intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:118

30
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được viết nhằm tìm hiểu những khái niệm cơ bản, phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế có liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Luận văn cũng đưa ra các nguyên nhân phát sinh tranh chấp và biện pháp giải quyết. Từ những phân tích đó, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LUẬN VĂN THẠC SỸ ĐỀ TÀI HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN QUỐC TẾ Học viên: Nguyễn Ngọc Toàn Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Bá Diến Lớp: Cao học Luật biển Khoá I Hà nội, 2005
  2. MỤC LỤC Lời nói đầu 06 Chƣơng 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển 10 1.1 Vai trò của vận tải biển 10 1.2 Khái niệm về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế 12 1.3 Các hình thức của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế 14 1.3.1 Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ/tàu chợ 15 1.3.2 Hợp đồng vận chuyển thuê tàu chuyến 16 1.4 Các bên tham gia hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển 18 quốc tế 1.5 Đặc trưng của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển 21 1.6 Cơ sở pháp lý của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế 22 1.6.1 Pháp luật quốc gia 22 1.6.2 Pháp luật quốc tế 24 1.6.3 Tập quán hàng hải 25 Chƣơng 2 Các quy định của pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển quốc tế 28 2.1 Hợp đồng vận chuyển hàng hoá theo chứng từ 28 2.1.1 Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hoá theo chứng từ 28 3
  3. 2.1.2 Vận đơn đường biển 29 2.1.2.1 Định nghĩa và chức năng của vận đơn đường biển 29 2.1.2.2 Phân loại vận đơn đường biển 31 2.1.2.3 Nội dung của vận đơn đường biển 33 2.1.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá theo chứng từ. 35 2.2 Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng tàu chuyến 57 2.2.1 Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng tàu chuyến 58 2.2.2 Nội dung cơ bản của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng tàu chuyến 58 2.2.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng tàu chuyến 63 2.3 Hợp đồng vận tải đa phƣơng thức 71 2.3.1 Khái niệm hợp đồng vận tải đa phương thức 71 2.3.2 Nội dung cơ bản của hợp đồng vận tải đa phương thức 73 2.3.3 Trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận tải đa phương thức 75 2.4 Cơ chế giải quyết tranh chấp trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển. 79 2.4.1 Nguyên nhân phát sinh tranh chấp 79 2.4.2 Các biện pháp giải quyết tranh chấp 82 Chƣơng 3 Thực trạng ký kết, thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam 88 3.1 Thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đờng biển quốc tế tại Việt Nam. 88 3.2 Những bất cập của pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển 4
  4. hàng hoá bằng đường biển quốc tế. 94 3.3 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế. 100 Kết luận 106 Danh sách trích dẫn 109 Danh mục tài liệu tham khảo 112 5
  5. LỜI NÓI ĐẦU 1) Tính cấp thiết của đề tài Vận tải là yếu tố không thể tách rời trong buôn bán quốc tế. Nói đến buôn bán quốc tế là nói đến vận tải. Trong vận tải quốc tế, có thể khẳng định rằng, vận tải hàng hoá bằng đường biển đóng vai trò hết sức quan trọng với hơn 80% khối lợng hàng hoá trên thị trờng thế giới là do vận tải hàng hoá bằng đường biển đảm nhiệm. Tuy nhiên, vận tải hàng hoá bằng đường biển là một lĩnh vực rất phức tạp, nó chịu sự tác động và ràng buộc của nhiều yếu tố chủ quan cũng như khách quan, môi trường hoạt động của nó hàm chứa những rủi ro cao không những đối với hàng hoá, phương tiện vận tải mà kể cả con người. Do vậy, để việc vận chuyển hàng hoá có hiệu quả và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia cũng như ngăn ngừa nguy cơ tiềm ẩn của các tranh chấp thì cần phải có một cơ sở, căn cứ pháp lý, đó chính là hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, đã từ rất lâu, Tổ chức Hàng hải quốc tế, các quốc gia đã cho ra đời các công ước, bộ luật, các hợp đồng mẫu