intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hình phạt tù và thi hành hình phạt tù - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của hình phạt tù, thi hành hình phạt tù theo pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự Việt Nam, từ đó xác định những bất cập, hạn chế để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù nhằm đảm bảo công lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hình phạt tù và thi hành hình phạt tù - Những vấn đề lý luận và thực tiễn

  1. MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TÙ 10 VÀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ 1.1. Khái niệm và mục đích của hình phạt tù 10 1.2. Bản chất pháp lý và điều kiện áp dụng hình phạt tù 15 1.3. Khái niệm, mục đích và bản chất của thi hành hình phạt tù 25 1.4. Điều kiện, trình tự thủ tục thi hành hình phạt tù 31 1.4.1. Điều kiện thi hành hình phạt tù 25 1.4.2. Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tù 37 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ VÀ 41 THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ Ở VIỆT AN 2.1. Sơ lược quá trình phát triển các quy định pháp luật về hình 41 phạt tù và thi hành hình phạt tù từ năm 1945 đến nay 2.1.1. Quá trình phát triển các quy định về hình phạt tù trong luật 41 hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay 2.1.2. Quá trình phát triển các quy định pháp luật về thi hành hình 53 phạt tù từ năm 1945 đến nay 2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù ở 72 Việt Nam 2.2.1. Thực trạng áp dụng hình phạt tù ở Việt Nam 72 2.2.2. Thực trạng thi hành hình phạt tù ở Việt Nam 90 Chương 3 : QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG 99 CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ VF THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ 3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hình phạt tù và thi hành 99 hình phạt tù 3.2. Giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng 101 hình phạt tù và thi hành hình phạt tù 3.2.1. Những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng 101 hình phạt tù 3.2.2. Những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành 112 hình phạt tù KẾT LUẬN 120 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 123
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ, trật tự xã hội, Nhà nước ta dùng nhiều biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, pháp lý… vừa có tính thuyết phục, vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Các biện pháp này đan xen hỗ trợ nhau và tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể của công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm trong từng thời kỳ mà biện pháp này hay biện pháp kia được đặt lên hàng đầu. Trong các biện pháp đấu tranh đó, hình phạt tuy không phải là biện pháp đầu tiên, biện pháp quyết định, nhưng nó giữ một vai trò rất quan trọng. Hình phạt là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được qui định trong luật hình sự, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội theo thủ tục do luật định, để tước hoặc hạn chế một số quyền hay lợi ích đối với người bị kết án. Hình phạt có mục đích giáo dục, cải tạo người bị kết án trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống xã hội, phòng ngừa họ phạm tội mới và phòng ngừa những người khác phạm tội (thực hiện việc răn đe và phòng ngừa chung). Hình phạt còn giáo dục mọi người tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Trong lịch sử pháp luật hình sự các nước trên thế giới, lịch sử pháp luật Việt Nam, hình phạt đã thực sự trở thành công cụ, một phương thức có hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Nhà nước coi hình phạt như là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của xã hội của Nhà nước. "Hình phạt không phải là một cái gì khác ngoài phương tiện để tự bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó" (C.Mác). Tuy nhiên, trong các thời đại khác nhau, ở các kiểu nhà nước khác nhau, hình phạt được quan niệm và sử dụng ở mức độ và những xu hướng 1
