intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

22
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Một số vấn đề chung về pháp luật, hương ước và mối quan hệ giữa chúng; thực trạng và giải pháp về mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay

  1. Đại học quốc gia hà nội Khoa Luật Nguyễn Thị Bắc Mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội việt nam hiện nay luận văn thạc sĩ luật học Hà nội - 2009
  2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT, HƯƠNG ƯỚC 10 VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG 1.1. Khái quát chung về pháp luật, hương ước và sự tương đồng, 10 khác biệt giữa chúng 1.1.1. Khái quát chung về pháp luật 10 1.1.2. Khái quát chung về hương ước 13 1.1.3. Sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và hương ước 23 1.1.3.1. Sự tương đồng giữa pháp luật và hương ước 23 1.1.3.2. Sự khác biệt giữa pháp luật và hương ước 28 1.2. Mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước 32 1.3. Sự kết hợp giữa pháp luật và hương ước trong việc điều chỉnh 46 các quan hệ xã hội Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA 51 PHÁP LUẬT VÀ HƯƠNG ƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng pháp luật, hương ước và mối quan hệ giữa chúng 51 ở Việt Nam hiện nay 2.1.1. Sơ lược về tình hình pháp luật và hương ước ở Việt Nam 51 hiện nay 2.1.2. Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong 57 đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
  3. 2.1.2.1. Những ưu điểm 57 2.1.2.2. Một số tồn tại, hạn chế 68 2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh của 76 pháp luật, hương ước và mối quan hệ giữa chúng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Nhận thức đúng vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa pháp luật 76 và hương ước trong đời sống xã hội 2.2.2. Không ngừng hoàn thiện việc xây dựng, thực hiện pháp luật 78 và hương ước 2.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và giáo dục 83 các yếu tố truyền thống trong gia đình, nhà trường và xã hội 2.2.4. Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật, hương ước trong xã hội 84 2.2.5. Kiểm tra, giám sát việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật 86 và hương ước trong xã hội, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89 PHỤ LỤC 96
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Pháp luật từ khi ra đời cho tới ngày nay luôn luôn được coi là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân thì vai trò của pháp luật luôn được xác định là công cụ chủ yếu, cơ bản để quản lý xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh pháp luật còn rất nhiều công cụ quản lý xã hội khác được Nhà nước thừa nhận, khuyến khích áp dụng, trong đó có hương ước. Hương ước là di sản văn hóa đặc sắc của nhân dân Việt Nam. Một phần tâm hồn thuần hậu, chất phác và rất đỗi bao dung của làng quê Việt đã được ghi lại trong hương ước. Hương ước là tấm gương phản ánh trung thực mọi sinh hoạt của cộng đồng làng xã xưa, từ cái hay đến cái dở, cả mặt tích cực lẫn điều hạn chế chốn hương thôn. Qua đó, chúng ta có thể thấy lịch sử hình thành và phát triển của làng xã Việt Nam. Điều này có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi quá trình xây dựng nông thôn mới được Đảng và Nhà nước quan tâm đẩy mạnh. Bởi lẽ, muốn hiểu thực trạng nông thôn nhằm đưa ra chiến lược phát triển lâu dài, phù hợp, không thể không bắt đầu từ việc nghiên cứu đặc điểm của làng xã trong quá khứ cũng như tới hiện tại ngày nay. Khi làng Việt xưa với cây đa, bến nước, sân đình, với lũy tre xanh bình dị dần lui vào quá khứ, chúng ta mới giật mình nhận ra, bên cạnh đổi thay tích cực của nền kinh tế thị trường, biết bao vẻ đẹp thuần khiết nơi thôn quê đã không còn nữa. Xây dựng nền kinh tế năng động là quan trọng song để có được sự phát triển bền vững, hài hòa cần phải đi đôi với việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của tổ tiên. Lớp người xưa ngày càng 1