để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Đối với Việt Nam, việc Quốc hội thông qua Bộ Luật Hàng hải năm 1990 và dành một chương riêng để điều chỉnh các quan hệ về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Nhà nuớc ta về lĩnh vực này. Nhưng cho đến nay một số quy định của Bộ luật về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển không còn phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế như chặng trách nhiệm của người vận chuyển, không có quy định tách bạch trong vận chuyển bằng chứng từ, thiếu các khái niệm, một số khái niệm cha rõ ràng, chưa qui định rõ chức năng của vận đơn...Hơn nữa, cho đến nay, việc chúng ta cha tham gia bất kỳ một công ước nào liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là một hạn chế 6
  6. rất lớn, bởi lẽ các điều ước quốc tế có ưu điểm lớn là được chấp nhận phổ biến rộng rãi ở nhiều nước, mang tính toàn cầu và là sự đúc kết kinh nghiệm của nhiều nước trong lĩnh vực này. Vì thế, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển của chúng ta bị yếu thế trong việc dành được quyền ký kết hợp đồng vận chuyển và gặp khó khăn trong việc áp dụng luật trong nước hay công ước trong ký kết hợp đồng. Từ thực tế nêu trên khiến việc nghiên cứu về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là cần thiết nó không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có giá trị về thực tiễn. Sự cần thiết của nó thê hiện ở chỗ: - Đối với hoạt động lập pháp: việc nghiên cứu tạo cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây dựng các qui phạm có giá trị, có sức sống phù hợp với pháp luật quốc tế. - Đối với luật hàng hải: nghiên cứu vấn đề này sẽ làm hoàn thiện, phong phú thêm, phát triển thêm hệ thống các khái niệm để đa luật hàng hải của chúng ta phù hợp với pháp luật hàng hải quốc tế. - Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển quốc tế: kết quả nghiên cứu sẽ giúp họ có sự hiểu biết sâu hơn, đúng hơn về các qui định có liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Từ đó, giúp họ thực hiện các giao dịch của mình có hiệu quả và đúng pháp luật. Do vậy, Tôi chọn đề tài “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển quốc tế” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình. 2) Mục đích của luận văn Luận văn được viết nhằm tìm hiểu những khái niệm cơ bản, phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế có 7
  7. liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Luận văn cũng đưa ra các nguyên nhân phát sinh tranh chấp và biện pháp giải quyết. Từ những phân tích đó, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đ- ường biển. 3) Phƣơng pháp nghiên cứu Phù hợp với mục đích nghiên cứu của Luận văn tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa duy vật Mác xít để nghiên cứu. Trong đó, sử dụng chủ yếu các phương pháp như qui nạp, so sánh… Luận văn được viết dựa trên tinh thần của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 4) Phạm vi nghiên cứu Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển bao gồm cả vận chuyển bằng đường biển trong nước và vận chuyển đường biển quốc tế. Trong phạm vi của bản luận văn, tác giả chỉ đề cập đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế dưới ba dạng hợp đồng chính đó là: (i) hợp đồng vận chuyển theo chứng từ ; (ii) hợp đồng vận chuyển bằng tàu chuyến và (iii) hợp đồng vận chuyển đa phương thức. Tác giả đi sâu phân tích vào trách nhiệm của người vận chuyển dựa trên các qui định của Chương V Bộ luật hàng hải Việt Nam 1990 trong sự so sánh đối chiếu với các Công ước quốc tế Hague Rules 1924, Hague Visby Rules 1968, Hamburg 1978 và Công ước của Liên Hợp quốc về vận chuyển hàng hoá bằng vận tải đa phương thức (Ganeva) 1980. 8
  8. 5) Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Luận văn gồm ba chương: Chƣơng 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển Chƣơng 2 Các quy định của pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển Chƣơng 3 Thực trạng ký kết, thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 9