  3. cũng khác nhau tùy thuộc vào bản chất của giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý và truyền thống của mỗi nước, mỗi dân tộc. Nhìn chung ở các thời đại trước và ở các xã hội có chế độ bóc lột thì hình phạt được sử dụng ở mức độ rất nghiêm khắc và nhằm mục đích trừng phạt là chính. Ngược lại, ở nhà nước xã hội chủ nghĩa, hình phạt vẫn được coi là công cụ hữu hiệu để đấu tranh chống tội phạm, tính nghiêm khắc và sự trừng phạt của hình phạt vẫn được duy trì, nhưng mục đích không để trừng phạt người phạm tội mà là giáo dục cải tạo người phạm tội. Từ trước đến nay có nhiều công trình khoa học trong và ngoài nước đề cập đến hình phạt, hệ thống hình phạt. Tuy nhiên, việc nghiên cứu diễn ra ở nhiều cấp độ, bình diện khác nhau, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về hình phạt tù. Bên cạnh đó, thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đã và đang gặp không ít những vướng mắc khi quy định và áp dụng hình phạt tù. Việc xác định ý nghĩa xã hội - pháp lý cũng như hiệu quả hình phạt nói chung, trong đó có hình phạt tù cũng là một vấn đề nan giải, điều đó được chứng minh trên thực tế rằng không phải cứ áp dụng hình phạt thật nặng thì tội phạm sẽ giảm. Hơn nữa, trong thời gian qua, việc nghiên cứu pháp luật hình sự chưa làm rõ những dấu hiệu căn bản của từng hình phạt tù, vai trò và khả năng của nó trong việc giáo dục chung, phòng ngừa riêng trong tổng thể các hình phạt được pháp luật qui định cũng như trong các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, đáp ứng được yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta. Hiện nay, đất nước ta trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng hội nhập và giao lưu quốc tế thì hình phạt tù cần được nghiên cứu để làm rõ mục đích tính chất, tác dụng, hiệu quả của hình phạt tù, quy định đầy đủ các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm; 2
  4. quy định khung hình phạt tương xứng với từng tội phạm cụ thể; làm rõ điều kiện áp dụng và thi hành hình phạt tù. Từ đó, cần đề ra những kiến nghị có cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tù. Xét xử đúng, khách quan là vô cùng quan trọng song các bản án không thi hành được hoặc thi hành không đúng thì lao động của toàn bộ hệ thống cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác mất hết ý nghĩa. Thi hành hình phạt tù là hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án góp phần đảm bảo quyền con người, quyền công dân; đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ hệ thống tư pháp thể hiện ở giai đoạn thi hành án. Đây là hoạt động hành chính tư pháp phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là quyền của con người, do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền phối hợp tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định phạt tù của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, thi hành án phạt tù hiện nay còn chưa được nhận thức một cách thống nhất. Thực tiễn thi hành hình phạt tù vẫn còn nhiều tồn tại như: Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành; người bị kết án tù, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng họ vẫn chưa đi chấp hành hình phạt tù tại trại giam; việc quản lý người bị kết án được hoãn hay tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù còn để xảy ra nhiều đối tượng lợi dụng bỏ trốn. Công tác quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân trong các trại giam còn nhiều yếu kém, sơ hở, vi phạm, để phạm nhân phạm tội trong trại giam, trốn trại vẫn còn xảy ra, nhiều đối tượng sau khi ra khỏi trại giam đã gây ra những vụ án nghiêm trọng; việc hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân và công tác tái hòa nhập cộng đồng chưa thực hiện tốt, đặc biệt là chưa được xã hội hóa dẫn đến tỷ lệ tái phạm trong số những người đã chấp hành xong hình phạt tù còn khá cao (18%). Các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù còn chưa được ban hành một cách kịp thời nhằm cụ thể hóa chủ trương chính sách của Đảng về tổ chức thi hành án hình sự theo hướng tập trung, thống nhất; chưa sửa đổi, 3