  5. vắng bóng, bức tranh làng Việt chỉ có thể được khôi phục nhờ tư liệu lịch sử, trong đó đáng chú ý là các hương ước. Trong những năm gần đây, cuộc vận động xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa trở thành phong trào quần chúng rộng khắp cả nước. Vấn đề nghiên cứu hương ước được đặt ra ngày càng cấp thiết, nhằm kế thừa và lưu giữ những phong tục đẹp, hợp thời đại, đưa vào quy ước làng văn hóa mới. Đó là việc làm đầy công phu, khó nhọc, "gạn đục, khơi trong" cốt để chắt lọc ra những gì hữu ích cho hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong thực tế đời sống xã hội Việt Nam hiện nay vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để, thỏa đáng cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn. Vì thế, các hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện cũng như hiệu quả điều chỉnh, quản lý của pháp luật và hương ước trong thực tế còn rất nhiều hạn chế, bất cập. Việc nghiên cứu một cách khoa học nhằm làm rõ mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước đang trở thành một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Thông qua quá trình nghiên cứu, chúng ta sẽ thấy rõ hơn vai trò, mối quan hệ, hiệu quả điều chỉnh cũng như những vấn đề còn tồn tại của pháp luật và hương ước trong thực tế đời sống để từ đó có những cái nhìn đúng đắn, có những giải pháp hiệu quả hơn, thiết thực hơn nhằm xây dựng, thực hiện pháp luật và hương ước mang lại vai trò đích thực là quản lý xã hội một cách tốt nhất. Tìm hiểu mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay là đề tài được ấp ủ trong tác giả luận văn từ khá lâu cũng bởi xuất phát từ những lý do đã nêu trên. Đồng thời, qua nghiên cứu vấn đề giúp bản thân người viết đi từ hiểu đến thêm yêu, thêm gắn bó với mảnh đất quê hương, nơi sinh thành, nơi cất giữ những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm. Bởi bên cạnh đó, sự vươn lên mạnh mẽ của nền kinh tế trong thời gian gần đây đã khiến những giá trị văn hóa lịch sử 2
  6. ấy đứng trước nguy cơ bị xói mòn nghiêm trọng. Khi thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn được góp một phần công sức nhỏ bé vào việc ngăn chặn nguy cơ ấy. Qua khảo sát thực tế, tác giả nhận thấy cán bộ cấp xã, thôn - những người được giao trọng trách soạn thảo quy ước làng văn hóa mới, hoặc không có khái niệm gì về hương ước cổ truyền hoặc cho rằng nghiên cứu nó là điều không cần thiết. Tư liệu mà họ căn cứ vào là pháp luật của Nhà nước và nếp sinh hoạt hiện nay trong làng xã. Kết quả là nhiều hương ước, quy ước mới được ban hành mang nặng tính áp đặt và gán ghép. Thực trạng đáng buồn trên đây càng thôi thúc tôi lựa chọn đề tài này với mục đích: bước đầu làm sáng tỏ các giá trị đích thực của hương ước để kế thừa những kinh nghiệm quý báu phục vụ công cuộc xây dựng quê hương. Bên cạnh những lý do trên, qua luận văn tác giả hy vọng góp thêm tài liệu để tìm hiểu làng xã Việt Nam trên các mặt văn hóa, phong tục, quản lý xã hội... Từ đó có thể lý giải một số vấn đề về nông thôn và nông dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Vì nghiên cứu về lịch sử làng xã, về nông thôn và nông dân Việt Nam rất cần có những tài liệu gốc như hương ước. Cái tâm đã sẵn, song khả năng, thời gian và điều kiện mọi mặt còn hạn chế nên mặc dù người viết hết sức cố gắng giải quyết các vấn đề đặt ra, luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp, để tác giả được học hỏi và nâng cao trình độ hiểu biết của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Là đề tài hấp dẫn cả về khoa học, lý luận và thực tiễn, pháp luật và hương ước đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học ở các lĩnh vực khác nhau như: lịch sử, dân tộc học, văn hóa, pháp luật, ngôn ngữ... Các công trình nghiên cứu hương ước hoặc đã được tập hợp thành sách hoặc còn in rải 3
  7. rác trên các báo, tạp chí chuyên ngành (Nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học, Nhà nước và pháp luật...). Pháp luật và hương ước được tìm hiểu ở rất nhiều góc độ; có khi nó là đối tượng nghiên cứu trực tiếp, cũng có khi hương ước trở thành dẫn chứng không thể thiếu được để minh họa cho một khía cạnh nào đó trong đời sống làng xã. Các công trình nghiên cứu trực tiếp về pháp luật và hương ước có thể chia thành 3 nhóm chính sau: 1. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu, gồm các sách và bài báo đã được công bố như: hai cuốn sách của tác giả Bùi Xuân Đính: Lệ làng phép nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1985 và Hương ước và quản lí làng xã, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, đã nêu lên mối liên hệ cũ và mới trong nội dung hương ước xưa và nay đồng thời tác giả cũng nêu rõ những vấn đề mà hương ước hiện nay cần giải quyết; Lê Đức Tiết: Về hương ước lệ làng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, cho thấy một cái nhìn khá toàn diện về hương ước trong suốt quá trình từ khi hình thành, mối quan hệ với pháp luật cũng như vai trò của hương ước trong đời sống xã hội nông thôn Việt Nam; Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, do Đào Trí Úc chủ biên là tâm huyết của tập thể các tác giả về hương ước xưa và nay, mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước đồng thời nêu bật lên vị trí, vai trò của hương ước với việc thực hiện dân chủ ở nông thôn hiện nay; Vũ Duy Mền: Tìm lại làng Việt xưa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006. Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về hương ước đã được giới thiệu trên các báo, tạp chí. Tác giả Vũ Duy Mền qua loạt bài in trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4/1982, số 3 + 4/1989, số 1/1993 đã xác định thuật ngữ khoán ước, hương ước, giới thiệu nội dung của nó, trình bày nguồn gốc và điều kiện xuất hiện hương ước trong làng xã vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. 4
  8. Gần đây, cuộc vận động xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa được đẩy mạnh đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu hương ước thuận lợi hơn. Mặt khác, xu thế toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực mở ra cơ hội cho các nhà khoa học Việt Nam tiếp cận với nhiều nguồn kiến thức mới. Một số học giả đã dày công nghiên cứu, đặt hương ước làng Việt trong mối quan hệ tương đồng và dị biệt với "hương qui" của Trung Quốc, "luật làng" của Nhật Bản. Như cuốn Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, của Phan Đại Doãn, hay công trình Hương ước làng xã Bắc Bộ Việt Nam với luật làng Kanto Nhật Bản (thế kỉ XVII - XIX), của Viện Sử học, Hà Nội, 2001, do Vũ Duy Mền chủ biên. 2. Các công trình chuyên sưu tầm và giới thiệu hương ước, chủ yếu là tập hợp các bản hương ước theo phạm vi từng tỉnh như: Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu với: Luật tục Ê-đê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương giới thiệu về: Hương ước Hà Tĩnh, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tĩnh, 1996; cuốn: Hương ước Nghệ An, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, do Ninh Viết Giao chủ biên; Hương ước Thái Bình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2000, do Nguyễn Thanh biên soạn. 3. Các luận án, luận văn, khóa luận về hương ước như: Luận án Phó tiến sĩ Lịch sử năm 1996 của Bùi Xuân Đính với đề tài: Về một số hương ước làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, đã trình bày những nội dung cơ bản, vai trò và tác động của hương ước trong quản lí làng xã; Luận án Tiến sĩ Luật học năm 2003 của Nguyễn Huy Tính với đề tài: Hương ước mới - một phương tiện góp phần quản lí xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay, đã phân tích những biến đổi lịch sử từ hương ước làng xã cổ truyền đến hương ước mới, khẳng định hương ước mới là phương tiện tự quản, tự điều chỉnh hữu hiệu của làng xã, có quan hệ biện chứng với pháp luật; đồng thời tác giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện hương ước mới. Một số luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học đã chọn hương ước làm đối tượng nghiên cứu như: Hoàng Hoa Vinh với đề tài: Vai trò của 5
  9. hương ước làng Nhất trong việc xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Hà Nam, (Đại học Văn hóa Hà Nội, 2000; Dương Xuân Thoạn với đề tài: Hương ước với việc xây dựng làng văn hóa ở huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2004... Trong khóa luận tốt nghiệp của mình (2004), sinh viên Đào Thu Vân khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã "Bước đầu tìm hiểu công cuộc bảo vệ tài nguyên môi trường của ông cha ta (qua nguồn tài liệu hương ước làng người Việt trước cách mạng tháng Tám - 1945)"… Ngoài các công trình nghiên cứu trực tiếp về hương ước nêu trên, rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu trực tiếp làng xã, gián tiếp về mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước đã được xuất bản. Một số tác giả đề cập đến hương ước trong mối quan hệ với phong tục làng xã như: Ngô Tất Tố với hai thiên phóng sự: Việc