Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
lượt xem 7
download
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội Mua bán trái phép chất ma tuý, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống làm cơ sở cho hoạt động định tội danh đối với loại tội phạm này, góp phần nâng cao hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội Mua bán trái phép chất ma túy nói riêng và các loại tội phạm ma túy nói chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
- ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt TrÇn M¹nh Hµ mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn trong ho¹t ®éng ®Þnh téi danh ®èi víi téi Mua b¸n tr¸i phÐp chÊt ma tóy luËn v¨n th¹c sÜ Hµ néi - 2011
- ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt TrÇn M¹nh Hµ mét sè vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn trong ho¹t ®éng ®Þnh téi danh ®èi víi téi Mua b¸n tr¸i phÐp chÊt ma tóy Chuyªn ngµnh : LuËt H×nh sù M· sè : 60 38 40 luËn v¨n th¹c sÜ Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. Cao ThÞ Oanh Hµ néi - 2011
- MôC LôC Trang Lêi cam ®oan Môc lôc Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t Lêi Më §Çu 1 Ch-¬ng 1: MéT Sè VÊN §Ò Lý LUËN VÒ TéI MUA B¸N TR¸I PHÐP 8 CHÊT MA TóY Vµ §ÞNH TéI DANH TéI MUA B¸N TR¸I PHÐP CHÊT MA TóY 1.1. Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ téi Mua b¸n tr¸i phÐp chÊt ma tuý 8 1.2. Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ ®Þnh téi danh 26 1.3. Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ ®Þnh téi danh téi Mua b¸n tr¸i phÐp chÊt 35 ma tóy Ch-¬ng 2: §ÞNH TéI DANH TéI MUA B¸N TR¸I PHÐP CHÊT MA TóY 40 THEO PH¸P LUËT HIÖN HµNH Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG 2.1. §Þnh téi danh ®èi víi c¸c hµnh vi mua b¸n tr¸i phÐp chÊt ma tuý 40 theo quy ®Þnh ph¸p luËt h×nh sù hiÖn hµnh 2.2. §Þnh téi danh ®èi víi c¸c tr-êng hîp ®ång ph¹m trong téi mua b¸n 48 tr¸i phÐp chÊt ma tóy 2.3. §Þnh téi danh ®èi víi hµnh vi biÕn t-íng cña téi Mua b¸n tr¸i phÐp 57 chÊt ma tuý Ch-¬ng 3: MéT Sè GI¶I PH¸P N¢NG CAO CHÊT L¦îNG §ÞNH TéI 78 DANH §èI VíI TéI MUA B¸N TR¸I PHÐP CHÊT MA TóY 3.1. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt vÒ chÊt ma tuý 78 3.2. Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh kh¸c cña ph¸p luËt vÒ téi Mua b¸n tr¸i 86 phÐp chÊt ma tóy 3.3. N©ng cao chÊt l-îng c«ng t¸c ®Þnh téi danh téi Mua b¸n tr¸i phÐp 95 chÊt ma tóy cña C¬ quan ®iÒu tra, ViÖn kiÓm s¸t vµ Tßa ¸n KÕT LUËN 99 nh÷ng c«ng tr×nh liªn quan ®Õn luËn v¨n ®· ®-îc c«ng bè 101 DANH MôC TµI LIÖU THAM KH¶O 102
- LờI Mở ĐầU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm về ma tuý trên thế giới và khu vực Đông Nam á diễn biến rất phức tạp. ở Việt Nam, nếu như trước đây chất ma tuý chủ yếu là thuốc phiện, cần sa - những thứ được trồng và sản xuất ngay trong nước bằng hình thức thô sơ, thủ công thì ngày nay, chủng loại ma tuý đã phát triển đa dạng hơn và được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến hơn như: Estamin, Estasy, Hồng phiến, Ketamine, Methamphetamin, Nữ hoàng đen, Hoàng hậu đỏ đặc biệt là loại heroin từ nước ngoài (chủ yếu là Lào) vào Việt Nam ngày càng nhiều. Từ đó, địa bàn Việt Nam dần trở thành khu vực trung chuyển ma tuý của các tổ chức tội phạm quốc tế cũng như trong nước sang các nước khác và dần được coi là thị trường tiêu thụ có tiềm năng. Nghiêm trọng hơn, Việt Nam đã xuất hiện nhiều vụ án sản xuất và điều chế ma tuý, như vụ Trịnh Nguyên Thủy cùng 31 đồng phạm đã sản xuất hơn 44kg heroin tại Hà Nội; Vụ Tạ Thị Hiền cùng hơn 12 đồng phạm sản xuất ma túy tổng hợp dạng "đá" (Ketamine) và ATS bằng các loại thuốc chữa cảm như: Decolgen, Panadol mục đích để đi tiêu thụ trên địa bàn thành phố Hà Nội. Theo quy luật cung - cầu, ở đâu có nhu cầu, ở đó có hàng cung ứng. Đối với chất ma tuý, người tiêu thụ thường xuyên, đều đặn và chung thuỷ nhất chính là các đối tượng nghiện chất ma tuý. Hiện nay, số người nghiện chất ma tuý trong xã hội nước ta ngày càng tăng cao. Nói một cách khách quan, số người nghiện chất ma tuý ở nước ta chưa bao giờ giảm, thậm chí nó còn tăng dần theo thời gian. Cụ thể là một bộ phận tầng lớp thanh, thiếu niên trong xã hội hiện nay nghiện chất ma túy hoặc đã sử dụng chất ma túy và tình trạng này có xu hướng ngày càng phát triển. Do đó, để cung ứng được lượng