  5. bổ sung cho phù hợp, nhiều văn bản được ban hành đã hết hiệu lực nhưng thực tiễn vẫn phải áp dụng; nhiều quy định còn không phù hợp với thực tiễn. Nghiên cứu về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù gắn liền với nhu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự trong cải cách tư pháp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị đã đặt ra vấn đề cải cách các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan thi hành án theo hướng xây dựng mô hình thống nhất, tập trung quản lý công tác thi hành án; đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tiếp tục chỉ ra phương hướng đổi mới cơ quan tư pháp: "Kiện toàn các tổ chức thi hành án, đảm bảo thi hành đầy đủ, nhanh chóng các bản án và quyết định của Tòa án…chấn chỉnh các trại giam để giáo dục, cải tạo tốt phạm nhân". Các quan điểm chỉ đạo có ý nghĩa rất quan trọng, thông qua đó để làm rõ hơn chính sách hình sự của Nhà nước ta, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các hành vi phạm tội, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên nói lên tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: "Hình phạt tù và thi hành hình phạt tù - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" và cũng chính là lý do mà tác giả chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học, sách báo pháp lý chuyên ngành trong nước nghiên cứu ở các mức độ và các bình diện khác nhau về đề tài hình phạt và hệ thống hình phạt như: "Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam" của tập thể tác giả Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ 4
  6. Tư pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995; "Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự" của tập thể tác giả do GS, TSKH Đào Trí Úc chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995; Luận án tiến sĩ Luật học: "Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Sơn; một số luận văn thạc sĩ Luật học viết về đề tài hình phạt như: "Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Văn Vĩnh; "Hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Đặng Đức Thạo; "Những vấn đề về hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Phi Hùng; "Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam" của Lê Văn Hường… Ngoài ra cũng có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành về vấn đề này. Đề tài thi hành hình phạt tù đã được nghiên cứu trong một số công trình khoa học như: Sách chuyên khảo "Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", của GS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng; "Xây dựng mô hình thống nhất công tác thi hành án", của Hoàng Thọ Khiêm, đề tài khoa học, 1996; "Thực trạng pháp luật thi hành án phạt tù và phương hướng hoàn thiện" của Tiến sĩ Phạm Văn Lợi đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02/2006; Luận án tiến sĩ Luật học: "Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự" của Vũ Trọng Hách; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Thi hành hình phạt tù" của Nguyễn Văn Nông; "Bảo đảm quyền con người trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay" đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 04/2007 v.v... và một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành. Nhìn chung, các công trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu có tính chất tổng thể hoặc là về những vấn đề chung của hệ thống hình phạt, hoặc là về một hình phạt cụ thể nào đó, hay nghiên cứu về công tác thi hành án hình sự. Nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về mặt lý luận cũng như thực tiễn về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù trên cả ba bình diện: lập pháp, áp dụng 5
  7. pháp luật và thi hành án, để từ đó đề ra những phương hướng, kiến nghị lập pháp về vấn đề này trên phương diện tổng thể cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam. Vì vậy sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nếu có một công trình nghiên cứu đề tài này ở cả ba bình diện nêu trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của hình phạt tù, thi hành hình phạt tù theo pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự Việt Nam, từ đó xác định những bất cập, hạn chế để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù nhằm đảm bảo công lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nói trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Bằng cách tiếp cận tổng thể từ cái chung đến cái cụ thể, đi từ lý luận đến đánh giá thực tiễn xét xử, tác giả làm rõ khái niệm, mục đích của hình phạt tù, vai trò ý nghĩa, bản chất pháp lý của hình phạt tù. - Làm rõ các vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tù như khái niệm; các điều kiện thi hành hình phạt tù; trình tự thủ tục thi hành hình phạt tù. - Đánh giá thực trạng áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù nhằm làm rõ những ưu điểm, hạn chế và những nguyên nhân của nó. - Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù, luận văn đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù. 6