làng, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội, 1937 và Tập án cái đình, Nxb Văn họ, Hà Nội, 1977, tập trung phê phán những thói hư tật xấu, những hủ tục lạc hậu - một lực cản kéo lùi sự phát triển của các vùng thôn quê; Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1990; Lệ làng Việt Nam, Nxb Hà Nội, 1999, của Hồ Đức Thọ bàn về những tập tục, lệ làng... Trong khi tìm hiểu về cơ cấu tổ chức làng xã nhiều nhà sử học cũng đã sử dụng hương ước như một nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất: Xã thôn Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959, của Nguyễn Hồng Phong; Trần Từ với Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984; Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc: Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Nguyễn Minh Đoan: Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, cũng đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước ở Việt Nam và rất nhiều các công trình khác nữa. Như vậy, vấn đề về pháp luật, về hương ước của nước ta đã được nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau. Song, cho đến thời điểm này vẫn chưa có 6
  10. một công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, cụ thể về mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay theo hướng giải quyết triệt để cả vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn mối quan hệ này. Với luận văn của mình, tôi mong được đóng góp công sức vào việc nghiên cứu mối quan hệ nêu trên được thấu đáo hơn, mang lại những giá trị thiết thực trong việc nâng cao chất lượng của những công cụ điều chỉnh xã hội. 3. Nhiệm vụ của đề tài Phân tích một cách khoa học và hệ thống về mặt lý luận mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước. Sưu tầm, tập hợp các bản hương ước mới (có đối chiếu với các bản hương ước cổ) phân tích luận giải mối quan hệ của chúng với pháp luật trong quản lý xã hội. Trên cơ sở đó nghiên cứu làm rõ các giá trị văn hóa và lịch sử của hương ước, đồng thời, chỉ ra những điểm cần phát huy, hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu + Đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trên cơ sở phân tích vị trí, vai trò, thực trạng, những ưu khuyết điểm của pháp luật và hương ước trong việc thực hiện vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở Việt Nam hiện nay. + Phạm vi nghiên cứu. Về không gian: tập trung nghiên cứu về hương ước của các làng xã nông thôn Việt Nam trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Về thời gian: đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong quản lý xã hội tập trung vào giai đoạn từ năm 1986 đến nay. 5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu + Nguồn tư liệu. Chúng tôi coi các văn bản pháp luật đang còn hiệu lực và các bản hương ước mới là nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất, bên cạnh đó 7
  11. những tư liệu thu thập được trong quá trình đi thực tế tại các địa phương cũng góp phần quan trọng vào việc hoàn thành luận văn. Ngoài ra, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi được kế thừa di sản nghiên cứu về pháp luật, hương ước, về làng Việt cổ truyền đã được công bố từ trước đến nay qua sách báo, tạp chí, luận án... đã nêu trên. + Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp luận được sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của pháp luật, hương ước và mối quan hệ giữa chúng là phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu và trình bày vấn đề thuộc nội dung đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp lôgic, phương pháp liên ngành để làm sáng tỏ nội dung các vấn đề của luận văn. 6. Đóng góp của luận văn Trên cả hai phương diện khoa học và thực tiễn luận văn đã có những đóng góp nhất định. Bởi đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay nên trước hết nó có ý nghĩa về mặt tư liệu. Mặt khác, trên cơ sở phân tích lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước, thực trạng mối quan hệ này trong đời sống xã hội Việt Nam, từ đó đã đề xuất những giải pháp phù hợp, có giá trị góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật và hương ước trong thực tế đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Khi trình bày luận văn, tác giả đã cố gắng làm rõ tính đặc sắc của hương ước như một di sản văn hóa của của dân tộc. Đồng thời qua nghiên cứu vấn đề này giúp những người trực tiếp soạn thảo quy ước văn hóa mới có cái nhìn đúng đắn, khách quan hơn về giá trị những hương ước của quê hương mình. 8
