intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

12
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn sẽ khái quát những vấn đề cơ bản nhất về lý luận và thực tiễn của công tác giám đốc việc xét xử; những hoạt động của giám đốc việc xét xử thông qua xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Từ đó, luận văn sẽ nêu lên một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giám đốc việc xét xử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân

  1. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt nguyÔn v¨n huy nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ gi¸m ®èc viÖc xÐt xö cña tßa ¸n nh©n d©n luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2008
  2. ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt nguyÔn v¨n huy nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn vÒ gi¸m ®èc viÖc xÐt xö cña tßa ¸n nh©n d©n Chuyªn ngµnh : Lý luËn vµ lÞch sö nhµ n-íc vµ ph¸p luËt M· sè : 60 38 01 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn V¨n Tu©n Hµ néi - 2008
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ 4 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm, ý nghĩa giám đốc việc xét xử của Tòa án 4 nhân dân 1.2. Giám đốc việc xét xử theo quy định của pháp luật Việt Nam 12 1.2.1. Quy định của pháp luật về thủ tục phúc thẩm 12 1.2.1.1. Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm 12 1.2.1.2. Xét xử phúc thẩm 14 1.2.2. Quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm 17 1.2.2.1. Tính chất của giám đốc thẩm 17 1.2.2.2. Kháng nghị giám đốc thẩm 20 1.2.2.3. Xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm 24 Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ 32 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 2.1. Hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân thông 32 qua xét xử phúc thẩm 2.2. Hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân thông 62 qua xét xử giám đốc thẩm 2.2.1. Thực trạng hoạt động giám đốc thẩm 62 2.2.2. Về áp dụng căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm 71 2.2.3. Về quyết định giám đốc thẩm 76 2.2.4. Về thẩm quyền giám đốc thẩm 81
  4. Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 96 HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 3.1. Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động giám đốc việc xét xử của 96 Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám đốc việc 108 xét xử của Tòa án nhân dân KẾT LUẬN 118 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tòa án nhân dân, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của nhân dân. Trong hoạt động xét xử, Tòa án các cấp cũng đề ra phương châm là "xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật". Trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm sự bình đẳng trong xã hội, bảo vệ sự an toàn trong hành lang pháp lý, thì Tòa án đã thực sự trở thành công cụ có hiệu quả. Ngành Tòa án đã ra sức khắc phục khó khăn, phát huy những điểm tích cực trong công tác xét xử và uốn nắn, sửa chữa những thiếu sót. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, một số bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn còn để lọt người phạm tội, làm oan người vô tội hoặc do lỗi từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án gây thiệt hại đến lợi ích của người khác. Thủ tục giám đốc thẩm ra đời nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình xử lý vụ án của Tòa án. Tuy nhiên, những quy định về thủ tục giám đốc thẩm chưa được quy định rõ ràng, cụ thể và triệt để dẫn đến việc rất khó áp dụng và gây nhiều tranh cãi. Việc giải thích, hướng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, nên trong hoạt động giám đốc việc xét xử chưa đạt kết quả cao. Công tác giám đốc việc xét xử ra đời nhằm kiểm tra lại những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trước thực trạng và yêu cầu như trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân". 1
  6. Việc nghiên cứu đề tài này nhằm đánh giá thực trạng xét xử của Tòa án các cấp, phân tích những mặt được và chưa được trong quá trình xét xử của vụ án, kiểm tra và uốn nắn những vi phạm để từ đó tổng kết kinh nghiệm, làm cơ sở để các cơ quan chức năng áp dụng thống nhất pháp luật. Đồng thời, đề tài cũng đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám đốc việc xét xử trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động giám đốc việc xét xử đã được các nhà làm luật cũng như những người làm công tác thực tiễn quan tâm, nhưng tiếc rằng chưa có một công trình nghiên cứu nào ở góc độ chuyên sâu về vấn đề này. Trong một số công trình khoa học hoặc bài viết chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó của giám đốc việc xét xử thông qua việc nghiên cứu thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm. Trong những năm qua, chưa có một công trình nghiên cứu về giám đốc việc xét