  8. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của hình phạt tù và thi hành hình phạt tù theo pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự Việt Nam, cụ thể là: khái niệm, mục đích, bản chất của hình phạt tù; khái niệm, bản chất, các điều kiện, trình tự thi hành hình phạt tù… Nêu ra những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu những tiến bộ trong việc áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù của một số nước trên thế giới, qua đó nêu lên quan điểm, yêu cầu và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù. 3.4. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù theo pháp luật hình sự và pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam, đồng thời luận văn cũng có đề cập tới một số quy phạm của luật tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu. Do điều kiện về thời gian, trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ luật học nên tác giả chỉ nghiên cứu hình phạt tù có thời hạn và việc thi hành hình phạt này trong thực tiễn. Kinh nghiệm nước ngoài về vấn đề này sẽ được lồng ghép trong mục 2.2.2 của chương 2 và mục 3.2.1 của chương 4. 4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên đây, các vấn đề khoa học được tiếp cận trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm; về cải tạo, giáo dục người phạm tội; về tính nhân đạo của 7
  9. pháp luật, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lý luận về Nhà nước và pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tế, lý luận kết hợp với thực tiễn. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình khoa học trong và ngoài nước đề cập đến hình phạt, nhưng chưa có công trình nghiên cứu về hình phạt tù trong mối quan hệ biện chứng với thi hành hình phạt tù. Từ góc nhìn của hình phạt tù, luận văn đánh giá việc áp dụng hình phạt này trong thực tiễn. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng và thực tiễn thi hành hình phạt tù để tìm ra đâu là căn nguyên của những vướng mắc, bất cập của thực trạng thi hành án hình sự hiện nay. Trên cơ sở thực tiễn, luận văn có những kiến nghị khoa học góp phần hoàn thiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu đề cập một cách tương đối có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù ở Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên. Về mặt thực tiễn: Luận văn rút ra một số kết luận mang tính khoa học góp phần xác định đúng đắn thực tiễn áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù. Cụ thể, luận văn hoàn thiện là tài liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình 8
  10. sự, góp phần khắc phục những khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt tù, nhằm nâng cao hiệu quả của chúng, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo quyền con người, quyền công dân. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hình phạt tù và thi hành hình phạt tù Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù ở Việt Nam Chương 3: Quan điểm, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù và thi hành hình phạt tù 9
  11. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TÙ VÀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÌNH PHẠT TÙ Trong lịch sử loài người, hình phạt luôn được coi là phương thức chủ yếu để đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong cuộc đấu tranh với những hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải có những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, mà một trong những biện pháp cưỡng chế đó là hình phạt. Hình phạt được coi là một trong những công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. C.Mác nói: "Hình phạt không phải là một cái gì khác ngoài phương tiện để tự bảo vệ mình của xã hội, chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó" [22, tr. 153]. Trong pháp luật hình sự nước ta từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999, khái niệm hình phạt chưa được ghi nhận một cách chính thức ở bất kỳ một văn bản pháp luật nào, chỉ đến khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 thì khái niệm hình phạt lần đầu tiên mới được quy định. Điều 26 Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được qui định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định" [29]. Có thể thấy luật hình sự nước ta đã tiếp thu, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân chủ và nhân đạo, tiến bộ, coi hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người thực hiện tội phạm và ngăn ngừa tội phạm. Pháp luật hình sự nước ta không cho phép áp dụng hình phạt đối với những hành vi không phải là tội phạm, không được quy định trong hệ thống hình phạt hiện hành và trong chế tài của các điều luật cụ thể. Đây là một đòi hỏi nghiêm khắc của nguyên tắc pháp chế. Khi một hành vi nguy 10