  12. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về pháp luật, hương ước và mối quan hệ giữa chúng. Chương 2: Thực trạng và giải pháp về mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước ở Việt Nam hiện nay. 9
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT, HƢƠNG ƢỚC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT, HƢƠNG ƢỚC VÀ SỰ TƢƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT GIỮA CHÚNG 1.1.1. Khái quát chung về pháp luật Pháp luật là hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp và có tính đặc thù. Xuất phát từ yêu cầu của xã hội, của quy luật phát triển, cùng với sự ra đời của Nhà nước, pháp luật ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Vì vai trò và những tác động sâu rộng về mọi mặt của pháp luật tới cuộc sống xã hội mà ngay từ khi ra đời đến nay, pháp luật luôn thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu, hoàn thiện và phát triển bởi các nhà khoa học, nhà luật học, nhà cầm quyền cũng như đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nhận thức về pháp luật. Học thuyết Mác - Lênin đã chỉ ra bản chất, vai trò của pháp luật và phân tích các thuộc tính của pháp luật trong một thể thống nhất, đó là: Tính quyền lực, pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh quyền lực của Nhà nước có khả năng tác động tới tất cả mọi đối tượng trong xã hội; tính quy phạm phổ biến, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, đó là những khuôn mẫu, mực thước, quy chuẩn được xác định cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Tính quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà Nhà nước quy định để mọi chủ thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép, vượt quá giới hạn đó là trái luật; Pháp luật là một hiện tượng mang tính ý chí. Pháp luật thể hiện ý chí nhà nước từ khâu xây dựng đến khâu thực hiện pháp luật, thậm chí là những hiệu ứng mà pháp luật tạo ra trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. Pháp luật còn có tính xã hội cao vì pháp luật do Nhà 10
  14. nước - đại diện của tất cả các giai tầng, các lực lượng khác trong xã hội ban hành. Bên cạnh việc dùng pháp luật là công cụ để củng cố, duy trì, bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị thì pháp luật còn đảm nhiệm vai trò điều hòa lợi ích của các giai cấp trong xã hội nhằm duy trì một trật tự xã hội tương đối ổn định. Hơn nữa, chỉ khi nào pháp luật được xây dựng trên cơ sở những điều kiện chung của xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân mới thực sự mang lại hiệu quả quản lý xã hội của nó. Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp sâu sắc, vừa mang tính xã hội, thể hiện ý chí nhà nước, quyền lực nhà nước. Với những thuộc tính cơ bản nêu trên, pháp luật mang lại những giá trị xã hội to lớn. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo an ninh và an toàn xã hội. Pháp luật được xây dựng theo một trình tự nghiêm ngặt, được Nhà nước ban hành công khai, rộng khắp trên toàn bộ lãnh thổ, tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với những quy định cụ thể, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh quyền lực của Nhà nước. Pháp luật còn là sự biểu hiện của văn minh và văn hóa nhân loại. Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước khi xã hội phát triển tới một trình độ nhất định, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử nhân loại. Bản thân pháp luật chính là hiện thân của hiện tượng văn hóa nhân loại, từ khi ra đời đến nay trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể với đặc trưng riêng của mình, pháp luật đều để lại những giá trị văn hóa khác nhau, có sự tác động mạnh mẽ tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mang đậm dấu ấn riêng theo từng tiến trình lịch sử. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo quyền tự do của con người trong lao động và trong cuộc sống, bởi vì pháp luật tạo dựng nên những khuôn khổ pháp lý với những quyền và nghĩa vụ tương ứng buộc mọi người phải tự tuân thủ nghĩa vụ của bản thân và tôn trọng quyền tự do của người khác. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội. Pháp luật quy định nguyên tắc mọi người đều được bình đẳng và đối xử công bằng trước pháp luật. Theo đó, bất cứ chủ thể nào khi tham gia vào các quan hệ do pháp luật điều chỉnh đều có những quyền và chịu 11