  9. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN QUỐC TẾ 1.1 Vai trò của vận tải biển Ngày nay, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng của thế giới giữa các nước càng ngày càng có sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau thông qua sự chu chuyển các luồng hàng hoá khổng lồ từ quốc gia này đến quốc gia khác. Sự phát triển của xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế có tác động tích cực đến sự phát triển thương mại kéo theo hàng loạt các hoạt động khác trong đó có hoạt động vận tải. Trong hoạt động vận tải người ta sử dụng nhiều phương thức vận tải khác nhau như: vận tải đường sắt, vận tải hàng không, vận tải đường ống, vận tải biển… mỗi phương thức vận tải giữ một vai trò và vị trí khác nhau do phụ thuộc vào đặc điểm của mối quan hệ buôn bán và đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng phương thức vận tải. Trong vận chuyển hàng hoá quốc tế, vận tải đường biển đóng vai trò quan trọng nhất, với 80% khối lượng hàng hoá buôn bán quốc tế được vận chuyển bằng phương thức này. Năm 2001 ngành vận tải đường biển vận chuyển 5,435 tỷ tấn hàng hoá trên một chặng đường 4,6 triệu hải lý, với khối lượng hàng hoá luân chuyển khoảng 24 nghìn tỷ tấn/hải lý. Trong suốt thế kỷ qua, khối lượng hàng hoá trong buôn bán quốc tế được vận chuyển đã tăng hơn 4 10
  10. lần. Dự kiến kiến đạt 30 nghìn tỉ vào năm 2010 và 40 nghìn tỷ tấn/hải lý vào 2015 [1, tr.13]. Sở dĩ vận tải đường biển được sử dụng rộng rãi như vậy trong thương mại quốc tế là nhờ có những ưu điểm nổi bật so với các phương thức vận chuyển hàng hoá khác đó là: - Vận tải đường biển có năng lực vận chuyển lớn: phương tiện vận tải trong vận tải đường biển là các tàu có sức chở rất lớn, lại có thể chạy nhiều tàu trong cùng một thời gian trên cùng một tuyến đường. - Thích hợp cho việc vận chuyển hầu hết các loại hàng hoá thương mại quốc tế. Đặc biệt là thích hợp và hiệu quả là các loại hàng rời có giá trị thấp như than, quặng, ngũ cốc… - Chi phí đầu tư xây dựng cho các tuyến đường hàng hải thấp: các tuyến đường hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên nên không đòi hỏi nhiều vốn, nhiều nguyên liệu, sức lao động để xây dựng, duy trì bảo quản. - Giá thành thấp: giá thành vận tải đường biển vào loại thấp nhất trong tất cả các phương thức vận tải do trọng tải tầu biển lớn, cự ly vận chuyển trung bình lớn, biên chế ít nên lao động trong ngành vận tải biển là cao. Tuy nhiên, vận tải biển cũng có một số nhược điểm sau: - Vận tải biển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên nhiên, điều kiện hàng hải: tàu biển thường gặp rất nhiều rủi ro hàng hải như mắc cạn, đắm cháy, đâm va nhau, đâm va phải đá ngầm... Theo thống kê của các công ty bảo hiểm, hàng tháng trên thế giới có khoảng 300 tàu biển bị các tai nạn trên, trong đó nhiều trường hợp bị tổn thất toàn bộ [2, tr.15]. 11
  11. - Tốc độ của tàu biển tương đối thấp. Tốc độ của các tàu biển hiện nay chỉ khoảng 14-20 hải lý/giờ (1 hải lý bằng 1,85 km) trong khi đó tốc độ của phương tiện vận tải hàng không là 900-1000 km/giờ. Do vậy vận tải biển không thích hợp với việc vận chuyển các loại hàng hoá đòi hỏi thời gian giao hàng nhanh. Nước ta có một bờ biển dài từ Bắc tới Nam, là một điều kiện tự nhiên lý tưởng cho việc phát triển vận tải biển. Do vậy, ngành vận tải biển được xác định là một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng, là hạ tầng cơ sở vật chất tạo tiền đề cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, ngành hàng hải Việt Nam trong thời gian qua đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Về đội tàu: Nếu như năm 1997, đội tàu biển Việt Nam mới có tổng số 287 chiếc tương đương 517.361 DWT thì tính đến 30/06/2004, đội tàu biển nước ta có 967 chiếc, với tổng trọng tải là 2.790.608 (1.858.946 GT), trong đó đội tàu chở hàng gồm 583 chiếc với tổng trọng tải là 1.353.354 DWT (884.144 GT). Về cảng biển: Tính đến tháng 06- 2004, cả nước đã có hơn 128 cảng biển lớn nhỏ với tổng sản lượng hàng hoá thông qua cảng biển 69,408 triệu tấn. Ngoài ra, còn có hơn 10 khu chuyển tải để tăng khả năng thông qua hàng hoá và tạo điều kiện cho những tàu có trọng tải lớn ra vào cảng an toàn và thuận tiện [3, tr.6]. Sự phát triển của của Ngành vận tải biển nước ta đã đóng góp một phần tích cực vào việc thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường nhập khẩu và tăng thu nguồn ngoại tệ phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đã và đang tạo đà cho nền kinh tế quốc dân phát triển do vận tải biển chính là cầu nối giữa thị trường trong nước và nước ngoài. 1.2 Khái niệm về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển quốc tế. Như chúng ta đã biết, trong buôn bán quốc tế hợp đồng mua bán ngoại thương gắn bó chặt chẽ với hợp đồng vận chuyển hàng hoá. Sau khi hợp đồng 12