  12. hiểm cho xã hội được coi là tội phạm đòi hỏi phải quy định những loại hình phạt và mức hình phạt tương xứng cho hành vi đó. Do đó, hình phạt cũng là một dấu hiệu để phân biệt hành vi phạm tội với những hành vi không phải là tội phạm. Theo luật hình sự Việt Nam, hệ thống hình phạt bao gồm: hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính gồm có: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình; các hình phạt bổ sung gồm có: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền, trục xuất (phạt tiền, trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính). Danh mục các hình phạt quy định tại Điều 28 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ (cảnh cáo) đến nặng (tử hình). Việc sắp xếp các hình phạt theo thứ tự như vậy có ý nghĩa to lớn về mặt nguyên tắc và thực tiễn. Điều đó thể hiện ở chỗ căn cứ vào thứ tự sắp xếp như vậy, người ta hiểu được sự đánh giá chính thức của Nhà nước về tính chất nghiêm khắc của mỗi loại hình phạt và Tòa án có thể lựa chọn hình phạt nào khi giải quyết vấn đề chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Cách phân loại như vậy, về cơ bản là căn cứ vào vai trò, tính chất và nội dung của hình phạt. Đặc điểm của hệ thống hình phạt trong Bộ luật Hình sự nước ta là thể hiện tính đa dạng, cho phép trong mọi trường hợp thực hiện được các nguyên tắc của việc quyết định hình phạt. Hệ thống đó thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, không có những hình phạt nhằm khủng bố, trả thù, làm nhục hình, đầy đọa thân xác và chà đạp phẩm giá con người. Danh mục các hình phạt trong luật hình sự được sửa đổi để phù hợp với tình hình đấu tranh phòng, chống tội phạm qua các thời kỳ phát triển nhất định của xã hội. Ngoài pháp luật, không có một ai có quyền thay đổi, bổ sung danh mục các hình phạt đó. Hình phạt tù nằm trong hình phạt chính, bao gồm hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân và cũng được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, có mức độ nghiêm khắc phù hợp với các thang bậc mức độ nghiêm trọng, nguy 11
  13. hiểm khác nhau của các loại tội phạm. Sự sắp xếp đó đảm bảo tính hệ thống. Ngoài việc, hình phạt tù được quy định như vậy phản ánh sự đánh giá chính thức của Nhà nước về mức độ nặng nhẹ của từng loại hình phạt mà nó còn thể hiện mỗi loại hình phạt trong hình phạt tù có tính độc lập, khác biệt về cơ bản với nội dung của hình phạt khác, đủ để thực hiện mục đích của hình phạt là trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội, đồng thời đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, giáo dục chung. Hơn nữa tính hệ thống còn thể hiện ở chỗ, hình phạt tù chỉ có thể do pháp luật quy định và được Tòa án áp dụng. Yêu cầu này đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong thực tiễn xét xử - yêu cầu số một của tư pháp hình sự. Hình phạt tù và các loại hình phạt tương ứng về cơ bản với tội phạm, có khả năng thể hiện sự phản ứng của nhà nước đối với tội phạm. Hình phạt tù trong mối liên kết của cả hệ thống hình phạt cho phép lựa chọn loại hình phạt và mức độ xử phạt tương xứng với các hành vi phạm tội trong thực tế. Vì ý nghĩa đó mà các hình phạt tù được gọi là hình phạt chính. Nó luôn chứa đựng những yếu tố trừng trị và cải tạo vừa và đủ để hình phạt có thể đạt được mục đích khi nó được áp dụng đối với người phạm tội cụ thể. Hình phạt tù luôn được tuyên độc lập đối với mỗi loại tội phạm. Trong số bảy hình phạt chính được quy định tại Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 chỉ có 4 hình phạt được luật xác định về nội dung, trong đó có hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân. Đây là yếu tố thuận lợi cho việc áp dụng hình phạt tù, dù rằng các dấu hiệu về nội dung cũng chưa đủ rõ và chưa toàn diện. Có thể đưa ra khái quát khái niệm về hình phạt tù như sau: Hình phạt tù là hình phạt tước quyền tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách ly cuộc sống bình thường của xã hội, sống trong một môi trường riêng biệt có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hình phạt tù bao gồm hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân. Khi xác định mục đích của hình phạt tù, trước hết cần thấy rõ những chức năng của luật hình sự dưới hai góc độ: bảo vệ phòng ngừa xã hội và các 12