xử có tính hệ thống và toàn diện. 3. Phương pháp nghiên cứu đề tài Tác giả đã xây dựng đề tài này dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, lịch sử, lôgic… Đồng thời, đề tài cũng được xây dựng dựa trên sự kết hợp giữa việc nghiên cứu lý luận với thực tiễn, từ việc tổng kết những kinh nghiệm xét xử trong thực tế để đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám đốc việc xét xử. 4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu: Luận văn sẽ khái quát những vấn đề cơ bản nhất về lý luận và thực tiễn của công tác giám đốc việc xét xử; những hoạt động của giám đốc việc xét xử thông qua xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Từ đó, luận văn sẽ nêu lên một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giám đốc việc xét xử. 2
  7. Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới là vấn đề đang được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, không chỉ ở nước ta mà rất nhiều nước trên thế giới. Trước đây cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề trình tự và thủ tục giám đốc thẩm dân sự, kinh tế… và việc nâng cao hiệu quả của công tác giám đốc thẩm và tái thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động nói chung. Tuy nhiên, trước sự đòi hỏi của thực tiễn về cải cách tư pháp thì việc cần phải có một đề tài nghiên cứu riêng về công tác giám đốc xét xử là điều rất cần thiết. Vì đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng, cho nên tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động giám đốc xét xử đối với vụ án hình sự. Luận văn nghiên cứu tổng quát và hệ thống các vấn đề như: quy định của pháp luật về hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới; thực tiễn hoạt động giám đốc việc xét xử thông qua xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm; yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám đốc việc xét xử. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân. Chương 2: Thực tiễn hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám đốc việc xét xử. 3
  8. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện một trong các lĩnh vực quyền lực của Nhà nước đó là quyền tư pháp. Hoạt động xét xử của Tòa án hiểu theo nghĩa chung nhất là "hoạt động của các cơ quan và cá nhân được quyền căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra những quyết định pháp lý có tính chất bắt buộc". Hoạt động xét xử là nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau. Tòa án có vai trò to lớn trong việc đảm bảo ổn định xã hội. Trong hoạt động áp dụng pháp luật, Tòa án đóng vai trò hết sức quan trọng và có đặc thù riêng. Khi xét xử, Tòa án là chủ thể có quyền xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật của các chủ thể khác, ra bản án hoặc quyết định phán xét hành vi của các chủ thể đó. Các bản án và quyết định này mang tính quyền lực nhà nước sâu sắc, được Tòa án tuyên nhân danh Nhà nước, thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với vụ án, quyết định những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của công dân và những chủ thể khác. Các bản án và quyết định của Tòa án có ý nghĩa là phán quyết cuối cùng, bản án và quyết định của Tòa án có hiệu lực bắt buộc chung đối với các bên có liên quan cũng như đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Việc Tòa án áp dụng pháp luật sẽ được sự giám sát trực tiếp không chỉ của Viện kiểm sát mà còn của nhân dân. Có thể nói, "Tòa án là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực tư pháp - nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, 4
  9. công tố, bào chữa được kiểm tra và xem xét một cách công khai thông qua thủ tục tố tụng theo luật định để đưa ra những phán quyết cuối cùng có tính chất quyền lực nhà nước, nơi phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền công lý". Vì vậy, việc xét xử công khai của Tòa án có ảnh hưởng lớn về mặt chính trị, xã hội và tác động mạnh mẽ đến ý thức pháp luật của công dân. Do tầm quan trọng và đặc thù của hoạt động xét xử, đòi hỏi việc xét xử phải chính xác, công bằng và đúng pháp luật, thể hiện được ý chí, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án [20]. Do tầm quan trọng của hoạt động xét xử và đặc điểm của hoạt động này nên việc đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án đúng pháp luật, đảm bảo tính hợp pháp trong các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu được đặt ra đối với các quốc gia trên thế giới. Yêu cầu này đặc biệt quan trọng trong Tố tụng hình sự, khi mà Tòa án có quyền ra bản án hình sự, quyết định những vấn đề về trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với bị cáo, đó có thể là tự do, danh dự, tài sản, nhân thân và thậm chí cả tính mạng con người. Việc quy định nguyên tắc xét xử vụ án theo hai cấp xét xử và tổ chức Tòa án theo thứ bậc để Tòa án cấp trên có thể xem xét lại phán quyết của