  12. mua bán ngoại thương được ký kết thì trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, việc thuê tàu để chuyên chở hàng được tiến hành dựa vào ba căn cứ sau: a) những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương; b) đặc điểm của hàng; c) điều kiện vận tải. Một số điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương đồng thời là những điều khoản quy định sự phù hợp trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá chẳng hạn như một số điều khoản về tên hàng, số lượng, chất lượng hàng hoá, cảng đi, cảng đến, thanh toán cước phí vận tải… Việc quyết định hình thành hợp đồng thuê tàu vận chuyển hàng hoá được ghi nhận trong hợp đồng mua bán ngoại thương chính là việc xác định trách nhiệm về vận tải giữa người mua hàng và người bán hàng tại điều khoản điều kiện cơ sở giao hàng như điều kiện Giao hàng Tại xưởng (EXW), giao hàng chưa thông quan tại nhập khẩu (DDU), tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí (CIF)… Như vậy, việc quy định trách nhiệm tổ chức vận chuyển hàng hoá trong hợp đồng mua bán ngoại thương là điều kiện để người bán hàng hoặc người mua hàng phải đi thuê tàu để chở hàng. Việc đi thuê tàu để chở hàng chính là người thuê vận chuyển (người bán hoặc người mua hàng) ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển với người vận chuyển. Theo các nhà chuyên môn về hàng hải thì “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là sự thoả thuận về vận chuyển hàng hoá, hoặc lai dắt các phương tiện nổi từ địa điểm này sang địa điểm khác. Chủ tàu hoặc người vận chuyển thực hiện việc vận chuyển còn người thuê vận chuyển trả tiền cước vận chuyển theo đơn giá qui định” [4]. Theo khoản 1 Điều 61 Bộ Luật hàng hải Việt Nam 1990, hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển được định nghĩa như sau: “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá là hợp đồng được ký kết giữa người vận chuyển và người 13
  13. thuê vận chuyển mà theo đó người vận chuyển thu tiền cước vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hoá từ cảng bốc đến cảng đích. Hợp đồng vận chuyển được ký kết theo các hình thức do các bên thoả thuận và là cơ sở để xác định quan hệ pháp luật giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển”. Qua định nghĩa trên, có thể thấy được các đặc điểm của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế như sau: - Đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế là hàng hoá được dịch chuyển từ nước này đến nước khác. - Chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế gồm người thuê vận chuyển và người vận chuyển. - Nội dung của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế: đó chính là các điều khoản quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong hợp đồng. - Hình thức của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế được ký kết dưới hình thức văn bản. Thông thường hình thức của hợp đồng này là vận đơn (bill of lading) trong trường hợp vận chuyển theo chứng từ hay hợp đồng thuê tàu được các bên ký kết trong trường hợp thuê tàu chuyến. 1.3 Các hình thức của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển quốc tế. Các hình thức của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế được thể hiện qua các phương thức kinh doanh tàu thuyền vận chuyển hàng hoá đường biển. Phương thức kinh doanh tàu thuyền vận chuyển hàng hoá đường biển là toàn bộ các hoạt động sử dụng tàu vào mục đích kinh tế của chủ tàu hoặc người thuê tàu. Dựa vào sự khác nhau của các phương thức kinh 14