  14. giá trị xã hội của luật hình sự. Và như vậy, khi xác định mục đích của hình phạt tù phải xác định kết quả cuối cùng mà nhà nước mong muốn đạt được khi quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với cá nhân người phạm tội để thực hiện chức năng của luật hình sự. Theo luật hình sự Việt Nam mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 1999). Như vậy, luật hình sự Việt Nam thừa nhận mục đích của hình phạt nhằm: trừng trị người phạm tội, giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật và các nội dung trên để phục vụ mục đích đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trong khoa học luật hình sự, từ lâu đã có sự tranh luận về vấn đề: trừng trị có phải là mục đích của hình phạt hay không, hay là thuộc tính của hình phạt? Đa số các nhà luật học quan niệm mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới cũng như việc giáo dục phòng ngừa chung. Nhưng cũng có quan niệm cho rằng: Trừng trị là mục đích của hình phạt, bởi vì để bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, bảo vệ sự công bằng xã hội thì không có lý do gì người có lỗi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm lại không bị trừng phạt. Theo chúng tôi, trừng trị là nội dung, là thuộc tính, là phương thức để thực hiện hình phạt. Và vì vậy, trừng trị là nội dung quan trọng nhất của hình phạt. Nếu không có nó thì sẽ không có hình phạt. Trừng trị là tiền đề quan 13
  15. trọng cho việc đạt được mục đích phòng ngừa tội phạm. Chính vì vậy trừng trị là nội dung không thể thiếu được của hình phạt mà khi quy định, hoặc xác định hiệu quả của một loại hình phạt nào đó yêu cầu đầu tiên là phải đánh giá được khả năng trừng trị của nó. Nội dung trừng trị để: giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật và các nội dung trên để phục vụ mục đích đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Mục đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Thông qua việc áp dụng hình phạt làm cho người phạm tội nhận thức rõ được những lỗi lầm, sai trái hành vi phạm tội của mình để cải tạo và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Hình phạt còn có mục đích ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới. Đây là mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt. Tuy nhiên việc phạm tội mới hay không phạm tội mới không phải là tiêu chí duy nhất trong việc đánh giá kết quả cải tạo của người phạm tội và hiệu quả của hình phạt, bởi lẽ nguyên nhân của việc tái phạm có thể rất khác nhau. Hình phạt còn có mục đích giáo dục phòng ngừa chung. Mục đích phòng ngừa chung được thể hiện ở việc ngăn ngừa người khác phạm tội. Nhà nước quy định hình phạt trong Bộ luật Hình sự và đặc biệt khi áp dụng hình phạt đối với người có hành vi phạm tội, trong từng trường hợp cụ thể không chỉ tác động trực tiếp đến chính bản thân người phạm tội mà còn tác động đến tâm lý những người khác trong xã hội. Đối với "những người không vững vàng" hình phạt có tác động răn đe, ngăn ngừa họ phạm tội trong từng trường hợp họ có thể thấy trước hậu quả pháp lý - trách nhiệm hình sự tất yếu phải gánh chịu nếu họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Với sự răn đe này hình phạt có mục đích ngăn ngừa giáo dục những người "không vững vàng" tuân theo pháp luật. "Từ bỏ ý định phạm tội hoặc thận trọng hơn trong xử sự để tránh xử sự của mình trở thành xử sự phạm tội". 14
  16. Đối với các thành viên khác trong xã hội, hình phạt có mục đích giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho họ, động viên khuyến khích mọi người trong xã hội tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trên đây là mục đích của hình phạt nói chung, do vậy là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt, mục đích của hình phạt tù không tách rời các nội dung trên. 1.2. BẢN CHẤT PHÁP LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ Là một loại hình phạt chính nằm trong hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự nước ta, do đó hình phạt tù mang đầy đủ các nội dung cơ bản của hình phạt đó là: Hình phạt tù là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Cũng như các