intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:120

38
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Thông qua việc phân tích tình hình kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát nhân dân và cụ thể đi sâu phân tích tình hình kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thuộc thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây (2002-2006), luận văn đánh giá đúng thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---------- *** ---------- NGUYỄN THỊ THANH TÚ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2007
  2. CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI: KHOA LUẬT- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: Giáo sư - Tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang Phản biện 1:..................................................................................................... Phản biện 2:..................................................................................................... Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại: Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Vào hồi giờ ngày tháng năm 2007 Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
  3. MỤC LỤC TRANG Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 01 2. Tình hình nghiên cứu 03 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 04 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 05 5. Cơ sở khoa học của đề tài 06 6. Phương pháp nghiên cứu 06 7 Điểm mới của đề tài 06 8. Cơ cấu luận văn 06 CHƯƠNG QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ 07 1 KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM 1.1 Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện 07 kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình 1.2 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng 13 nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự 1.2.1 Đối tượng kháng nghị phúc thẩm 13 1.2.2 Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự 20 1.2.3 Căn cứ kháng nghị kháng nghị phúc thẩm hình sự 25 1.2.4 Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm hình 28 sự 1.2.5 Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự 31 1.2.6 Trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự 32 1.2.7 Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự 34 Kết luận chương 1 38
  4. CHƯƠNG TÌNH HÌNH KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN 41 2 KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ NĂM 2002 ĐẾN NĂM 2006 2.1 Vài nét về tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân 41 2.2 Những kết quả đạt được và những tồn tại trong 43 kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2002 đến năm 2006. 2.2.1 Những kết quả đạt được trong kháng nghị phúc 43 thẩm hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân 2.2.2 Những tồn tại trong kháng nghị phúc thẩm hình sự 49 của Viện kiểm sát nhân dân 2.2.3 Những nguyên nhân gây nên những tồn tại, thiếu 65 sót trong kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát nhân dân Kết luận chương 2 76 CHƯƠNG NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG NGHỊ 78 3 PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về 78 kháng nghị phúc thẩm 3.2 Những giải pháp về công tác tổ chức cán bộ của 89 Viện kiểm sát nhân dân 3.2.1 Nâng cao trình độ năng lực và trách nhiệm nghề 89 nghiệp của Kiểm sát viên ngành kiểm sát 3.2.2 Tăng cường lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát 94 của lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên đối với các Viện kiểm sát cấp dưới 3.2.3 Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp 97 trong giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự 3.3 Một số đề xuất với cơ quan tư pháp trung ương 103 Kết luận chương 3 106 KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. Viện kiểm sát nhân dân được Đảng và Nhà nước giao giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động tư pháp. Từ khi được thành lập cho đến nay, ngành kiểm sát nhân dân ngày càng lớn mạnh và có những tiến bộ rõ rệt trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần tích cực vào việc phát hiện, điều tra, xử lý đúng người, đúng tội, hạn chế tỷ lệ án oan sai trong tố tụng hình sự, bảo vệ an ninh chính trị, an toàn xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều đó góp phần tạo điều kiện cho nhịp độ phát triển của nền kinh tế nước nhà được liên tục và bền vững. Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một dạng hoạt động quan trọng nhằm thực hiện chức năng của ngành kiểm sát. Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật…”. Đặc biệt, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng riêng của Viện kiểm sát. Điều này được khẳng định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (Điều 206) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 232): “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức một cách đầy đủ rằng đây vừa là quyền vừa là trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm được tuân thủ đúng quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự. Thực tiễn khẳng định, kháng nghị phúc thẩm hình sự chính là một biện pháp, một công cụ sắc bén để kiểm tra lại tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Thông qua việc xét xử phúc thẩm, Toà án cấp trên sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của Toà án cấp sơ 1