  15. trách nhiệm pháp lý như nhau không kể địa vị, giai cấp, giàu nghèo... Bên cạnh đó, pháp luật còn mang tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc, pháp luật cụ thể hóa chính sách nhân đạo, nhân văn của Đảng và Nhà nước thành các quy định pháp luật bảo vệ, khẳng định và tôn trọng quyền con người, phát huy những giá trị văn hóa vì con người. Ngay trong Bộ luật Hình sự Việt Nam (Bộ luật quy định nhiều chế tài khắt khe của mỗi quốc gia) cũng luôn khuyến khích áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết phục thay vì các biện pháp cưỡng chế nhằm khơi dậy tính thiện của con người, giúp con người mau chóng hành động theo lẽ phải, sự công bằng mà pháp luật thiết lập nên. Pháp luật còn là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững: Pháp luật tạo ra khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội trên cơ sở đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thiết lập cơ chế giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Pháp luật thể chế hóa những quan điểm, đường lối phát triển kinh tế thành hệ thống các quy phạm cụ thể, tạo cơ sở pháp lý để xác lập, củng cố và định hướng phát triển cho cả một chế độ kinh tế - chính trị, là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo công bằng xã hội. Ngoài những giá trị xã hội to lớn như trên, pháp luật còn đóng vai trò hết sức quan trọng: Là công cụ thiết lập, củng cố, tăng cường quyền lực nhà nước, là cơ sở để xây dựng, củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng, bồi dưỡng, kiện toàn đội ngũ cán bộ Nhà nước; pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý kinh tế - xã hội, thông qua pháp luật, Nhà nước có thể triển khai rộng khắp, đồng bộ và hiệu quả các chủ trương chính sách của mình tới toàn bộ chủ thể chịu sự tác động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia, thậm chí vượt cả biên giới quốc gia trong một số trường hợp nhất định. Cũng thông qua pháp luật mà Nhà nước có cơ chế kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động của các tổ chức, cơ quan, nhân viên nhà nước và toàn thể các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội; pháp luật góp phần tạo dựng những quan 12
  16. hệ mới. Thông qua những cơ sở nghiên cứu cụ thể, xác đáng, Nhà nước có thể dự kiến được những biến động, những xu hướng, những khả năng phát triển của xã hội trong tương lai để có những quy định phù hợp, kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới, góp phần giữ gìn trật tự xã hội một cách tốt nhất. Không những góp phần duy trì trật tự xã hội trong nước, pháp luật còn góp phần tạo ra môi trường ổn định để thiết lập, duy trì và phát triển các quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới. Bởi vì, nhu cầu cũng như mong muốn của con người là luôn mong muốn được phát triển trong một môi trường an toàn, hữu nghị, rộng mở, gắn kết. Pháp luật chính là cầu nối cho sự gắn kết đó, giúp con người xích lại gần nhau hơn, cùng giúp nhau vượt qua những khó khăn và mang đến cho nhau những cơ hội phát triển chung. 1.1.2. Khái quát chung về hƣơng ƣớc Mặc dù pháp luật có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển của loài người, là công cụ quản lý xã hội hữu hiệu nhưng pháp luật không phải là công cụ quản lý xã hội duy nhất. Bên cạnh pháp luật còn có những công cụ quản lý xã hội khác như: đạo đức, tôn giáo, điều lệ của các tổ chức, tập quán... trong đó có hương ước - một phần lệ làng thành văn. Trong những năm gần đây, thuật ngữ hương ước không chỉ quen thuộc đối với các nhà khoa học mà còn rất phổ biến trong nhân dân, nhất là từ khi hiện tượng tái lập hương ước và xây dựng làng văn hóa mới phát triển thành một phong trào rộng khắp cả nước. Tuy nhiên, để hiểu một cách thấu đáo khái niệm hương ước cũng như để lý giải được nguồn gốc và sự xuất hiện của thuật ngữ này trong lịch sử Việt Nam không phải là vấn đề đơn giản. Theo nhiều nhà nghiên cứu, hương ước là thuật ngữ nguyên Hán, được du nhập vào Việt Nam muộn nhất ở thế kỷ XV, bằng chứng là "bản sao hương ước làng Tri Lễ xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn mang dấu ấn niên đại sớm nhất còn lại đến ngày nay" [35, tr. 283]. Song cho tới cuối thế kỷ XVII, các quy ước trong làng xã vẫn được mang tên gọi khoán ước. Thế kỷ XVIII, XIX 13