- ma tuý lớn như vậy cho các đối tượng sử dụng chất ma túy ở thị trường trong nước, những người phạm tội đã tìm mọi cách có được ma túy để bán. Đó có thể là mua lại ma túy của những người khác ở trong nước để bán, hoặc thậm trí mua từ nước ngoài về để bán, và gần đây nhất đã xuất hiện nhiều vụ sản xuất ma túy để cung cấp cho nhu cầu sử dụng thường xuyên, đều đặn hàng ngày của các đối tượng nghiện. ở nước ta hiện nay, nhìn chung về mặt phương tiện khoa học, kỹ thuật hiện đại để sản xuất ra các loại ma tuý được tinh chế như: heroin, Ketamin, Methamphetamin, ma tuý tổng hợp dạng ATS… là chưa có. Các vụ án sản xuất trái phép chất ma túy được phát hiện đều là sử dụng những phương tiện thô sơ, tự tạo để sản xuất ma túy, nên số lượng ma túy mỗi lần thu được không nhiều, hoặc có thể phải bỏ đi toàn bộ nếu sản xuất sai quy trình, dẫn đến lợi nhuận được hưởng không cao, trong khi khả năng bị phát hiện là lớn… Từ những lý do đó, các đối tượng phạm tội chủ động khai thác nguồn ma túy từ những nước lân cận, bởi chúng vừa rẻ, lợi nhuận cao lại vừa mất ít công sức và khả năng sinh lời là chắc chắn hơn. Vì vậy, nguồn ma tuý chính để bán ra thị trường trong nước vẫn chủ yếu là nhập lậu từ nước ngoài về, trong đó tùy từng quốc gia mà nhập lậu chuyên về một loại ma túy riêng. Ví dụ: Trung Quốc chuyên về ma túy tổng hợp dạng ATS, Ketamine; Lào chuyên về heroin; Campuchia chuyên về heroin và cần sa. Số ma tuý này sẽ được các đầu mối mang đến các địa phương để bán, và những đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng sẽ được chọn là trung tâm tiêu thụ chính. Xuất phát từ tính chất của ma tuý là người nghiện bị lệ thuộc vào ma tuý và phải thường xuyên sử dụng hàng ngày, nên nhu cầu tiêu thụ ma tuý rất cao và số lượng ma tuý được tiêu thụ nhìn chung là đều đặn. Do đó, trong các tội về ma tuý như tội: sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma tuý thì tỷ lệ phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý chiếm cao nhất so với tổng các tội phạm về ma tuý. 2
- Trước tình hình đó, công tác đấu tranh phòng chống tội mua bán tráI phép chất ma tuý ngày càng đối mặt với những thủ đoạn tinh vi, những hình thức biến tướng đa dạng của hành vi bán trái phép chất ma tuý, hay những vấn đề mới phát sinh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến những khó khăn cho các cơ quan tố tụng trong việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Thực tiễn cho thấy, có những có hành vi không thể xử lý được bằng pháp luật hình sự vì thiếu văn bản hướng dẫn thi hành. Hoặc có hành vi có thể xử lý được bằng pháp luật hình sự, nhưng phải xử lý về một loại tội phạm khác không phải là tội phạm ma tuý, làm giảm tính nghiêm khắc của pháp luật đối với loại tội phạm này. Thêm vào đó, về mặt lý luận, xung quanh vấn đề xác định có phạm tội hay không phạm tội, phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý hay phạm tội khác vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau giữa các nhà áp dụng pháp luật, đặt ra nhiều vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết. Do đó, việc xác định tội danh là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự nói chung và trong hoạt động định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng. Bởi suy cho cùng, tất cả các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đều nhằm đạt mục đích cuối cùng là xử lý người phạm tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm. Nếu việc định tội không chính xác, sẽ kéo theo một loạt hậu quả pháp lý to lớn mà trước hết là đối với người bị định tội sai đó, như: xử lý oan người vô tội, hoặc để lọt tội phạm; hay từ việc định tội danh sai, dẫn đến việc áp dụng hình phạt nhẹ hơn hoặc nặng hơn đối với người phạm tội. Ngoài ra, hậu quả nữa của việc định tội danh sai là làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và trong công cuộc phòng, chống tội phạm Mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng. 3
- Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý", mang tính cấp thiết không những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội Mua bán trái phép chất ma tuý là tội phạm có tính phức tạp cao, đã được một số nhà luật học đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Bình luận khoa học BLHS của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997). Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tội Mua bán trái phép chất ma tuý được tiếp tục đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học BLHS 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. Ths. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Ths. Nguyễn Sĩ Đại, Ths. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001... Ngoài ra, còn có các công trình khoa học khác cũng đã nghiên cứu đến tội Mua bán trái phép chất ma tuý, như: Luận án "Đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý ở Việt Nam" của TS. Nguyễn Tuyết Mai; Luận án "Hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma tuý của lực lượng cảnh sát nhân dân" của TS. Vũ Quang Vinh; Luận án "Hoàn thiện khung pháp luật hình sự đối với tội phạm về ma tuý ở Việt Nam" của TS. Nguyễn Minh Đức; Luận án "Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma tuý trong luật hình sự Việt Nam" 4
- của TS. Phạm Minh Tuyên; Luận án "Hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm về ma tuý của lực lượng công an cấp huyện" của TS. Ngô Đại Tuấn; Luận án "Phát hiện và khám phá tội phạm vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tiền chất, thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác của lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý" của TS. Ngô Văn Tuân. Các công trình nêu trên trong góc độ nào đó đã đề cập đến các dấu hiệu của tội Mua bán trái phép chất ma túy, tình hình công tác đấu tranh, phòng chống và trách nhiệm hình sự đối với loại tội này… tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về việc định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu * Mục đích Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội Mua bán trái phép chất ma tuý, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống làm cơ sở cho hoạt động định tội danh đối với loại tội phạm này, góp phần nâng cao hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội Mua bán trái phép chất ma túy nói riêng và các loại tội phạm ma túy nói chung. * Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm rõ khái niệm "Định tội danh". Phân biệt khái niệm "Định tội danh" với "Định tội". - Xây dựng khái niệm "Chất ma túy" là đối tượng thuộc sự điều chỉnh của pháp luật hình sự. 5
- - Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội Mua bán trái phép chất ma tuý trong BLHS năm 1999, từ đó đưa ra khái niệm về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". - Phân biệt các dấu hiệu đặc trưng của tội Mua bán trái phép chất ma tuý với tội phạm ma tuý khác để nhận biết khi định tội danh. - Nêu ra một số trường hợp có dấu hiệu chuyển hóa, biến tướng của hành vi mua bán trái phép chất ma tuý hiện đang xảy ra trong thực tiễn. Từ đó, đưa ra giải pháp xử lý phù hợp nhất khi định tội danh. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác định tội danh tội Mua bán trái phép chất ma tuý. * Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong hoạt động tố tụng liên quan đến việc định tội danh tội Mua bán trái phép chất ma tuý trong tình hình hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả có sử dụng các phương pháp: hệ thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, tổng hợp, so sánh... 5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã xây dựng được khái niệm chất ma túy trong luật hình sự; làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội Mua bán trái phép chất ma túy và từ đó đưa ra khái niệm về định tội danh đối với tội này. Ngoài ra, tác giả đã xây dựng một khái niệm 6