Tòa án cấp dưới là một trong những giải pháp về mặt pháp luật để giải quyết vấn đề này. Việc xem xét lại vụ án để đảm bảo tính chính xác, khách quan trong hoạt động xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, việc giải quyết vụ án phải nhanh chóng, không thể kéo quá dài. Nếu trình tự tố tụng quá dài và phức tạp sẽ dẫn đến hậu quả các quan hệ xã hội bị xâm phạm, không khôi phục kịp thời, trật tự xã hội không ổn định, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không được giải quyết nhanh chóng. Theo nguyên tắc hai cấp xét xử, sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và chưa được đưa ra thi hành trong một thời gian nhất định; bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo, cơ quan công tố có quyền kháng nghị để xem xét lại thủ tục phúc thẩm. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên sẽ xem xét cả về tính hợp pháp và tính có căn 5
  10. cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm, đồng thời xét xử lại vụ án về nội dung. Như vậy, ngoài chức năng xét xử, phúc thẩm là một hình thức giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Trên thực tế, trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp, đã xuất hiện các bản án và quyết định có nhiều sai phạm, dẫn đến tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, việc kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án các cấp là điều rất cần thiết. Thông qua hoạt động này, giúp cho Tòa án các cấp phát hiện được những sai phạm của mình để kịp thời sửa chữa, khắc phục những vi phạm; đồng thời tổng kết kinh nghiệm xét xử, làm cơ sở để Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật. Giám đốc việc xét xử, đó là sự kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, thông qua đó mà uốn nắn, sửa chữa hoặc hủy bỏ những sai lầm, nhằm bảo đảm cho Tòa án các cấp áp dụng đúng đắn và thống nhất pháp luật. Giám đốc xét xử bao gồm các hoạt động như: - Kiểm tra, phát hiện những thiếu sót, sai lầm. Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án không thể tránh khỏi những sai lầm và vi phạm trong việc xử lý vụ án. Giám đốc việc xét xử sẽ kiểm tra và phát hiện kịp thời những sai phạm đó, khắc phục được những hậu quả có thể xảy ra do bản án oan sai hoặc những vi phạm thủ tục tố tụng gây nên. - Giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân về các vụ án mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đối với các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng đã bị cơ quan, tổ chức và công dân khiếu nại, tố cáo; thì hoạt động giám đốc xét xử sẽ bao gồm việc giải quyết, xử lý các khiếu nại, tố cáo đó. Việc giải quyết này cần phải triệt để, đúng đắn và chính xác; làm cho người dân tin tưởng vào pháp luật và đảm bảo nguyên tắc: không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. 6
  11. - Tổng kết kinh nghiệm xét xử. Thông qua thực tiễn xét xử, Tòa án các cấp tổng kết lại các kinh nghiệm xét xử cũng như đúc rút ra các bài học kinh nghiệm sau quá trình thụ lý và xét xử mỗi vụ án; đồng thời rút ra những mặt tích cực, mặt thuận lợi, cũng như những hạn chế, tiêu cực trong quá trình xét xử của Tòa án các cấp. Tổng kết kinh nghiệm xét xử là một hoạt động quan trọng của việc giám đốc xét xử, giúp cho Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật. - Hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật. Hệ thống pháp luật nước ta vẫn đang tồn tại nhiều điểm bất cập, những quy định pháp luật không thực tế và không hợp lý, những mâu thuẫn trong các quy định pháp luật. Vì vậy, chưa tạo ra một hành lang pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng thống nhất pháp luật, đặc biệt là trong quá trình xét xử của Tòa án. Thông qua hoạt động giám đốc việc xét xử, Tòa án sẽ đúc rút ra những kinh nghiệm trong quá trình xét xử, làm cơ sở để Tòa án các ấp áp dụng thống nhất pháp luật. - Kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Giám đốc việc xét xử là quyền hạn và nhiệm vụ của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới. Nó được ghi nhận trong Điều 134 Hiến pháp năm 1992 và Điều 19 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Tòa án cấp trên có trách nhiệm phải kiểm tra, giám sát mọi hoạt động trong quá trình xét xử của Tòa án cấp dưới, phát hiện ra những sai lầm và thiếu sót, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, để từ đó tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật. Giám đốc việc xét xử là một nguyên tắc tố tụng quan trọng được ghi nhận tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 như sau: "Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của các Tòa án cấp dưới, Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất". 7