  6. thẩm; hướng dẫn Toà án cấp sơ thẩm khắc phục những thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ toà án cấp sơ thẩm. Vì thế, có thể nói kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo cho việc xét xử sơ thẩm được đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Trong những năm vừa qua, thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại, chưa phát huy được hết các chức năng, vai trò của mình. Vì thế, chất lượng của công tác này chưa cao, chưa đáp ứng được những đòi hỏi trong tình hình mới. Điều này thể hiện rõ ở nhiều bản kháng nghị không đạt được những yêu cầu cả về nội dung lẫn hình thức, dẫn đến việc cấp trên phải rút kháng nghị hoặc Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát. Đây là thực trạng chung của toàn ngành kiểm sát. Qua số liệu thống kê cho thấy: năm 2004 toàn ngành có 1022 kháng nghị phúc thẩm thì có 140 kháng nghị bị rút ở cấp phúc thẩm (chiếm 14%); trong số 838 vụ có kháng nghị đưa ra xét xử phúc thẩm thì có 203 vụ, Toà phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị chiếm 25%.[31, tr. 3]. Thực trạng này ảnh hưởng không tốt đến chất lượng hoạt động nghiệp vụ của Viện kiểm sát. Mặt khác, hiện nay trong Bộ luật tố tụng hình sự có những quy định còn chưa phù hợp, chưa tạo điều kiện cho hoạt động kháng nghị của Viện kiểm sát như: chưa quy định những căn cứ để tiến hành kháng nghị phúc thẩm hình sự; hay có rất nhiều quy định về quyết định sơ thẩm, nhưng lại không quy định rõ quyết định nào của Toà án là quyết định thuộc đối tượng của công tác kháng nghị phúc thẩm, nên việc kháng nghị đối với các quyết định của Toà án gần như bị buông lỏng. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn cũng còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề kháng nghị phúc thẩm hình sự là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố hay chức năng kiểm 2
  7. sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Điều đó tạo ra nhận thức không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngay trong ngành kiểm sát cũng có nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho việc thực hiện chức năng của ngành. Ngoài ra, công tác kháng nghị trong ngành kiểm sát chưa được sự quan tâm đúng mức cũng góp phần làm cho công tác kháng nghị chưa thực sự phát huy hết vai trò trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị nhằm “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [2, tr. 2]. Theo tinh thần đó, hoạt động của ngành kiểm sát phải được nâng cao về mặt chất lượng cũng như đổi mới về nhận thức, cách thức thực hiện nhằm tạo ra những chuyển biến về chất cho hoạt động này. Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự” là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn nhằm đáp ứng được yêu cầu về chất lượng công tác kiểm sát hình sự và thực hành quyền công tố của ngành kiểm sát trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ lý do đó, tác giả đã chọn đề tài trên làm luận văn Thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu. Đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết về những vấn đề liên quan đến kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cụ thể là các công trình như: Thủ tục xét xử các vụ án hình sự: xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm 3
  8. của tác giả Đinh Văn Quế; Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Đào Trí Úc; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của tác giả Phạm Văn Lợi, Trần Đình Nhã, Nguyễn Tất Viễn v.v. Hay các bài viết của các nhà luật học như: Khuất Văn Nga, Dương Thanh Biểu, Trịnh Khắc Triệu, Võ Quang Nhạn, Đặng Quang Phương .v.v…đăng trên Tạp chí kiểm sát, tạp chí Luật học. Một số giáo trình giảng dạy ở các trường đại học chuyên ngành (Đại học Luật, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Học viện An ninh, Đại học cảnh sát…) cũng đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, bài viết cũng như các giáo trình giảng dạy này chưa đi sâu nghiên cứu những vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Mặt khác, như đã trình bày rõ ở trên, kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân chưa đáp ứng hết những đòi hỏi trong thực tiễn, pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này còn nhiều vấn đề phải đi sâu nghiên cứu và làm rõ. Vì thế, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định này là cần thiết và hữu ích. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhưng trong phạm vi đề tài này chỉ đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kháng nghị phúc thẩm hình sự; phân tích số liệu kháng nghị phúc thẩm hình sự của toàn ngành kiểm sát nhân dân và cụ thể đi sâu phân tích tình hình kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thuộc thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây (2002-2006); để từ đó đánh giá, nhận xét về thực trạng kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Đồng thời, từ những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này và thực trạng hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn 4