- định tội danh chung cho cả hai dạng: chính thức và không chính thức, một khái niệm định tội danh riêng của dạng chính thức; nêu ra những cơ sở lý luận để chỉ ra được sự khác nhau giữa "định tội" và "định tội danh", giúp các cơ quan tố tụng nhận thức rõ hơn về vấn đề này trong hoạt động thực tiễn. Đáng lưu ý, tác giả đã làm rõ những vấn đề còn bất cập, vướng mắc trong việc định tội danh đối với một số hành vi biến tướng của tội Mua bán trái phép chất ma túy trong thực tiễn hiện nay. Qua đó, đưa ra những kiến nghị, đề xuất khắc phục cũng như đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật liên quan đến công tác này. Kết quả nghiên cứu và những giải pháp kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội Mua bán trái phép chất ma tuý trong giai đoạn hiện nay. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp một phần vào việc phát triển lý luận trong lĩnh vực luật hình sự, luật tố tụng hình sự cũng như trong công cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm có tính nhạy cảm và phức tạp này. 6. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội Mua bán trái phép chất ma túy và định tội danh tội Mua bán trái phép chất ma túy Chương 2: Định tội danh tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý 7
- 8
- Chương 1 MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về TộI MUA BáN TRáI PHéP CHấT MA TúY Và ĐịNH TộI DANH TộI MUA BáN TRáI PHéP CHấT MA TúY 1.1. Một số vấn đề lý luận về tội Mua bán trái phép chất ma tuý 1.1.1. Khái niệm "chất ma túy" trong luật hình sự Việt Nam Trong khoa học, chất ma túy có đặc tính vừa là chất độc, vừa là chất gây nghiện, làm cho người sử dụng có thể bị ảnh hưởng đến tính mạng nếu sử dụng quá liều lượng; hoặc bị lệ thuộc (nghiện) khi sử dụng nhiều lần, dẫn đến những cơn vật vã, đau đớn về thể xác, làm mất ý chí, mất tính người và là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm xảy ra trong xã hội, nhằm để thỏa mãn cơn nghiện của mình. Chính vì vậy, việc quản lý chất ma túy được thống nhất chỉ có duy nhất một chủ thể độc quyền - đó là Nhà nước. Hiện nay, trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nói chung quy định về "chất ma túy" là rất nhiều. Tuy nhiên, để nêu lên định nghĩa thế nào là "chất ma túy" thì có 2 văn bản chính thức như sau: - Luật phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi năm 2008),khoản 1, Điều 2 quy định về chất ma túy: "1. Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành". - Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC- BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định của Chương XVIII "Các tội phạm về ma túy" của BLHS 1999 (gọi tắt là Thông tư 17), mục 1.1 phần I định nghĩa về chất ma túy: "1.1. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành". 9
- Với quy định nêu trên, cả 2 văn bản đều có định nghĩa giống nhau về chất ma túy, đó là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Hiện nay, danh mục các chất ma túy được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật sau: - Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất; - Nghị định số 133/2003/NĐ-CP ngày 06/11/2003 của Chính phủ, bổ sung vào danh mục các chất ma túy và tiền chất, ban hành kèm Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ; - Nghị định số 163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 của Chính phủ về sửa tên, bổ sung, chuyển, loại bỏ một số chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất, ban hành kèm Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ; - Nghị định số 17/2011/NĐ-CP ngày 22/02/2011 của Chính phủ về bổ sung, sửa tên chất, tên khoa học đối với một số chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ và Nghị định số 163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001. Như vậy, với những văn bản nêu trên, định nghĩa thế nào là "chất ma túy" đã được làm rõ, và các chất ma túy cụ thể thì cũng được quy định tại danh mục do Chính phủ ban hành. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là: "chất ma túy" theo định nghĩa của Luật phòng, chống ma túy và "chất ma túy" trong Thông tư 17 quy định có phải lúc nào cũng là đối tượng của các tội phạm về ma túy trong luật hình sự hay không? 10