  14. doanh tàu thuyền vận chuyển đường biển có thể phân hợp đồng vận chuyển hàng hoá đường biển thành: - Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ hay còn được gọi là vận chuyển tàu chợ, vận chuyển tàu tuyến (liner transport). - Hợp đồng vận chuyển tàu thuê (shipping by chartering) trong đó bao gồm: tàu thuê chuyến (voyage charter), tàu thuê định kỳ (time charter) và thuê tàu trần (demise charter). 1.3.1 Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ/tàu chợ Tàu chợ là tàu kinh doanh thường xuyên trên một tuyến hàng hải nhất định, ghé qua những cảng nhất định và theo một lịch trình đã định trước. Vận chuyển tàu chợ được phát triển dần trên cơ sở vận chuyển tàu không định kỳ xuất hiện từ thế kỷ 19, được phát triển nhanh chóng trong thế kỷ 20 và hiện nay là một trong những phương thức vận chuyển chủ yếu trong vận tải đường biển quốc tế. Vận chuyển bằng tàu chợ có một số đặc điểm sau: - Tàu thuyền vận chuyển qua lại dựa vào một lịch trình cố định, theo một tuyến đường hàng hải cố định, ghé qua những cảng nhất định đồng thời phí vận chuyển theo tỷ lệ phí vận chuyển tương đối cố định - Hàng hoá do các bên có tàu phụ trách bốc dỡ, phí bốc dỡ được tính trong phí vận chuyển và được quy định trong biểu cước phí đã định sẵn (liner tariff) - Mối quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm giữa chủ hàng và người vận chuyển được điều chỉnh bằng vận đơn đường biển (bill of lading) do bên vận chuyển cấp phát. Do vậy, khi thuê tàu chợ, chủ hàng không được tự do thoả thuận các điều kiện, điều khoản chuyên chở mà phải tuân thủ các điều kiện in sẵn của vận đơn đường biển. 15
  15. - Chủng loại, số lượng hàng hoá tàu chợ vận chuyển khá linh hoạt, chất lượng vận chuyển tương đối đảm bảo, việc giao nhận được tiến hành tại kho bến tàu nên tạo điều kiện thuận lợi cho chủ hàng. 1.3.2 Hợp đồng vận chuyển thuê tàu chuyến Tàu chuyến là tàu chuyên chở hàng hoá giữa hai hoặc nhiều cảng theo yêu cầu của chủ hàng trên cơ sở một hợp đồng thuê tàu. Thuê tàu chuyến là việc chủ hàng liên hệ với chủ tàu hoặc người đại diện của họ để thuê toàn bộ con tàu để chuyên chở hàng hoá từ một hoặc nhiều cảng xếp đến một hoặc nhiều cảng dỡ theo yêu cầu của chủ hàng. Hợp đồng vận chuyển thuê tàu chuyến có các đặc điểm sau: - Tàu không chạy theo lịch trình cố định như tàu chợ mà theo yêu cầu của chủ hàng. - Văn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên trong thuê tàu chuyến là hợp đồng thuê tàu chuyến (voyage charter party-C/P) và vận đơn đường biển. Khi xếp hàng lên tàu hoặc khi nhận hàng để xếp, người chuyên chở sẽ cấp vận đơn đường biển. Vận đơn này điều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên chở với người gửi hàng, giữa người chuyên chở với người nhận hàng hoặc người cầm vận đơn. - Người thuê vận chuyển có thể tự do thoả thuận, mặc cả về các điều kiện chuyên chở và giá cước trong hợp đồng thêu tàu. Giá cước trong thuê tàu chuyến có thể gồm cả chi phí xếp, dỡ hoặc không. - Chủ tàu có thể đóng vai người chuyên chở hoặc không. - Tàu chuyến thường được dùng cho việc chở dầu và hàng có khối lượng lớn như than, quặng, ngũ cốc, phốt phát, xi măng, phân bón… 16
  16. Phương thức vận chuyển thuê tàu chuyến bao gồm: thuê tàu chuyến, thuê tàu định hạn và thuê tàu trần. Thuê tàu chuyến là loại vận chuyển tàu thuê mà bên sở hữu cung cấp tàu tiến hành một hay nhiều chuyến đi ở cảng dự định, vận chuyển hàng hoá chỉ định. Căn cứ vào phương thức thuê, tàu chuyến có thể được chia thành: tàu thuê một chiều, tàu thuê khứ hồi, tàu thuê chuyến liên tục, thuê bao hay hợp đồng thuê bao tàu vận chuyển. Tàu thuê định hạn (time charter): là kiểu vận chuyển mà bên sở hữu tàu cho thuê tàu của mình để người thuê tàu sử dụng trong một thời hạn nhất định, người thuê tàu cũng có thể sử dụng tàu thuê đó làm tàu chợ hay tàu thuê chuyến trong thời gian này. Thêu tàu trần (demise charter): là việc bên sở hữu tàu cho thuê tàu để người thuê tàu sử dụng trong một thời hạn nhất định nhưng tàu mà người sở hữu tàu cung cấp là một chiếc tàu trống không có thuyền trưởng, không có thuyền viên. Người thuê tàu phải đảm nhiệm chức năng thuyền trưởng, phải bố trí thuyền viên, chịu mọi chi phí ăn