  12. Hoạt động giám đốc của Tòa án cấp trên đối với hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới là một bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc áp dụng pháp luật trong công tác xét xử ở các cấp Tòa án được nghiêm chỉnh và thống nhất. Vì vậy, pháp luật đã xác định rõ việc giám đốc của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới và việc giám đốc của Tòa án nhân dân tối cao đối với các Tòa án trong cả nước. Hoạt động giám đốc của Tòa án cấp trên đối với việc xét xử của Tòa án cấp dưới được tiến hành thông qua việc xem xét lại bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có quyền phúc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới trực tiếp có kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền phúc thẩm những bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Thông qua việc thực hiện các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án cấp trên uốn nắn những lệch lạc của Tòa án cấp dưới trong hoạt động xét xử. Đồng thời việc kiểm tra, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật và đường lối xét xử cũng là những biện pháp thực hiện việc giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Giám đốc xét xử được thực hiện thông qua hoạt động phúc thẩm và giám đốc thẩm. Phúc thẩm và giám đốc thẩm đều là hoạt động của giám đốc xét xử nhưng khác nhau về nhiều điểm mà chủ yếu là khác nhau về tính chất, căn cứ, đối tượng, phạm vi, thẩm quyền, thủ tục. 8
  13. Trong khoa học luật tụng hình sự, khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu ở các góc độ khác nhau, ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp thì khái niệm phúc thẩm có thể được hiểu với một trong các nghĩa sau đây: phúc thẩm là một giai đoạn của tố tụng hình sự (giai đoạn phúc thẩm). Phúc thẩm là một chế định (chế định phúc thẩm) của tố tụng hình sự và phúc thẩm là một thủ tục tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Theo nghĩa rộng, khái niệm phúc thẩm được hiểu ở cả ba nghĩa nêu trên: phúc thẩm là một giai đoạn, một chế định của tố tụng hình sự đồng thời là một thủ tục xét xử. Như vậy, xét về nội hàm thì "phúc thẩm" là khái niệm rộng nhất, trong đó bao hàm các khái niệm hẹp "giai đoạn phúc thẩm", "chế định phúc thẩm" và "thủ tục xét xử phúc thẩm". Phúc thẩm có vai trò vô cùng quan trọng, đó là một trong những hình thức giám đốc việc xét xử chủ yếu của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Thông qua việc xét xử lại vụ án mà bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà còn phát hiện và khắc phục kịp thời các vi phạm nghiêm trọng về xét xử của Tòa án cấp dưới. Theo thống kê, số vụ án hình sự được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm trung bình hàng năm chiếm gần 30% số vụ án đã xét xử sơ thẩm, trong số đó, các Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa, hủy án sơ thẩm hoặc tuyên bị cáo vô tội đối với 25-30% số bị cáo. Bằng quyền hạn của mình, Tòa án cấp phúc thẩm ngăn chặn việc đưa ra thi hành các bản án, quyết định có vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phúc thẩm là một trong những chế định thể hiện rõ nét nhất bản chất dân chủ và tiến bộ của tố tụng hình sự. Chế định này buộc các Tòa án cấp sơ thẩm phải thận trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp pháp và tính có căn cứ khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Nó không cho phép người đã kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã kháng nghị được bổ sung, thay đổi kháng cáo theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; không cho phép Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm 9
  14. xấu hơn tình trạng của bị cáo, nếu không có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị theo hướng đó. Phúc thẩm còn là một trong những phương tiện hữu hiệu để bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo. Thông qua xét xử các vụ án mà Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn cho các Tòa án cấp dưới và các Cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật; góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân, đấu tranh phòng chống tội phạm [21]. Tóm lại, phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại những vụ án mà một phần hoặc toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, đảm bảo không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người tham gia tố tụng và mọi công dân. Về giám đốc thẩm, trong lĩnh vực khoa học pháp lý, một số tác giả đã đưa ra những khái niệm khác nhau về giám đốc thẩm. Cụ thể như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật về vụ án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Quan điểm thứ hai cho rằng, thủ tục giám đốc thẩm là một trình tự đặc biệt của tố tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. 10