loại hình phạt khác trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam, hình phạt tù là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước và được Nhà nước sử dụng như một công cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của mình, của xã hội và những lợi ích hợp pháp của công dân. Tính nghiêm khắc của hình phạt tù thể hiện ở việc hạn chế những quyền tự do của người bị kết án. Đồng thời hình phạt này bao giờ cũng để lại hậu quả pháp lý nhất định cho người bị kết án đó là án tích. Sau khi chấp hành xong hình phạt theo bản án, người bị kết án phải mang án tích trong một thời gian nhất định theo quy định của pháp luật, trong khoảng thời gian này nếu phạm tội mới có thể bị coi là tái phạm, hoặc tái phạm nguy hiểm và coi đây là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với người phạm tội khi quyết định hình phạt. Tính nghiêm khắc của hình phạt tù còn thể hiện ngoài hình phạt này, chính người phạm tội có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như: quản chế, cấm cư trú hay cấm làm những nghề hoặc công việc nhất định… Đây là những 15
  17. biện pháp hỗ trợ cho hình phạt tù nhằm xử lý một cách triệt để đối với người phạm tội trong một số trường hợp để đạt được mục đích tối đa của hình phạt này. Hình phạt tù được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án áp dụng. Hình phạt tù trong Bộ luật Hình sự nước ta được quy định ở phần chung và phần các tội phạm: phần chung quy định những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến hình phạt tù có thời hạn như khái niệm, căn cứ quyết định hình phạt, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án… Phần các tội phạm quy định loại hình phạt và mức hình phạt cho từng loại tội phạm cụ thể. Hình phạt tù chỉ được quy định bởi Bộ luật Hình sự. Việc loại bỏ hình phạt này đối với một tội danh nào đó trong Bộ luật Hình sự chỉ thuộc thẩm quyền của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - đó là Quốc hội. Đây là đòi hỏi của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong áp dụng hình phạt tù chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng hình phạt này đối với người phạm tội. Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [28]. Ngoài Tòa án không có cơ quan nào khác có quyền quyết định hình phạt. Hình phạt tù chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự nước ta là trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân người phạm tội. Do vậy, hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Dựa trên nguyên tắc này, có thể khẳng định hình phạt tù không thể áp dụng đối với người khác trong gia đình hay người thân thích của họ ngay cả trong trường hợp họ tự nguyện chịu hình phạt thay. Xuất phát từ nguyên tắc một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm phải chịu hình phạt và hình phạt chỉ áp dụng đối với người bị coi là tội 16
  18. phạm. C.Mác viết: "Dưới con mắt của kể phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi của chính người đó, do đó phải là hành vi của chính người đó" [22, tr. 181]. Pháp luật hình sự nước ta không thừa nhận cơ quan, tổ chức có thể trở thành chủ thể của tội phạm và phải chịu hình phạt. Điều này khác với luật hình sự của một số nước trên thế giới coi pháp nhân, tổ chức có thể trở thành chủ thể của tội phạm và phải chịu hình phạt như Trung Quốc, Cộng hòa Pháp… Hình phạt tù chỉ có thể được áp dụng đối với người có hành vi phạm tội và chỉ có như vậy mới thực hiện được mục đích của hình phạt là nhằm cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các qui tắc khác của cuộc sống xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt tù có thời hạn Trong luật hình sự Việt Nam, tù có thời hạn là hình phạt truyền thống và có lịch sử lâu đời, là hình phạt chính được quy định phổ biến trong các chế tài của luật hình sự. Trong thực tiễn xét xử, tù có thời hạn là hình phạt được áp dụng phổ biến và được Nhà nước coi là loại hình phạt hữu hiệu nhất để đấu tranh với các loại tội phạm. Hình phạt tù có thời hạn được quy định tại Điều 33 Bộ luật Hình sự với nội dung như sau: "Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm…" [29]. Theo Điều 50 Bộ luật Hình sự, trong trường hợp phạm nhiều tội, mức tối đa của tù có thời hạn là ba mươi năm. Từ quy định Điều 33 Bộ luật Hình sự ta thấy rõ, tù có thời hạn về thực chất là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người đó ra khỏi môi trường xã hội bình thường để giáo dục và cải tạo, họ phải chấp hành hình phạt tại các trại giam của Nhà nước với những quy chế nghiêm ngặt, đồng thời trong thời gian này họ bị tước một số quyền tự do cơ bản như: tự do đi 17