- Về lý luận, định nghĩa "chất ma túy" theo Luật phòng, chống ma túy và Thông tư 17 đã bao hàm đầy đủ, chỉ ra cụ thể thế nào là chất ma túy và các chất ma túy này đương nhiên là đối tượng phạm tội của các tội phạm về ma túy. Nhưng trong thực tiễn, có những trường hợp nếu áp dụng đúng định nghĩa "chất ma túy" như Luật phòng, chống ma túy và Thông tư 17 quy định thì lại không giải quyết được vụ án, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Cụ thể như: Theo mục 1.4 phần I Thông tư 17 quy định: "Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất." Theo hướng dẫn này, tất cả các trường hợp thu được chất nghi là ma túy, thì đều phải giám định để xác định đó có phải là ma túy hay không, sau đó lấy kết quả giám định làm căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Vấn đề bất cập ở đây là trong Thông tư 17 cũng như trong các văn bản hướng dẫn luật khác, không quy định cụ thể mức độ hàm lượng chất ma túy là bao nhiêu thì xử lý hình sự, còn bao nhiêu thì không xử lý hình sự. Nếu chỉ cần xác định có thành phần ma túy trong chất đưa đi giám định là xử lý hình sự thì hiện nay trong cuộc sống hàng ngày, có rất nhiều thực phẩm, đồ tiêu dùng, thuốc chữa bệnh, cây công nghiệp có chất ma túy. Ví dụ: Trong nước uống Coca cola có thành phần cocaine; trong thuốc lá có thành phần nicotine... Tuy nhiên, hàm lượng cocaine trong nước uống Coca cola, nicotine trong thuốc lá là hàm lượng nhỏ, ở mức cho phép, nếu sử dụng liều lượng nhỏ sẽ không gây tác hại lớn đến cơ thể, nên được sử dụng rộng rãi, phổ biến, nhưng phải có khuyến cáo (ở các bao thuốc lá, các doanh nghiệp sản xuất phải khuyến cáo thuốc lá có hại cho sức khỏe). Vậy, nếu chỉ cần xác định có chất ma túy trong thành phần giám định, kết luận đó là ma túy và khởi tố điều tra thì hiện nay sẽ có rất nhiều đối tượng bị xử lý hình sự, mà tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh nước uống, thuốc lá, dược phẩm. Việc khởi tố này sẽ gây 11
- tâm lý hoang mang cho người dân, gây bất ổn trong thị trường kinh doanh và sẽ dẫn đến sự phản ứng tiêu cực từ phía người dân. Hoặc trường hợp cơ quan điều tra thu giữ được tang vật và giám định trong đó có chất ma túy, nhưng do hàm lượng thấp nên không có căn cứ xử lý hình sự được. Điển hình là vụ án sau: Ngày 26/3/2007, Công an huyện Thạch Thất phối hợp với Cơ quan điều tra - Công an tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) tiến hành kiểm tra, phát hiện 21 hộ dân ở xã Tiến Xuân và Đông Xuân thuộc huyện Lương Sơn, Hòa Bình trồng cây cần sa với diện tích gần 4.000m2. Qua đấu tranh, xác định người thuê trồng cây cần sa là ông Hồ Hữu N và anh Lê Quang V - cán bộ Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, nơi làm việc đối với ông Hồ Hữu N và anh Lê Quang V, thu giữ 98kg hạt cây "lanh mèo" (họ của cây cần sa). Kết luận giám định số 724/C21 ngày 13/4/2007 của Viện KHHS - Bộ Công an kết luận: "Các hạt thực vật trong các mẫu ký hiệu số 01, 02, 03, 04 gửi giám định đều chứa thành phần Delta9 - THC, tổng trọng lượng và hàm lượng trung bình trong các mẫu như sau: Mẫu ký hiệu Trọng lượng Hàm lượng Mẫu số 1 22.731gam 0,12% Mẫu số 2 17.493gam 0,09% Mẫu số 3 2.871gam 0,11% Mẫu số 4 17.637gam 0,17% Delta9 - THC nằm trong danh mục các chất ma túy". Trong vụ án này, mặc dù thu giữ được hạt cây cần sa tại nơi làm việc, đối tượng cũng thừa nhận việc cất giữ số hạt cần sa đó (nhằm mục đích nghiên cứu), giám định kết luận có thành phần chất ma túy trong hạt cây, tuy nhiên các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn không thể khởi tố vụ án, khởi tố bị 12