  17. thuật ngữ hương ước mới dần trở nên quen thuộc. Sang đầu thế kỷ XX, "hương ước được dùng hết sức rộng rãi trong các làng xã, nhiều nơi không còn thuật ngữ khoán ước, mà lệ làng thành văn là hương ước" [35, tr. 285]. Từ cận đại đến nay, các nhà nghiên cứu thuộc nhiều bộ môn khoa học xã hội đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về hương ước. Trong sách Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính nêu: "Chốn hương thôn thường có hẹn riêng với nhau lập ra sổ sách, đồng dân ký kết gọi là khoán ước" [6, tr. 206], sau đó, trong mục khoán ước ông lại đồng nhất thuật ngữ khoán ước với hương ước. Tác giả cuốn Hương ước và quản lý làng xã - Bùi Xuân Đính còn khẳng định: "Tùy theo cách ghi chép của từng làng mà hương ước được gọi bằng những tên khác nhau: hương biên, hương khoán, hương lệ, khoán ước, khoán lệ, tục lệ, cựu khoán, điều ước, điều lệ..." [15, tr. 24]. Tác giả Cao Văn Biền cho rằng: "Hương ước là văn bản pháp quy về các tục lệ của làng xã do quan viên ở làng xã tự xây dựng lên cho làng mình nhằm bảo vệ sự tồn tại của cộng đồng dân cư ở làng xã trong tư thế ổn định của nó về lãnh thổ; xây dựng phong tục, tập quán tốt đẹp; phát triển đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội" [5, tr. 42]. Còn theo tác giả Ninh Viết Giao thì: "Hương ước là văn bản pháp lý của mỗi làng, trong đó bao gồm các điều ước về dân sự, hình sự, các điều ước về giữ gìn đạo lý, về phong tục tập quán... có liên quan đến tổ chức xã hội cũng như đến đời sống nhân dân trong làng" [19, tr. 58]. Tác giả Nguyễn Huy Tính lại quan niệm: Hương ước là phần lệ làng đã được văn bản hóa thành "bộ luật" riêng của mỗi làng Việt, dùng để điều chỉnh các mối quan hệ phổ biến trong phạm vi làng xã dưới chế độ phong kiến từ nhiều thế kỷ trước đây. Hương ước là một bộ phận của văn hóa làng; đồng thời là di sản văn hóa dân tộc có tính chất pháp lý khá độc đáo của làng xã cổ truyền Việt Nam [60, tr. 9]. Ngắn gọn hơn, với Diệp Đình Hoa, hương ước chính là lệ làng: "Mỗi người Việt Nam từ trong tiềm thức, có lẽ ai cũng hiểu thành ngữ: "Phép vua 14
  18. thua lệ làng". Lệ là một từ Hán Việt, làng là một từ thuần Việt. Vì thế trong các văn bản, để cho nghiêm chỉnh, người ta thường thay vào đó chữ hương ước, một khái niệm Hán Việt" [21, tr. 1]. Và còn nhiều cách định nghĩa khác nữa. Như vậy, dù được diễn đạt bởi ngôn từ hoàn toàn không giống nhau, dù được phát biểu ở góc độ khoa học nào, các ý kiến đều thống nhất ở điểm coi hương ước là phần lệ làng được văn bản hóa. Theo chúng tôi, thuật ngữ hương ước qua định nghĩa sau của tác giả Vũ Duy Mền là chi tiết và trọn vẹn hơn cả: Là những quy ước về hầu hết các mặt hoạt động của làng xã người Việt, như cách thức tổ chức và hoạt động của các thiết chế tổ chức trong làng xã: Hội tư văn, tư võ, hội thiện, phe - giáp, xóm ngõ... Các hoạt động xã hội: Hội hè đình đám lễ tế, tuần phòng, khao vọng, giao hiếu... Một số hoạt động kinh tế... Đó là những quy ước vừa mang nét chung và rất nhiều nét riêng, rất riêng của mỗi làng Việt [33, tr. 83]. Hương ước vốn là sản phẩm văn hóa - tinh thần độc đáo của làng Việt, bởi thế nguồn gốc hương ước gắn liền với những biến đổi thăng trầm trong đời sống thôn quê. Cùng với sự phát triển tất yếu của xã hội, Công xã nông thôn hình thành, ngày càng thịnh vượng về kinh tế, đông đúc về dân cư nên các quan hệ xã hội theo đó mà trở nên phức tạp hơn. Thực tế ấy đòi hỏi cần phải có những quy định - dẫu rằng lúc đầu còn hết sức sơ lược - trong quan hệ giữa các thành viên công xã với nhau và giữa các thành viên với tổ chức cộng đồng. Những quy định ấy được mọi người chấp nhận, cùng nhau thực hiện, lâu dần trở thành tục lệ, tập quán được truyền khẩu từ đời này sang đời khác. Như vậy, có thể nói rằng: "Nguồn gốc hương ước vốn từ tục dân (lệ làng truyền khẩu) chất phác và đơn giản" [25, tr. 289], trong đó, tục thề hay hội thề là hình thức tục lệ cổ xưa nhất. Lời thề đầu tiên được sử sách ghi lại là lời thề giết giặc Đông Hán của Hai Bà Trưng năm Canh Tí (40). 15