  19. lại, tự do kinh doanh, quyền bầu cử, quyền ứng cử… Bằng biện pháp đó sẽ ngăn chặn được những tội phạm mới do những người bị kết án gây ra và những ảnh hưởng xấu của họ đối với những người khác. Hình phạt tù có thời hạn chiếm vị trí rất quan trọng trong hệ thống hình phạt của luật hình sự nước ta. Theo thống kê cho thấy 100% các điều luật quy định về tội phạm cụ thể đều có hình phạt tù. Đây là loại hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly với xã hội và phải lao động cải tạo dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ, không có điều kiện, môi trường để tái phạm hoặc phạm tội mới. Tù có thời hạn có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc hơn so với hình phạt cải tạo không giam giữ. Điều đó thể hiện ở chỗ nếu như cải tạo không giam giữ tác động đến người bị kết án mà không cần cách ly họ khỏi đời sống xã hội, khỏi môi trường sống trước khi họ phạm tội, thì đối với tù có thời hạn người bị kết án bị tước tự do, bị giam giữ trong một môi trường chịu sự chi phối của một chế độ rất chặt chẽ và nghiêm khắc. Hạn chế tự do đối với người bị kết án là nội dung pháp lý chủ yếu của loại hình phạt này. Tuy là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhưng hình phạt tù có thời hạn trong luật hình sự Việt Nam không mang tính chất trả thù hay hành hạ người bị kết án mà để cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Trong thời gian chấp hành hình phạt, nếu họ tiến bộ thì được xét giảm mức hình phạt và được trả lại tự do trước thời hạn. Tại khoản 5 Điều 69 Bộ luật Hình sự quy định: "... khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng". Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự quy định: "... khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng". Quy định này biểu hiện nguyên tắc nhân đạo và là bước phát triển mới của pháp luật hình sự nước ta. 18
  20. Theo Điều 3 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù: "Trong thời gian chấp hành hình phạt người bị kết án tù phải bị giam giữ, lao động và học tập theo quy định của pháp luật" [49]. Trong thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn, người bị kết án phải chấp hành đầy đủ các nội quy, quy chế của trại giam. Họ được phép học văn hóa và học nghề, tham gia lao động do trại giam tổ chức và được tạo điều kiện để hình thành và phát triển ý thức tuân thủ pháp luật. Khi có kết quả cải tạo tốt, họ có thể được giảm án hoặc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Việc tước tự do của người phạm tội và buộc họ phải cải tạo còn có mục đích phòng ngừa chung. Khi người bị kết án tù và phải chấp hành án này tại trại giam, họ không còn những điều kiện nhất định để phạm tội mới gây thiệt hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Như vậy, nội dung hình phạt tù có thời hạn (Điều 33 Bộ luật Hình sự) chưa quy định rõ chế độ giam giữ, lao động, học tập với người bị kết án, song Pháp lệnh Thi hành án phạt tù đã cụ thể hóa các nội dung này. Điều 33 Bộ luật Hình sự quy định thời gian tù tối thiểu là ba tháng, thời hạn tù tối đa là hai mươi năm. Tuy nhiên, đây phải hiểu là thời hạn chung. Các chế tài cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự quy định những thời hạn tù cụ thể đối với từng cấu thành tội phạm cụ thể, còn các tòa án thì quyết định trong các bản án của mình những mức án tù cụ thể. Thời hạn của hình phạt tù có thời hạn là cơ sở để phân biệt hình phạt này với hình phạt tù chung thân. Tù chung thân là hình phạt tù giam không thời hạn hay còn gọi là tù suốt đời, là hình phạt rất nghiêm khắc mà nội dung của nó là tước quyền tự do của người bị kết án không có thời hạn. Trong các hình phạt chính xét về mức độ nghiêm khắc thì hình phạt tù có thời hạn đứng trước các hình phạt không tước tự do và đứng sau hình phạt tù chung thân, tử hình. Cũng như bất kỳ các loại hình phạt khác, tù có thời hạn mục đích là giáo dục, cải tạo người phạm tội và nó chỉ được áp dụng trong các trường hợp khi xét thấy cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội trong một thời gian luật định. Tuy nhiên đối với người phạm tội, Tòa án chỉ được áp dụng 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2