- can về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lý do không khởi tố vụ án là vì hàm lượng chất ma túy trong hạt cây cần sa đó thấp, trong khi thực tế chưa có văn bản nào quy định hàm lượng chất ma túy là bao nhiêu thì khởi tố hình sự, bao nhiêu thì không khởi tố hình sự. Ngoài ra, theo Điều 194 BLHS quy định thì chỉ các dạng ma túy sau mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đó là: "Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao côca, lá, hoa, quả cây cần sa, lá cây côca, quả thuốc phiện.". Như vậy, trong điều luật không quy định hạt cây cần sa, hạt cây thuốc phiện là loại ma túy phải truy cứu trách nhiệm hình sự và tại mục 1.5 Phần II Thông tư 17 quy định: "Người nào mua bán trái phép cây có chứa chất ma túy khi cây hoặc các bộ phận của cây có chứa chất ma túy là đối tượng (chất ma túy) quy định tại Điều 194 của BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 của BLHS". Do đó, Cơ quan điều tra đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, có thể thấy "chất ma túy" trong Luật phòng, chống ma túy và "chất ma túy" - đối tượng tác động của tội phạm ma túy trong luật hình sự là không đồng nhất. Khái niệm "chất ma túy" theo Luật phòng, chống ma túy rộng hơn, có ý nghĩa chỉ ra thế nào là chất ma túy và liệt kê các chất ma túy cụ thể. Còn "chất ma túy" là đối tượng tác động của tội phạm về ma túy thì hẹp hơn, nó cũng là các chất ma túy nằm trong danh mục do chính phủ quy định, nhưng nó đòi hỏi thêm một điều kiện là phải có "hàm lượng", "trọng lượng" nhất định, lúc đó mới trở thành đối tượng tác động của tội phạm ma túy được. Nếu không phân biệt được đặc điểm này, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ rơi vào tình trạng bế tắc trong việc xử lý các trường hợp chất ma túy có hàm lượng thấp như nêu trên. Tương tự về đối tượng tác động của các tội phạm ma túy, liên hệ với tội Trộm cắp tài sản, đối tượng tác động của tội này là tài sản, tuy nhiên phải là tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, nếu tài sản dưới 2 triệu đồng mà nhân thân người có hành vi trộm cắp chưa tiền án, tiền 13
- sự, thì không phạm tội Trộm cắp tài sản. Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc xử lý các tội phạm về ma túy được thuận lợi, đồng nhất cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Từ những phân tích trên cho thấy, cần phải xây dựng một khái niệm cụ thể về "chất ma túy" là đối tượng tác động của các tội phạm ma túy và thuộc pháp luật hình sự điều chỉnh, nhằm tránh xảy ra tình trạng bế tắc, vướng mắc trong việc xử lý các loại tội phạm ma túy này. Theo quan điểm của chúng tôi, có thể đưa ra khái niệm "chất ma túy" thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật hình sự như sau: "Chất ma túy thuộc sự điều chỉnh của pháp luật hình sự là các chất gây nghiện, chất hướng thần ở dạng tự nhiên hoặc dạng tổng hợp có trọng lượng, thể tích, hàm lượng nhất định theo quy định của pháp luật". 1.1.2. Khái niệm tội Mua bán trái phép chất ma tuý Tại điểm b, mục 3.5 phần I Thông tư 17 hướng dẫn phần "Truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội" như sau: 3.5. Trường hợp một người thực hiện một hoặc nhiều hành vi phạm tội quy định trong một điều luật (Điều 194, Điều 195 và Điều 196 của BLHS) thì cần phân biệt như sau: ... b) Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều 195 hoặc Điều 196) của BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với tất cả các hành vi đó được thực hiện theo điều luật tương ứng và chỉ phải chịu một hình phạt. Ví dụ: Một người mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới và tàng trữ tiền chất đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tên tội danh là mua bán, vận chuyển tàng 14
- trữ tiền chất dựng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 195 của BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt. Như vậy, nếu theo tinh thần hướng dẫn nêu trên thì tội Mua bán trái phép chất ma túy còn có thể có tên gọi là "Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy". Điều này là không hợp lý, sẽ dẫn đến khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt đối với các hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Trước hết, cần xác định tội Mua bán trái phép chất ma túy là một tội độc lập, được các nhà làm luật xây dựng chung trong một điều luật - Điều 194 của BLHS, bên cạnh các tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, Vận