  19. Xét ở góc độ khác, hương ước là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học khác nhau: luật học, dân tộc học, nhân học, sử học... xong có thể hiểu một cách chung nhất có tính "luật hóa" về hương ước "là giao ước thỏa thuận chung có tính chất quy định hoặc là nguyên tắc trong nội bộ của thôn làng, họ tộc" [29], là bản lệ làng thành văn do một số trí thức trong làng xây dựng nên, được dân làng thông qua, chính quyền địa phương phê duyệt và cùng nhau thi hành. Đối với các hương ước cổ truyền Việt Nam, đa số được các nhà Nho xây dựng lên trên cơ sở sách kinh truyện của thánh hiền, gồm những lời di huấn mẫu mực cho hậu thế để lập ra hương ước. Dưới góc độ ngôn ngữ, hương ước chính là các quy ước trong hương thôn mang tính tự quản ở cơ sở địa phương mà nhân dân thường hay gọi là "lệ làng". Dưới góc độ pháp lý, hương ước là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung của một cộng đồng dân cư nhất định hình thành trên cơ sở thỏa thuận của chính các thành viên trong cộng đồng nhằm điều chỉnh những hành vi của mỗi cá nhân trong phạm vi cộng đồng dân cư đó. Hương ước không phải là nét riêng biệt chỉ tồn tại ở Việt Nam, ở một số nước châu Á khác đặc biệt là các nước chịu ảnh hưởng của đạo Nho như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản... thì sự tồn tại của hương ước là khá phổ biến. Lý luận chung của các nước ảnh hưởng bởi Nho gia là tư tưởng "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", cho nên trong việc trị nước không thể không đề cập đến làng xã vì "quốc" - thực ra xuất phát cũng từ các làng xã mà hợp thành, làng có yên thì nước mới yên để phát triển cường thịnh. Hương ước xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XV, được phổ biến nhanh chóng trong các làng người Việt ở đồng bằng, trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thời bấy giờ. Hình thức tồn tại của hương ước rất phong phú, đó là những luật tục - hiện tượng phổ biến ở tất cả các tộc người hiện nay ở Việt Nam. Theo Ngô Đức Thịnh, nếu căn cứ vào hình thức tồn tại của các luật tục này, có thể chia thành ba loại: i) Luật tục dưới dạng các lời nói văn vần truyền miệng, ii) Luật tục thành văn hay đã được văn bản hóa, và iii) Luật tục 16
  20. còn dưới dạng những thực hành xã hội. Luật tục đã được cố định thành dạng lời nói vần được truyền miệng từ đời này qua đời khác phổ biến ở các tộc người Tây Nguyên như Phatkdi của người Ê-đê, Phat kđuôi của người M’nông, Tơ lơi djuat hay tơ lơi phian của người Gia-rai, dây tơ ron kdi của người Bahnar, Ndri của người Stiêng (Sabatier 1940; Gerber 1951; Guileminet 1952). Luật tục các dân tộc ở Tây Nguyên phần lớn do người Pháp phát hiện sưu tầm và hệ thống lại ở những mức độ khác nhau, chỉ có bộ luật tục M’nông là phát hiện mới của Ngô Đức Thịnh, ngoài ra, một số nhà nghiên cứu dân tộc học và văn hóa dân gian cũng đã thẩm tra và bổ sung vào các bộ luật Ê-đê, Gia-rai mà người Pháp phát hiện trước đây. Hương ước như là một tri thức bản địa, tri thức địa phương, được hình thành dưới nhiều dạng khác nhau trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã hội, qua thực hành sản xuất và thực hành xã hội, được truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ. Hương ước hướng tới hướng dẫn, điều chỉnh và điều hòa các quan hệ xã hội theo một chuẩn mực được cả cộng đồng thừa nhận, ủng hộ và thực hiện theo. Thế mạnh của hương ước là khơi dậy "góc khuất" tiềm tàng ẩn chứa trong mỗi con người khiến họ dễ dàng tuân thủ theo một cách tự nhiên, không khiên cưỡng như pháp luật, không cứng nhắc như pháp luật. Thật không quá khi so sánh ở một khía cạnh nào đó thì hiệu quả của "chế tài" - hương ước với "chế tài" - pháp luật giống như hiệu quả công việc của một người lao động làm việc trên chính thửa ruộng của anh ta so với những công việc tương tự mà anh ta làm trên thửa ruộng chung của Hợp tác để được chấm công. Nói như vậy để thấy được sức mạnh của hương ước là nó được gắn với một cộng đồng dân cư cụ thể, có kỷ luật, tổ chức chặt chẽ, gắn với những chuẩn mực đạo đức, phong tục đã được thừa nhận trong cộng đồng dân cư đó. Và đó cũng chính là điểm bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật của hương ước trong việc quản lý xã hội từ những đơn vị dân cư nhỏ nhất. Ở một góc độ nhất định có thể coi hương ước là "pháp luật do cộng đồng làng xã làm ra" [49, tr. 70], bên cạnh hệ thống pháp luật của Nhà nước, 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2