  9. thiện pháp luật tố tụng hình sự trong lĩnh vực này cũng như để nâng cao công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong ngành kiểm sát nhân dân trong thời gian tới. Cơ sở pháp lý nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp năm 1992, Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 và số 49 ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và một số văn bản hướng dẫn của các cơ quan tư pháp trung ương, quy chế nghiệp vụ của ngành kiểm sát về hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự. 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài. Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Thông qua việc phân tích tình hình kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát nhân dân và cụ thể đi sâu phân tích tình hình kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thuộc thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây (2002-2006), luận văn đánh giá đúng thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải pháp, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn để vận dụng có hiệu quả vào hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này trong thời gian tới. Đồng thời, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về vấn đề này. Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự như: khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 5
  10. Hai là, đánh giá đúng thực trạng hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát nhân dân trong những năm gần đây để tìm ra những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng trên, nhằm xác định đúng bản chất của vấn đề. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp cho phù hợp, tiến tới hoàn thiện chế định này trong Bộ luật tố tụng hình sự. 5. Cơ sở khoa học của đề tài. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát nhân dân và thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thuộc thành phố Hải Phòng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, luận văn cũng dựa trên các công trình của các nhà luật học và các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này. 6. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp biện chứng khoa học kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu như các phương pháp thống kê, tổng hợp; phương pháp phân tích, lựa chọn; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp hệ thống và một số phương pháp bổ trợ khác. 7. Điểm mới của đề tài. Kết quả của đề tài không phải là tài liệu có tính chất hàn lâm học thuật hoặc chuyên khảo mà chủ yếu là nghiên cứu, phân tích chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát, đồng thời hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về lĩnh vực này. 8. Cơ cấu của luận văn. 6
  11. Luận văn bao gồm: lời nói đầu, ba chương và kết luận. Kèm theo là danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1 QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý riêng có của Viện kiểm sát. Các chủ thể tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác đều không có quyền này. Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một trong những cơ sở đảm bảo đúng nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” theo quy định của Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một trong những căn cứ để mở ra một trình tự tố tụng mới, trình tự xét xử phúc thẩm hình sự như quy định của Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự: “xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo quy định trên, ngoài kháng nghị phúc thẩm thì kháng cáo cũng là một căn cứ để mở ra trình tự xét xử phúc thẩm hình sự. Chỉ có thể kháng nghị phúc thẩm và kháng cáo đối với bản án hoặc quyết định của Toà án cấp sơ thẩm khi bản án hoặc quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật, không đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ. Mặc dù, giữa kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát và kháng cáo có nhiều điểm giống nhau nhưng lại có sự khác nhau cơ bản là: kháng cáo chỉ là sự nhân danh cá nhân, tổ chức, cơ quan (tổ chức, cơ quan với tư cách là nguyên đơn dân sự trong vụ 7
  12. án hình sự) để bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Do vậy, những người có quyền kháng cáo chỉ cần không đồng ý với bản án hoặc quyết định của Toà án cấp sơ thẩm là đã có quyền kháng cáo. Còn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát là việc thực hiện chức năng nhiệm vụ theo luật định và chỉ kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm nếu phát hiện bản án, quyết định đó có sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật. Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp của nhà nước, xã hội; các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo cũng như quyền lợi của các đương sự trong vụ án hình sự. Viện kiểm sát thực hiện kháng nghị phúc thẩm bằng một văn bản pháp lý trong đó nêu rõ lý do của việc kháng nghị (khoản 2 Điều 233), đồng thời yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, nhằm sửa chữa khắc phục các sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm (nếu có) khi ra các bản án hoặc quyết định đó. Tuy nhiên, một vấn đề đang đặt ra là: kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố hay chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp? Về vấn đề này trong thực tiễn cũng như lý luận còn nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm của một số cán bộ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát thành phố Hải Phòng cho rằng: kháng nghị phúc thẩm hình sự là thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Theo quan điểm này, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát được thực hiện từ khi khởi tố vụ án hình sự - đến giai đoạn thi hành bản án hoặc quyết định của Toà án. Chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát là một hoạt động bao trùm, xuyên suốt quá trình tố tụng. Còn quyền công tố của Viện kiểm sát chỉ được thực hiện ở giai đoạn truy tố và xét xử vụ án hình sự tại phiên toà. Thực hiện chức năng kiểm sát tức là đã bao gồm việc thực hiện quyền công tố. Cũng theo quan điểm này, thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên toà, 8
  13. kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án, Viện kiểm sát phát hiện vi phạm thì mới ban hành kháng nghị. Nếu hiểu theo quan điểm này thì chưa thật chính xác so với các quy định của pháp luật nước ta như Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp do luật định”. Ngay Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cũng quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Như vậy, có thể khẳng định Viện kiểm sát có hai chức năng rất rõ ràng là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố Nhà nước. Điều này cũng được khẳng định một lần nữa tại các Điều 12, Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Trong suốt quá trình tố tụng, Viện kiểm sát thực hiện đồng thời cả hai chức năng này. Theo quan điểm của tiến sỹ Dương Thanh Biểu, Phó viện trưởng - Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một trong những hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự” [30, tr 3]. Theo quan 9
  14. điểm này, chức năng công tố của Viện kiểm sát chỉ có thể thực hiện ở giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Do đó, khi Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên toà, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật cần kháng nghị, Viện kiểm sát đã có quyền kháng nghị phúc thẩm mà không đợi thông qua hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Toà án. Quan điểm khác đã khẳng định được Viện kiểm sát có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhưng vẫn có những hạn chế: một là, nếu hiểu quyền công tố theo quan điểm này thì chưa thật toàn diện, bởi lẽ nội dung và phạm vi của quyền công tố rộng hơn nhiều. Đó là quyền của Nhà nước giao cho cơ quan chức năng để thực hiện việc buộc tội đối với những người thực hiện hành vi phạm tội nhằm bảo vệ các lợi ích của xã hội, của tập thể, của các tổ chức và công dân. Quyền công tố của nhà nước xuất hiện từ thời điểm có hành vi phạm tội xảy ra và được giao cho Viện kiểm sát. Quyền công tố được thể hiện ở những mức độ và hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào tư cách tham gia tố tụng của Viện kiểm sát trong mỗi giai đoạn tố tụng cụ thể. Để đảm bảo thực hiện chính xác quyền quyết định đưa vụ án ra toà, cần khẳng định phạm vi chức năng công tố bao gồm cả trong hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử…mà không nên đồng nhất quyền công tố với một số biện pháp pháp lý như làm cáo trạng, luận tội…mà khi thực hành quyền công tố Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện. Tại Điều 12, Điều 13 Luật tổ chức nhân dân năm 2002 khẳng định, trong giai đoạn điều tra Viện kiểm sát nhân dân thực hiện cả hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đã khẳng định điều đó một lần nữa. Hai là, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị không chỉ thông 10
  15. qua hoạt động thực hiện chức năng công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự mà còn thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên toà, qua nghiên cứu bản án, quyết định của Toà án gửi cho Viện kiểm sát. Vì tại phiên tòa và sau phiên toà, Viện kiểm sát không chỉ thực hiện một chức năng duy nhất là công tố mà còn thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án. Thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cũng chứng minh điều đó. Có rất nhiều bản kháng nghị của Viện kiểm sát được ban hành thông qua hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Toà án. Quan điểm của lãnh đạo và đa số cán bộ, Kiểm sát viên thành phố Hải Phòng cho rằng: kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát vừa để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, vừa thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án. Đây là quan điểm phổ biến hiện nay, phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật. So với quan điểm thứ nhất và thứ hai, quan điểm thứ ba đã hiểu đúng bản chất của cơ quan Viện kiểm sát. Viện kiểm sát không chỉ có một chức năng kiểm sát mà còn có chức năng thực hành quyền công tố. Hai chức năng này xuất hiện cùng một thời điểm, cùng tồn tại trong suốt các