ở cho thuyền viên và quản lý vận hành. Kiểu thuê tàu này xét về nội dung thuê tàu là kiểu thuê tài sản chứ không phải là một dạng hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Trường hợp thuê tàu chuyến (voyage charter) và thuê tàu định hạn (time charter) có nhiều điểm không giống nhau. Chính từ các điểm không giống nhau này mà có thể xếp hai hình thức thuê tàu nói trên thuộc tính chất của hợp đồng thuê tàu vận chuyển hàng hoá hay thuộc hợp đồng thuê tàu để kinh doanh, qua đó xác định rõ ràng quyền lợi của chủ tàu và người đi thuê tàu trong quá trình vận chuyển hàng hoá. Các điểm không giống nhau này thể hiện ở các điểm sau [5, tr.161]: 17
  17. - Tàu thuê chuyến là tàu thuê cho môt hành trình, còn tàu thuê định hạn là tàu thuê cho một kỳ hạn. - Bên sở hữu của tàu thuê chuyến trực tiếp phụ trách việc quản lý kinh doanh của tàu, ngoài việc phụ trách điều khiển quản lý đối với tàu, bên sở hữu tàu còn phụ trách việc vận chuyển hàng hoá. Trong khi đó bên sở hữu tàu của tàu thuê định hạn chỉ phụ trách bảo dưỡng, sửa chữa cho tàu vận hành bình thường và lương nuôi thuyền viên do trong thời gian thuê tàu này quyền sở hữu về con tàu vẫn thuộc về chủ tàu nhưng quyền sử dụng lại được chuyển giao cho người đi thuê tàu nên việc điều động tàu, vận chuyển hàng hoá, những chi phí cho việc quản lý điều hành trong thời gian thuê như nhiên liệu cho tàu, phí cảng khẩu, nộp thuế và chi phí khác bao gồm bốc, dỡ, vận chuyển, dọn khoang, sắp đặt khoang… đều do bên thuê tàu đảm trách. - Tiền thuê hoặc cước phí vận chuyển của tàu thuê chuyến thường được tính theo số lượng hàng hoá vận chuyển, còn tiền thuê tàu định hạn thường tính theo tiền mỗi tấn mỗi tháng của thời hạn thuê. Do vậy, dưới góc độ nghiên cứu về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế thì trước hết phải căn cứ vào các phương thức thuê tàu để xem xét các hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì trong một số trường hợp việc ký kết một hợp đồng thuê tàu cũng là ký kết một hợp đồng thuê vận chuyển (đối với phương thức vận chuyển theo chứng từ và tàu chuyến) hoặc việc ký kết hợp đồng thuê tàu là cơ sở cho việc hình thành một hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển (đối với thuê tàu định hạn và thuê tàu trần). Trên thực tế, các chủ thể tham gia vào hợp đồng thuê tàu có nhiều mục đích khác nhau, căn cứ vào vào pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam (Điều 62 BLHHVN) với mục đích thuê tàu để vận chuyển hàng hoá theo chứng từ (carriage under bill of lading) và hợp đồng vận chuyển hàng hoá 18
  18. bằng tàu chuyến (voyage charter). Ở đây, không xem xét hợp đồng thuê tàu trần do nội dung của hợp đồng thuê này là một kiểu thuê tài sản chứ không phải là một dạng của hợp đồng thuê tàu vận chuyển hàng hoá. Còn đối với hợp đồng thuê tàu định hạn thì cũng không nên xếp nó vào hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển vì nội dung của hợp đồng thuê tàu này không qui định về trách nhiệm giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển trong việc vận chuyển hàng. 1.4 Các bên tham gia hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển quốc tế Từ khái niệm về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển như được trình bày ở trên (1.2), có thể thấy trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế có sự tham gia của hai bên, đó là người vận chuyển và người thuê vận chuyển. Tuy nhiên, trong vận tải đường biển còn xuất hiện người vận chuyển thực tế và người nhận hàng. “Người thuê vận chuyển là người nhân danh mình hoặc nhân danh người khác ký hợp đồng thuê người vận chuyển hàng hoá” [6]. Vì vậy, người thuê vận chuyển có thể là người bán hoặc người mua trong hợp đồng mua bán ngoại thương, căn cứ vào điều kiện giao hàng trong hợp đồng đó. Người thuê vận chuyển có quyền chỉ định một người khác thay mặt mình thực hiện nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển gọi là người giao hàng, người này không phải là chủ thể của hợp đồng vận chuyển. Còn “người vận chuyển là người dùng tàu biển thuộc sở hữu của mình hoặc thuê tàu thuộc sở hữu của người khác để thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng hoá” [7]. Người vận chuyển có thể là chủ tàu (tức là sở hữu chủ con tàu đồng thời trực tiếp khai thác và sử dụng con tàu đó) hoặc người thuê tàu của người khác để sử dụng, trong trường hợp này họ vừa là người thuê tàu vừa là người vận chuyển. 19
