những pháp điển đã có từ trước của người Sumer đã chứng tỏ rằng không phải chỉ đến thời vua Hammurabi, cư dân ở vùng Lưỡng Hà ngay từ thời kỳ cổ đại đã rất quen thuộc với “Toà án” các “Quan toà” và hoạt động “Xét xử”. Toà án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền lực xét xử hay quyền lực tư pháp. Ở Trung Quốc, bộ máy tư pháp ở trung ương thời cổ đại và trung cổ không gọi là Toà án mà được gọi Bộ Hình. Trong kết cấu “Lục Bộ” điển hình của các triều đại phong kiến Trung Quốc, Bộ Hình là thiết chế duy nhất có chức năng trông coi việc điều tra, xét xử, thi hành các hình phạt và cai quản các nhà ngục. Ở địa phương, bộ máy tư pháp mặc dù không được tổ chức một cách độc lập mà được đồng nhất với bộ máy hành pháp nhưng chỉ do một cơ quan thực hiện. Các quan lại địa phương vừa thực hiện chức năng của hành pháp là cai quản xã hội, vừa thực hiện quyền lực xét xử đối với những vi phạm pháp luật và những tranh tụng phát sinh trong đời sống xã hội. Cách thức tổ chức bộ máy theo kiểu này có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặc dù ở Trung Hoa, thuật ngữ “Toà án” không được sử dụng trong thời kỳ cổ đại và trung cổ nhưng “Công đường” như cách hiểu của người La Mã là nơi xét xử lại rất quen thuộc. Hình tượng về việc xét xử nơi “Công đường” đối với những người dân sinh sống trên dải hoàng phổ phì nhiêu của sông Hoàng Hà quen thuộc đến mức đã đi vào những truyền thuyết dân gian như một ước mơ về sự công bằng, giữa một xã hội còn nhiều bất công. Như vậy, trong lịch sử, quyền lực tư pháp là thống nhất và chỉ do một cơ quan thực hiện. Cơ quan đó vừa thực hiện chức năng điều tra, chức năng công tố, 19
  20. chức năng xét xử và kể cả việc thi hành các hình phạt mà chính nó phán quyết. Cơ quan đó sau này được gọi chung là Toà án. Bước vào thời kỳ cận đại, cùng với sự phân chia quyền lực nhà nước, quyền lực tư pháp từng bước trở nên độc lập và tách khỏi sự ràng buộc với quyền lực hành pháp ở trung ương và địa phương. Bộ máy tư pháp mà trung tâm là các Toà án theo đó cũng từng bước được hình thành và xác lập địa vị độc lập trong bộ máy nhà nước. Từ những tư tưởng về nhà nước pháp quyền có ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời kỳ khai sáng, người ta dần dần ý thức được rằng bộ máy tư pháp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật không những chỉ đối với xã hội mà quan trọng hơn là đối với chính quyền lực nhà nước. Khi pháp luật được hiểu như là một “Khế ước xã hội” để ràng buộc mọi người, đánh đổi cái quyền được tự do làm hại người khác để đổi lấy quyền được xã hội bảo vệ khi bị người khác làm hại thì khi đó, người ta mới nhận ra rằng chính quyền lực và bộ máy nhà nước lại là nơi dễ vi phạm “Khế ước xã hội” nhất. Nắm trong tay quyền lực nhà nước, các cơ quan nhà nước dường như có khuynh hướng không thể kiểm soát nếu không sử dụng chính quyền lực nhà nước được trao cho nhưng cơ quan độc lập với nhau. Tư tưởng dùng quyền lực để chế ngự quyền lực đã đặt nền móng cho việc hình thành một bộ máy tư pháp độc lập, đóng vai trò là những cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong các thể chế tư pháp, Toà án luôn được xem là chủ thể trung tâm. Sự tham gia của các cơ quan khác nếu có vào bộ máy tư pháp cũng chỉ nhằm để giúp cho toà án thực hiện quyền lực xét xử. Ở Việt Nam, hệ thống cơ quan tư pháp đầu tiên được thành lập sau cách mạng tháng 8 cũng có tính chất như vậy. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 đã khẳng đinh: “Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà gồm có: Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và các Toà án sơ cấp”. Như vậy, trên phương diện luật thực định, khái niệm “Tư pháp” thực chất được đồng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0