giai đoạn của tố tụng hình sự. Chúng vừa có tính độc lập tương đối vừa có quan hệ gắn bó hữu cơ mật thiết với nhau, được tiến hành song song với nhau trong suốt quá trình tố tụng, có vai trò hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau tạo nên tính thống nhất trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Hai chức năng này có một số nội dung đan xen lẫn nhau, vừa thuộc chức năng này vừa thuộc chức năng kia và ngược lại. Mặc dù, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 tại các Điều 13, 14, 15, 17, 18 quy định nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố và công tác kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử thành những điều độc lập với nội dung và giới hạn khác nhau; hoặc có những hoạt động không được xác định thuộc chức năng nào nên không thể quy định 11
  16. trong các điều luật trên mà tách thành một điều luật riêng (Điều 19); hay tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố, chức năng kiểm sát tại các điều luật riêng biệt (Điều 112, Điều 113). Như đã phân tích ở trên, trong mỗi giai đoạn của tố tụng hình sự, tư cách tham gia của Viện kiểm sát có những phạm vi và mức độ khác nhau. Tuỳ thuộc vào mỗi giai đoạn tố tụng mà hai chức năng này của Viện kiểm sát được thực hiện khác nhau. Việc quy định như trên không đồng nghĩa với việc hiểu hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát của Viện kiểm sát độc lập với nhau. Do đó, kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát không chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực hành quyền công tố mà còn thông qua hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát; không chỉ trước, trong mà còn sau phiên toà hình sự. Như vậy, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một dạng hoạt động của Viện kiểm sát mà không thể (và cũng không nên hiểu một cách máy móc) phân định một cách rõ ràng đó là hoạt động thực hành quyền công tố hay kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều đó cũng phù hợp với Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật”. Do đó, tác giả đồng tình với quan điểm coi kháng nghị phúc thẩm hình sự là vừa để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, vừa để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án. Hiểu như vậy sẽ toàn diện và đúng với chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát hơn. Mặt khác, còn giúp cho cán bộ ngành kiểm sát thực hiện tốt cả hai chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đồng thời, trong quá trình thực hiện hai chức năng này sẽ không có sự phân biệt, đề cao chức năng này coi nhẹ chức chức năng kia. 12
  17. Hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cũng như các văn bản pháp lý chưa có một khái niệm thống nhất về kháng nghị phúc thẩm hình sự. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật” [28, tr. 235]. Nếu hiểu kháng nghị phúc thẩm hình sự như trên chưa phản ánh đúng bản chất của kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý riêng của Viện kiểm sát và chưa thật đầy đủ. Qua các quy định về kháng nghị của pháp luật hiện hành và phân tích ở trên, theo tác giả có thể hiểu: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân, do người có thẩm quyền thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án sơ thẩm, nhưng xét thấy không đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi phạm hoặc sai lầm trong các bản án và quyết định đó. 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.2.1. Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tại Điều 230 quy định: “Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Điều 232 quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Qua nội dung hai điều luật trên cho thấy: đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự là bản án sơ thẩm hoặc quyết định sơ thẩm của vụ án đó nhưng chưa có hiệu lực pháp luật. “Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là những bản án, quyết định sơ thẩm còn 13
  18. trong thời hạn kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm” [28, tr. 235], tức là sau khi ban hành còn trong thời hạn để người có thẩm quyền kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo, hoặc người có thẩm quyền kháng nghị thực hiện quyền kháng nghị. Như vậy, về nguyên tắc, bản án hoặc quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật không phải là đối tượng của xét xử phúc thẩm và do đó, cũng không thuộc đối tượng của kháng nghị phúc thẩm. Đối tượng kháng nghị phúc thẩm là bản án của Toà án cấp sơ thẩm được Bộ luật tố tụng hiện hành quy định tương đối rõ ràng. Bản án là những phán quyết của Hội đồng xét xử với những hình thức và nội dung theo quy định tại Điều 224 Bộ luật tố tụng hình sự. Ngược lại, đối với những quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, việc xác định quyết định nào là đối tượng để Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm còn có nhiều ý kiến. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, trong giai đoạn sơ thẩm, Toà án có quyền ra nhiều loại quyết định như: quyết định xử lý vật chứng (Điều 76); quyết định khởi tố vụ án hình sự (Điều 104); quyết định chuyển vụ án (Điều 174); quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án (Điều 176); quyết định thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn (Điều 177); quyết định dẫn giải người làm chứng (Điều 192); quyết định hoãn phiên toà (Điều 194); quyết định bắt buộc chữa bệnh (Điều 311) v.v. Trong số các quyết định của Toà án sơ thẩm luôn tồn tại một số quyết định mà vì tính chất đặc thù của nó nên việc thi hành là không thể trì hoãn, kể cả trong trường hợp bị kháng nghị phúc thẩm. Nghĩa là quyết định đó phải có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ban hành, bất luận sau đó có bị kháng nghị phúc thẩm hay không. Chẳng hạn như: quyết định chuyển vụ án, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo, quyết định hoãn phiên toà, quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng…Vì lẽ đó mà trong số các quyết định trên, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định rõ quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 176) không 14
  19. phải là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm. Theo khoản 2 Điều 179 thì: “Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Toà án biết. Trong trường hợp không bổ sung được những vấn đề mà Toà án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án”. Tuy nhiên với các quyết định còn lại thì Bộ luật tố tụng hình sự không quy định rõ là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự hay không. Bên cạnh đó, một số quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn thuộc đối tượng của kháng nghị phúc thẩm như trường hợp tại khoản 3 Điều 316 quy định: quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh vẫn có hiệu lực thi hành mặc dù có khiếu nại hoặc kháng nghị, kháng cáo. Trong trường hợp này, tính chất của xét xử phúc thẩm đã không còn đúng như quy định tại Điều 230 nữa, đối tượng của xét xử phúc thẩm trong trường hợp này lại là một quyết định đã có hiệu lực pháp luật, thay vì một quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Pháp luật tố tụng hiện hành không quy định rõ Viện kiểm sát được kháng nghị đối với các quyết định nào của Toà án sơ thẩm. Hướng dẫn về vấn đề này tại mục 3 phần I, hướng dẫn thi hành Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự trong Nghị quyết số 05/2005/NQ - HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, về việc hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự thì những quyết định sơ thẩm là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm bao gồm: quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ vụ án; quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và các quyết định khác. Với đối tượng của kháng nghị phúc thẩm là các quyết định khác, Nghị quyết không đề cập cụ thể là những quyết định sơ thẩm nào mà chỉ hướng dẫn chung chung: trường hợp kháng nghị đối với các quyết định khác, thì Toà án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và văn bản pháp luật 15
  20. liên quan quy định về thẩm quyền và thủ tục kháng nghị, giải quyết cụ thể đó để giải quyết vụ án. Để minh hoạ cho nội dung này, Nghị quyết đưa ra một ví dụ về trường hợp kháng nghị lệnh tạm giam của Toà án cấp sơ thẩm như sau: Viện kiểm sát cùng cấp căn cứ vào Điều 232 và Điều 239 của Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 6 Điều 27 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị lệnh tạm giam của Chánh án Toà án nhân dân huyện Q đối với bị cáo Nguyễn Thị M với lý do bị cáo đang nuôi con dưới ba sáu tháng tuổi và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 2 Điều 88 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp này, sau khi nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát, Chánh án Toà án nhân dân huyện Q phải xem xét lý do kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp có đúng hay không. Nếu đúng thì căn cứ vào Điều 177 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị cáo M, nếu không đúng thì có văn bản trả lời cho Viện kiểm sát biết về việc không chấp nhận kháng nghị, trong đó nêu rõ lý do của việc không chấp nhận kháng nghị. Phân tích ví dụ trên theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, lệnh tạm giam của Chánh án Toà án huyện Q không phải là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm và việc Chánh án Toà án huyện Q xem xét kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp để chấp nhận hoặc không chấp nhận, cũng không được coi là hoạt động xét xử phúc thẩm vì những lý do, thứ nhất, lệnh tạm giam là một quyết định sơ thẩm không thoả mãn đặc trưng về đối tượng của kháng nghị phúc thẩm, tức là một quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Do tính chất đặc thù của lệnh tạm giam nên nó phải có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành, mà không thể chưa có hiệu lực tối đa là mười lăm ngày như Điều 239, Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Mặt khác, tại Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự thì một quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật không phải là đối tượng của xét xử phúc thẩm. Lệnh tạm giam cũng không được Bộ luật tố tụng hình sự quy định thành một trường hợp đặc biệt, 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2