  19. Trên thực tế, thường có sự phân biệt giữa người vận chuyển danh nghĩa và người vận chuyển thực tế vì vấn đề này liên quan đến việc xác định quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm trong quá trình thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa. Trong mỗi phương thức vận chuyển hàng hoá, việc xác định trách nhiệm này có sự khác nhau nhưng ta có thể xem xét dưới góc độ chung nhất: người vận chuyển danh nghĩa là người không trực tiếp vận chuyển hàng hoá mà giao công việc vận chuyển cho người khác. Người đảm trách việc vận chuyển được giao này gọi là người vận chuyển thực tế (có thể là cá nhân hoặc tổ chức). Người vận chuyển thực tế là bất kỳ người nào được người vận chuyển danh nghĩa giao phó tiến hành toàn bộ hoặc một phần việc vận chuyển. Chẳng hạn, khi chủ tàu ký hợp đồng vận chuyển hàng hoá với bên thuê vận chuyển thì chủ tàu là người vận chuyển nhưng việc bốc, xếp, chuyên chở hàng hoá thì thuyền trưởng, thuỷ thủ, nhân viên của tàu đó trực tiếp tiến hành. Trong trường hợp này chủ tàu là người vận chuyển danh nghĩa còn thuyền trưởng là người vận chuyển thực tế. Điều này cũng được tính đến trong cả trường hợp thuyền trưởng ký phát vận đơn thì tư cách của họ vẫn là người được uỷ quyền pháp lý thay mặt cho chủ tàu-người đứng ra thuê họ-ký vận đơn. Thậm chí ngay khi tồn tại một sự thoả thuận rằng thuyền trưởng có thể ký vận đơn thay mặt cho chủ tàu thì điều này cũng không hề ảnh hưởng đến trách nhiệm của chủ tàu. Do vậy, người vận chuyển danh nghĩa phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do người vận chuyển thực tế gây ra và chính điều này là một đặc thù của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển so với các loại hợp đồng khác. Ngoài ra, trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển còn xuất hiện người nhận hàng. Nếu người nhận hàng đồng thời là người gửi hàng thì sẽ là chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Nếu người nhận hàng không đồng thời là người gửi hàng thì đương nhiên họ không phải là chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, nhưng trong 20
  20. trường hợp này họ vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng. 1.5 Đặc trƣng của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển Để đáp ứng các nhu cầu của giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại hiện tại ở Việt Nam đang tồn tại nhiều dạng hợp đồng như hợp đồng kinh tế (theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989), hợp đồng dân sự (theo quy định của Bộ luật dân sự 1996), hợp đồng thương mại (theo quy định của Luật Thương mại năm 1997). Mỗi loại hợp đồng đều có các quy định về điều kiện chủ thể, mục đích, hình thức và nội dung khác nhau. Do vậy, xem xét đặc trưng của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển chính là xem nó thuộc dạng hợp đồng nào, chịu sự điều chỉnh của luật nào (kinh tế, dân sự hay thương mại). Hiện nay, ngoài Chương 5 của BLHHVN năm 1990 quy định về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển còn có Nghị định Số 57/2001/NĐ-CP ngày 24 tháng 08 năm 2001 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh vận tải biển, Luật thương mại. Theo đó, có thể thấy hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển mang đặc trưng của hợp đồng kinh tế-thương mại. Thứ nhất, về điều kiện chủ thể: Theo Điều 2.1 Nghị định số 57/2001/NĐ-CP thì muốn kinh doanh vận tải biển thì đó phải là một doanh nghiệp có thể ở nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển này được coi là người vận chuyển và là một bên trong hợp đồng vận chuyển. Còn người thuê vận chuyển thường là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Như vậy khi họ ký kết hợp đồng vận chuyển thì giữa họ đã phát sinh một hợp đồng kinh tế vì nó đáp ứng được điều kiện về chủ 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2