  15. Quan điểm thứ ba cho rằng, giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng có mục đích kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Quan điểm thứ tư cho rằng giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án. Các khái niệm trên rất khác nhau về góc độ tiếp cận vấn đề, phạm vi khái niệm rộng hẹp cũng khác nhau, tính khoa học và sự phù hợp với thực tiễn của các khái niệm này cũng ở mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các quan điểm trên vẫn thống nhất với nhau ở một số điểm cơ bản, xác định giám đốc thẩm có tính chất đặc biệt, đó là việc xem xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để kiểm tra tính hợp pháp trong các bản án và quyết định của Tòa án [20]. Một trong những nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng hình sự là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng, và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong công tác xét xử, Tòa án các cấp cũng đề ra phương châm là "xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật". Tuy nhiên, thực tế cho thấy do những nguyên nhân khác nhau, việc xét xử của Tòa án vẫn còn để lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xử phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm do người có hành vi phạm tội gây ra. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, có trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã vi phạm các quy định của pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật Tố tụng hình sự quy định một thủ tục để xét lại bản án hoặc quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật, đó là thủ tục giám đốc thẩm. Hoạt động phúc thẩm và giám đốc thẩm là hai hoạt động quan trọng và chủ yếu của hoạt động giám đốc việc xét xử. Những quy định của pháp luật về thủ tục phúc thẩm và giám đốc thẩm đã được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định này đã bộc lộ không ít 11
  16. khiếm khuyết, đòi hỏi cần phải được hoàn thiện. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm chính là một trong những giải pháp nhằm nâng cao hoạt động giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân. 1.2. GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.2.1. Quy định của pháp luật về thủ tục phúc thẩm Phúc thẩm vụ án hình sự là một thủ tục tố tụng do luật định nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm; thông qua việc xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi ra bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới. Thông qua đó hướng dẫn Tòa án cấp sơ thẩm khắc phục những thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các Thẩm phán của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị. 1.2.1.1. Kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm * Kháng cáo Theo quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự thì những người sau đây có quyền kháng cáo: - Bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ; - Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ; - Người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi cho bị cáo là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần; - Nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; - Bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ; 12
  17. Trong số những người có quyền kháng cáo, thì phạm vi quyền kháng cáo của họ tùy thuộc vào đại vị pháp lý của mỗi người khi tham gia tố tụng. Ví dụ: bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáo những quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Theo quy định tại Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự, thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với những bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc niêm yết. * Kháng nghị Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật. Quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một căn cứ làm phát sinh một trình tự xét xử-trình tự xét xử phúc thẩm hay còn gọi là thủ tục phúc thẩm. Chỉ có Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp với Tòa án đã ra bản án sơ thẩm mới có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có 03 Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đặt tại ba miền (Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Hà Nội, Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng và Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh). 03 Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm này tương đương với 03 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không phải là Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát cấp tỉnh. Vì vậy, việc kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát phúc thẩm chỉ có giá trị pháp lý khi được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ủy quyền. Phạm vi kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cũng không bị giới hạn, có thể kháng nghị một phần hoặc 13
  18. toàn bộ bản án sơ thẩm; có thể kháng nghị theo hướng có lợi hoặc theo hướng không có lợi cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. * Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị Theo quy định tại khoản 1 Điều 237 Bộ luật Tố tụng hình sự thì những phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo (khoản 2 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự). Khi có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành. 1.2.1.2. Xét xử phúc thẩm * Phạm vi xét xử phúc thẩm Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án". Việc xét xử lại vụ án hình sự theo trình tự phúc thẩm chỉ được tiến hành đối với phần bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với những phần còn lại của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại nếu việc xem xét lại những phần đó có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đối với các khoản bồi thường thiệt hại, nếu không có kháng cáo, kháng nghị thì Tòa phúc thẩm không xem xét. 14
  19. * Phiên tòa phúc thẩm hình sự Phiên tòa phúc thẩm hình sự là phiên tòa do Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm tiến hành để xét xử lại vụ án hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử, nhưng có kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Về hình thức phiên tòa phúc thẩm hình sự cũng giống như phiên tòa sơ thẩm, việc bố trí phòng xử án không có gì khác phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, về Hội đồng xét xử phúc thẩm, về những người tham gia phiên tòa phúc thẩm và thủ tục phiên tòa có một số điểm khác phiên tòa sơ thẩm. * Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm Theo quy định tại Điều 244 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, ít có những trường hợp vướng mắc về Hội đồng xét xử phúc thẩm, hầu hết các Tòa án đều thực hiện đúng. Tuy nhiên, về lý luận có vấn đề đặt ra là: trong trường hợp nào thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải có năm người, trong đó có ba Thẩm phán và hai Hội thẩm? Từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn nào của các cơ quan có thẩm quyền xác định trong trường hợp nào thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có năm người trong đó có hai Hội thẩm và thực tiễn xét xử cũng chưa có trường hợp nào Hội đồng xét xử phúc thẩm có năm người. Các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp có đông bị cáo như vụ án TAMECO, vụ Trần Xuân Hoa và đồng bọn ở Thành phố Hồ Chí Minh, vụ Nhà hàng 62 Trần Phú, thành phố Nha Trang, các vụ: Phúc Bồ, Khánh Trắng, Vũ Xuân Trường và đồng bọn ở Hà Nội; gần đây là vụ án Trương Văn Cam (Năm Cam) có tới 155 bị cáo khi xét xử phúc thẩm cũng chỉ có ba Thẩm phán. Có nhiều ý kiến cho rằng, những vụ án này mà Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng chỉ có ba Thẩm phán, thì chắc chẳng còn vụ án nào cần Hội đồng xét xử phúc thẩm năm người nữa và quy định tại Điều 216 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 không còn phù hợp với thực tiễn xét xử. 15
  20. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng có ý kiến đề nghị sửa đổi Điều 216, nhưng Điều 244 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 vẫn quy định như Điều 216 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Trong khi đó Điều 41 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân thì không quy định Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao và Hội thẩm quân nhân của Tòa án Quân sự Trung ương. Như vậy, thì chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì Hội đồng xét xử phúc thẩm mới có thể có Hội thẩm nhân dân [24]. * Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm có thể là người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc là những người khác mà Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập. Trong đó có những người, nếu họ vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. Theo quy định tại Điều 245 Bộ luật Tố tụng hình sự thì những người tham gia phiên tòa phúc thẩm bao gồm: Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị và những người khác nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy sự có mặt của họ là cần thiết. Việc nhà làm luật quy định việc có mặt của những người tham gia phiên tòa phúc thẩm chung trong cùng một điều luật làm cho việc xác định trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử hay phải hoãn phiên tòa là một vấn đề khó khăn. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã phát hiện sự bất hợp lý này và đề nghị cần quy định riêng đối với từng trường hợp cụ thể, nhưng không được chấp nhận. Vì vậy, khi hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 các Cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương nên hướng dẫn từng trường hợp đối với từng người tham gia phiên tòa cụ thể, để việc xét xử phúc thẩm thuận lợi, tránh hiểu và áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài những người tham gia phiên tòa nêu trên, Tòa án cấp phúc thẩm có thể triệu tập những người khác đến tham gia phiên tòa nếu xét thấy cần 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2