chuyển trái phép chất ma túy và Chiếm đoạt chất ma túy. Do đó, sẽ không có tội "Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy", mà đây chỉ là tên của điều luật quy định 4 tội danh khác nhau nằm trong cùng một điều luật. Việc các nhà làm luật xây dựng điều luật này (Điều 194 BLHS) là nhằm thực hiện chính sách hình sự, còn thực tiễn không có một tội danh nào có đầy đủ tên là "Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy". Thực tế tại Chương VII A "Các tội phạm về ma túy" của BLHS 1985, sửa đổi bổ sung năm 1997, từ các Điều 185c đến Điều 185e đều quy định từng điều tương ứng với từng tội danh: Tàng trữ trái phép chất ma túy, Vận chuyển trái phép chất ma túy, Mua bán trái phép chất ma túy và Chiếm đoạt chất ma túy. Như vậy, ngay từ khi bắt đầu xây dựng và ban hành các điều luật về tội phạm ma túy, các nhà làm luật đã phân biệt từng tội danh cụ thể tương ứng với từng hành vi phạm tội, và không hề có tội "Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy" trong BLHS. Về mặt thực tiễn, việc phân biệt các tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy được thông qua mục đích phạm tội, bởi các tội này đều không cần xét đến nguồn gốc ma túy do đâu mà có: nếu mục đích là để bán 15
- thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma túy; nếu mục đích để sử dụng hoặc không phải để bán, vận chuyển, sản xuất thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; nếu mục đích để chuyển dịch ma túy từ nơi này đến nơi khác, không phải để bán, sử dụng, sản xuất thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy (thông thường mục đích của tội này là vận chuyển thuê để kiếm tiền). Bên cạnh đó, tại mục 3.3 phần II Thông tư 17 hướng dẫn về tội Mua bán trái phép chất ma túy như sau: 3.3. Mua bán trái phép chất ma túy là một trong các hành vi sau đây: a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác; b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có); đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác; e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác. Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.3 này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy". 16
- Trong thực tiễn, các cơ quan tố tụng luôn xác định mục đích cuối cùng của tội phạm là gì để định tội danh đối với hành vi phạm tội đó và chỉ ra một tên gọi duy nhất đối với hành vi phạm tội. Không nêu chung chung là tội "Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy" rồi quyết định chung cho các hành vi đó một hình phạt, để cuối cùng chẳng rõ người phạm tội đã phạm tội gì? Hình phạt bị tuyên là tuyên về tội gì? Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy hay tội Vận chuyển trái phép chất ma túy hay tội Mua bán trái phép chất ma túy... Theo quan điểm của Ths. Đinh Văn Quế, hành vi mua bán trái phép chất ma túy là: "bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma túy để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma túy khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa để đổi lấy ma túy" [41, tr. 92]. Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập 2) của trường Đại học luật Hà Nội thì "hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào".[23, tr. 204]. Như vậy, nhìn chung các nhà khoa học và nhà làm luật đều có cùng quan điểm về tội Mua bán trái phép chất ma túy là một trong những hành vi: bán trái phép; mua, xin, vận chuyển, tàng trữ, sản xuất để bán hoặc dùng hàng hóa để trao đổi lấy ma túy hay lấy ma túy để thanh toán hàng hóa. Nói cách khác, tội Mua bán trái phép chất ma túy là hành vi bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc nguồn gốc ma túy do đâu mà có) hoặc hành vi trao đổi ma túy như một hàng hóa có giá trị. Bên cạnh đó, các hành vi đồng phạm với hành vi bán ma túy cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm tội Mua bán trái phép chất ma túy như sau: "Mua bán trái phép chất ma tuý là hành vi bán, 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 348 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn