intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam trong xu thế hội nhập

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:134

19
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn là qua quá trình nghiên cứu các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và thực trạng của vấn đề này trong những năm gần đây, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động của các thiết chế trong việc thi hành pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam trong xu thế hội nhập

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN CAO HIẾN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN CAO HIẾN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan HÀ NỘI - 2011
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HÔN GIỮA 10 CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm kết hôn giữa công dân Việt Nam với người 10 nước ngoài 1.1.1. Kết hôn có yếu tố nước ngoài 10 1.1.1.1. Khái niệm kết hôn 10 1.1.1.2. Kết hôn có yếu tố nước ngoài 13 1.1.2. Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 14 1.1.2.1. Người nước ngoài 14 1.1.2.2. Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 16 1.2. Đặc điểm của quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với 17 người nước ngoài 1.2.1. Đặc điểm chung 17 1.2.2. Những đặc điểm đặc thù của quan hệ kết hôn giữa công dân 19 Việt Nam với người nước ngoài tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam 1.3. Nguyên tắc giải quyết quan hệ kết hôn giữa công dân Việt 22 Nam với người nước ngoài 1.4. Ý nghĩa của việc pháp luật ghi nhận quan hệ kết hôn có yếu 27 tố nước ngoài
  4. Chương 2: KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI 31 NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. Các điều kiện để việc kết hôn hợp pháp 32 2.1.1. Điều kiện về tuổi kết hôn 35 2.1.2. Điều kiện về sự tự nguyện của hai bên nam và nữ khi kết hôn 37 2.1.3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn 40 2.1.3.1. Cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn với người khác 41 2.1.3.2. Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn 44 2.1.3.3. Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; 46 giữa những người có họ trong phạm vi ba đời 2.1.3.4. Cấm kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã 48 từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng 2.1.3.5. Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính 49 2.1.4. Điều kiện về nghi thức kết hôn 51 2.2. Thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân 55 Việt Nam với người nước ngoài 2.2.1. Việc đăng ký kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà 55 nước có thẩm quyền tại Việt Nam 2.2.2. Việc đăng ký kết hôn được tiến hành tại khu vực biên giới 57 2.2.3. Việc đăng ký kết hôn được tiến hành tại Cơ quan đại diện 59 của Việt Nam ở nước ngoài 2.3. Trình tự, thủ tục đăng ký kết giữa công dân Việt Nam với 61 người nước ngoài 2.3.2. Về thủ tục nộp và nhận hồ sơ kết hôn 64 2.3.3. Về trình tự giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân 65 Việt Nam với người nước ngoài
  5. 2.3.4. Về tổ chức lễ đăng ký kết hôn 68 Chương 3: THỰC TRẠNG KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT 71 NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY 3.1. Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước 71 ngoài những năm gần đây 3.1.1. Một số nét về tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với 71 người nước ngoài trong những năm gần đây 3.1.2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh và hoạt động của các cơ 89 quan liên quan đảm bảo thực thi việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 3.1.2.1. Thực trạng về pháp luật điều chỉnh 89 3.1.2.2. Thực trạng hoạt động của các cơ quan liên quan bảo đảm 92 thực thi việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 3.1.3. Một số vướng mắc liên quan đến việc kết hôn giữa công dân 95 Việt Nam với người nước ngoài 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan 102 hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về kết hôn giữa công dân Việt 103 Nam với người nước ngoài 3.2.2. Đảm bảo hoạt động có hiệu quả của các cơ quan có liên 110 quan trong việc thi hành pháp luật về kết hôn có giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài KẾT LUẬN 115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118 PHỤ LỤC 122
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam từ 73 năm 2007 đến năm 2010
  7. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 3.1 Tình hình kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam từ 74 năm 2007 đến năm 2010 3.2 Tỷ trọng các trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài tại 75 Việt Nam 3.3 Cơ cấu tỷ trọng nam và nữ công dân Việt Nam kết hôn 76 với người nước ngoài 3.4 Tình hình công dân Việt Nam kết hôn với công dân Đài 83 Loan giai đoạn 1998-2005 3.5 Tình hình công dân Việt Nam kết hôn với công dân Hàn 85 Quốc giai đoạn 2007-2010 3.6 Tình hình đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với 86 công dân Hàn Quốc tại Việt Nam và Hàn Quốc
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, chính sách mở rộng hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta đã làm cho đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu quốc tế, các quan hệ về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cũng phát sinh ngày càng nhiều. Việc điều chỉnh quan hệ này trở thành một yêu cầu cấp bách, quan trọng nhằm làm ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân các nước có liên quan. Để kịp thời điều chỉnh được các quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung, quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài nói riêng, nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật có giá trị như: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 2/12/1993; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và một số văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản trên. Điều này đã tạo điều kiện cho các quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài có cơ sở pháp lý để phát triển đồng thời tăng cường sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Do vậy, trong thời gian qua số lượng công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài tăng nhanh về cả số lượng và ngày càng đa dạng về phạm vi chủ thể. Đây là minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu dân sự giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, bên cạnh những yếu tố tiến bộ, tích cực, trong quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đang nảy sinh các hệ lụy như hiện tượng lấy chồng (vợ) là người nước ngoài vì mục đích kinh tế, để "xuất ngoại", kết hôn không xuất phát từ tình yêu nam nữ, sự tự nguyện… Những hiện tượng này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến 1
  9. an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Ngoài ra, còn phải kể đến một số trường hợp lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài nhằm buôn bán người, xâm phạm tình dục người phụ nữ. Hậu quả từ những tiêu cực trong việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài để lại cả trước mắt và lâu dài, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế… Có nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan dẫn đến các hiện tượng trên nhưng sự hạn chế của pháp luật cùng với thiết chế thực thi chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đóng vai trò không nhỏ. Chủ trương của Nhà nước ta về vấn đề cải cách tư pháp đã được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", theo đó: "sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…" [18]. Bên cạnh đó, công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh. Vì vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, từ đó rút ra được một số đề xuất thực tế nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về vấn đề này là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nhận thức được điều đó, em đã mạnh dạn chọn vấn đề "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam trong xu thế hội nhập" làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là vấn đề có tính thời sự cao. Do vậy, từ trước tới nay có không ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể chia các công trình nghiên cứu về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài thành ba nhóm lớn sau: 2
  10. - Nhóm luận văn, luận án: ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, của Vilayvong Senebouttarat, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008. Với đề tài này, tác giả đã nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam, tuy nhiên tác giả lại không đề cập tới việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam tại nước ngoài. Quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Lào theo quy định của pháp luật Việt Nam và Lào, Khóa luận tốt nghiệp, của Vithanha Inthivixay, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010. Ở đề tài này, tác giả đã bước đầu nghiên cứu về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, nhưng chủ yếu là quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Lào mà không đề cập tới việc công dân Việt Nam kết hôn với công dân nước khác. Mặt khác, tác giả đã nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ tư pháp quốc tế, tức là có sự xung đột pháp luật nên tác giả tập trung luận giải việc chọn pháp luật nước nào giải quyết quan hệ này. Pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp, của Nguyễn Thị Hương, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. Hay như Đỗ Thị Kiều Ngân, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009, với đề tài: "Thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam hiện nay". Ở hai đề tài này, các tác giả đã đề cập tới quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu rộng, bao gồm cả trường hợp người nước ngoài kết hôn với nhau tại Việt Nam, công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại Việt Nam nhưng theo pháp luật nước ngoài. Do vậy, các đề tài mới chỉ phân tích một cách khái quát các khía cạnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. 3
  11. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra một số vấn đề cơ bản của pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Tuy nhiên hầu hết các công trình trên đều được nghiên cứu dưới góc độ khác (chủ yếu là tư pháp quốc tế) hoặc với phạm vi rộng lớn nên chỉ mang tính khái quát hoặc nghiên cứu dưới góc độ tư pháp quốc tế, lý giải về hiện tượng xung đột pháp luật trong khi giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. - Nhóm sách giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: trong nhóm này, đầu tiên phải kể đến cuốn sách Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế của Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc, Nxb Tư pháp, 2006. Ngoài ra còn có một số giáo trình và bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình. Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, chưa đề cập hoặc ít đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên. - Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: Các bài nghiên cứu thuộc nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Luật học… Trong đó phải kể đến bài viết của tác giả Đỗ Văn Chỉnh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 1 (1/2011) với nhan đề: "Kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn áp dụng pháp luật"; "Một số vướng mắc liên quan đến việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài" của tác giả Ngô Văn Thìn, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2009; "Thực trạng về việc phỏng vấn trong kết hôn với người nước ngoài hiện nay" của Nguyễn Văn Thắng, đăng trên Tạo chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về đăng ký khai sinh và đăng ký kết hôn… Phần lớn các bài viết thuộc nhóm này chỉ đề cập tới một số vấn đề cụ thể của quan hệ kết hôn giữa công dân Việt 4
  12. Nam với người nước ngoài, chưa đề cập được sâu sắc và toàn diện các vấn đề của việc công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Tóm lại, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu, đầy đủ và có hệ thống về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Các công trình nghiên cứu hoặc chủ yếu tập trung vào một mảng cụ thể của quan hệ này hoặc nghiên cứu dưới góc độ xung đột pháp luật và đi sâu vào việc luận giải hệ thống pháp luật nào giải quyết quan hệ đó. Do vậy, các công trình nghiên cứu trên so với đề tài của Luận văn này là hoàn toàn không có sự trùng lắp về mặt nội dung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận văn là qua quá trình nghiên cứu các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và thực trạng của vấn đề này trong những năm gần đây, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động của các thiết chế trong việc thi hành pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết được những nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài như khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc giải quyết quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và ý nghĩa việc pháp luật ghi nhận quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài; - Phân tích thực trạng quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong những năm gần đây; - Đánh giá thực trạng của pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; đưa ra một số vướng mắc liên quan, từ đó đề xuất 5
  13. một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là một số vấn đề lý luận về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000; pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt nam cũng như một số nước trên thế giới về vấn đề này; tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong những năm gần đây và thực trạng pháp luật điều chỉnh và các thiết chế đảm bảo thực thi việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung vào một số vấn đề sau: - Những quy định của pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Trong đó tập trung chủ yếu vào quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. - Các quy định của pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong một số văn bản pháp luật như: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản pháp luật khác liên quan. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và theo các quy định của pháp luật Việt Nam mà không đề cập tới việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo pháp luật nước ngoài và yêu cầu pháp luật Việt Nam công nhận - Một số quy định của pháp luật các nước trên thế giới về kết hôn có yếu tố nước ngoài như Hàn Quốc, Đài Loan, Anh, Mỹ, có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, qua đó tiếp thu những điểm tiến bộ và phù hợp với các quy định về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong luật HN&GĐ Việt Nam. 6
  14. - Tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài mà chủ yếu là nữ công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài trong vài năm gần đây. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp chủ yếu như phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; phương pháp phân tích luật học; phương pháp phân tích - so sánh; phương pháp tổng hợp (trên cơ sở phân tích, so sánh và tham khảo pháp luật nước ngoài); phương pháp trích dẫn, phương pháp thống kê, phương pháp chuyên gia v.v... Trên cơ sở phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, đặc biệt đánh giá, phân tích về thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đã lựa chọn, tác giả rút ra những ưu điểm, tồn tại trong việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật. 6. Đóng góp của luận văn Với tính cách là một trong những công trình khoa học (thuộc chuyên ngành luật dân sự) nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài đặc biệt là kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại những đóng góp mới về khoa học pháp lý như sau: Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và ứng dụng khái niệm "quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài" đã được pháp luật quy định, tác giả đưa ra khái niệm về quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Việc đưa ra các khái niệm này trong tình hình hiện nay là cần thiết, góp phần quan trọng vào công tác nghiên cứu và 7
  15. giảng dạy về pháp luật dân sự nói chung, pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng, củng cố cho nền khoa học pháp lý nước ta, cũng như phục vụ tích cực cho việc sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình về vấn đề quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đang diễn ra hiện nay. Thứ hai, luận văn phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; chắt lọc những quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài của một số nước trên thế giới và tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong những năm gần đây. Thứ ba, luận văn đã xác định những bất cập trong các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cần phải hoàn thiện, những vướng mắc trong việc thực thi pháp luật cần phải khắc phục và xác định rõ nguyên nhân của thực trạng đó. Thứ tư, luận văn đã đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Mặt khác, luận văn cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế bảo đảm thực thi việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu mới của luận văn sẽ là nguồn tư liệu mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể tham khảo góp phần sửa đổi một số quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tư liệu học tập, tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo luật hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm đến quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. 8
  16. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài Chương 2: Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành Chương 3: Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong những năm gần đây và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này. 9
  17. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài 1.1.1. Kết hôn có yếu tố nước ngoài 1.1.1.1. Khái niệm kết hôn Hôn nhân là cơ sở hình thành gia đình, gia đình là tế bào của xã hội. Trong mỗi chế độ xã hội, gia đình đều thực hiện những chức năng cơ bản mang tính chất xã hội của nó. Một trong những chức năng cơ bản của gia đình là sinh sản nhằm tái sản xuất ra con người, là quá trình tiếp tục nòi giống. Đó là một quá trình cần thiết của cuộc sống trong một xã hội nhất định. Quá trình này được thể hiện ở chỗ "hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những con người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái - đó là gia đình" [1]. Nếu không có sản xuất và tái sản xuất ra con người thì xã hội không thể phát triển, thậm chí không thể tồn tại được. Như vậy, gia đình là một trong những thể chế cơ bản của xã hội. Gia đình được ra đời, tồn tại và phát triển trước hết là nhờ nhà nước thừa nhận hôn nhân của đôi nam nữ, đồng thời nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho vợ và chồng. Hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một người nữ, sự liên kết đó phải được nhà nước thừa nhận bằng sự phê chuẩn dưới hình thức pháp lý - đăng ký kết hôn. Như vậy, đăng ký kết hôn đã làm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở để hình thành gia đình. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị. Thông qua nhà nước và bằng pháp luật, giai cấp thống trị tác động vào các quan hệ hôn nhân và gia đình làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi hay chấm dứt phù hợp với lợi ích của giai cấp đó. 10
  18. Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội. "Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt" [33]. Vì vậy, nhà nước ta luôn quan tâm củng cố chế độ hôn nhân và đề ra những biện pháp nhằm ổn định quan hệ này, "nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình…" [34]. Tại khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đưa ra khái niệm về kết hôn, theo đó: "Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn" [33]. Theo quy định trên, kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về kết hôn và đăng ký kết hôn. Kết hôn chính là sự thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quan hệ vợ chồng của hai người khác giới, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa họ đối với nhau. Hệ thống pháp luật của nước ta quy định, việc kết hôn phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi yêu cầu đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn, nộp tờ khai đăng ký kết hôn và những giấy tờ cần thiết khác. Trong trường hợp có lý do chính đáng, một trong hai bên kết hôn không thể đến nộp hồ sơ đăng ký kết hôn thì có thể gửi cho cơ quan đăng ký kết hôn đơn xin nộp hồ sơ tạm vắng mặt, trong đơn phải nêu rõ lý do vắng mặt và phải có sự xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp cơ sở nơi người vắng mặt cư trú. Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định: nam, nữ kết hôn phải đảm bảo hai yếu tố: Thứ nhất, việc kết hôn phải thể hiện ý chí của cả nam và nữ là mong muốn được kết hôn với nhau. Như vậy, trước hết kết hôn là một quyền gắn liền nhân thân của mỗi bên nam nữ. Quyền kết hôn xuất phát từ tình cảm yêu thương giữa nam và nữ. Bởi vậy, đó là quyền tự do của mỗi cá nhân và được pháp luật bảo vệ, điều này được thể hiện tại Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2005, theo đó: "nam, nữ có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn" [35] và khoản 2 Điều 9 Luật Hôn nhân và 11
  19. gia đình: "việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép, cản trở" [33]. Do vậy, sự tự nguyện của nam và nữ trong việc kết hôn vừa là điều kiện đảm bảo cho hôn nhân có giá trị pháp lý và đồng thời cũng là cơ sở để xây dựng gia đình bền vững. Đối với những trường hợp khi tiến hành đăng ký kết hôn có sự lừa dối, cưỡng ép để được kết hôn hoặc kết hôn giả tạo thì nhà nước không thừa nhận việc kết hôn đó là hợp pháp. Thứ hai, việc kết hôn phải được nhà nước thừa nhận. Theo quy định tại Điều 64 Hiến pháp 1992 thì: "Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình" [34]. Hôn nhân chỉ được nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Đó là điều kiện về tuổi kết hôn; điều kiện về sự tự nguyện và một số điều kiện về nhân thân khác (các trường hợp cấm kết hôn) được quy định tại Điều 9; Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và việc kết hôn phải được đăng ký theo đúng quy định của pháp luật. Đáp ứng đủ những điều kiện trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành đăng ký việc kết hôn và ghi vào sổ kết hôn. Khi đó giữa các bên nam, nữ sẽ phát sinh quan hệ hôn nhân. Như vậy, muốn được kết hôn với nhau, nam nữ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Có thể thấy rằng, pháp luật của nhà nước ta quy định các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn phần nào đã thể hiện tính khoa học và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, đồng thời cũng phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thông qua việc đăng ký kết hôn, nhà nước đã công nhận hôn nhân của đôi nam, nữ. Ở đây, sự kiện kết hôn là cơ sở pháp lý ghi nhận rằng, hai bên nam nữ đã phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định chủ thể của các quan hệ trong gia đình như quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, đồng thời xác định rõ thời điểm xác lập các quan hệ đó. 12
  20. 1.1.1.2. Kết hôn có yếu tố nước ngoài Luật hôn nhân và gia đình hiện hành cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể về khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài mà chỉ ghi nhận khái niệm về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo đó, tại khoản 14 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ghi nhận: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình: a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [33]. Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 100 Luật Hôn nhân và gia đình còn quy định: "Các quy định của Chương này cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định ở nước ngoài" [33]. Việc nhận diện đúng "yếu tố nước ngoài" trong quan hệ hôn nhân và gia đình là hết sức cần thiết. Nhiều trường hợp không xác định đúng "yếu tố nước ngoài" nên gây không ít khó khăn cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Khoản 14 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đưa ra tiêu chí để xác định "yếu tố nước ngoài" trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Điều này đã khẳng định sự phát triển về lý luận của pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh các vấn đề có liên quan đến hôn nhân và gia đình. Từ những phân tích trên, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài có thể hiểu là các quan hệ hôn nhân và gia đình sau: 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2