Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật lao động giúp việc gia đình và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội
lượt xem 4
download
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề mang tính pháp lý về lao động GVGĐ và thực tiễn áp dụng các quy định này tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật lao động giúp việc gia đình và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ VIỆT ANH PH¸P LUËT LAO §éNG GIóP VIÖC GIA §×NH Vµ THùC TIÔN THI HµNH T¹I THµNH PHè Hµ NéI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ VIỆT ANH PH¸P LUËT LAO §éNG GIóP VIÖC GIA §×NH Vµ THùC TIÔN THI HµNH T¹I THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ HOÀI THU HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Việt Anh
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT................ 8 1.1. Quan niệm về lao động giúp việc gia đình ..................................... 8 1.1.1. Định nghĩa về lao động giúp việc gia đình ........................................ 8 1.1.2. Đặc điểm của lao động giúp việc gia đình ...................................... 13 1.1.3. Phân loại lao động giúp việc gia đình ............................................. 19 1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với lao động giúp việc gia đình ... 23 1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về lao động giúp việc gia đình ...... 23 1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với lao động giúp việc gia đình ... 26 1.2.3. Nội dung pháp luật đối với lao động giúp việc gia đình ................. 32 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 43 2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về lao động giúp việc gia đình ........................................................................................... 43 2.1.1. Về hợp đồng lao động đối với lao động giúp việc gia đình ............ 43 2.1.2. Về tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động giúp việc gia đình............................................................................. 51 2.1.3. Về giải quyết tranh chấp đối với lao động giúp việc gia đình ......... 52
- 2.1.4. Về đào tạo và quản lý lao động giúp việc gia đình ......................... 54 2.2. Thực tiễn thi hành của quy định pháp luật về lao động giúp việc gia đình tại thành phố Hà Nội............................................... 58 2.2.1. Tình hình lao động giúp việc gia đình tại thành phố Hà Nội .......... 58 2.2.2. Một số nhận xét về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về lao động giúp việc gia đình.............................................................. 60 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................. 70 3.1. Một số giải pháp về tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lao động giúp việc gia đình ............... 71 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lao động giúp việc gia đình ............................................... 76 3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật .................................. 76 3.2.2. Về tổ chức thực hiện ........................................................................ 78 3.2.3. Từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội ................................................... 80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BHXH: Bảo hiểm Xã hội BHYT: Bảo hiểm Y tế GFCD: Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và phát triển Cộng đồng GVGĐ: Giúp việc gia đình IFGS: Viện nghiên cứu gia đình và giới ILO: Tổ chức lao động quốc tế LĐGVGĐ: Lao động Giúp việc gia đình NGV: Người giúp việc NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau gần ba thập kỉ đổi mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, trật tự xã hội được thiết lập ổn định, chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần của người dân Việt Nam đều đã được nâng lên rõ rệt. Số lượng các gia đình có mức thu nhập ổn định và khá giả ngày càng gia tăng. Đặc biệt ở khu vực thủ đô Hà Nội - trung tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, với tốc độ phát triển nhanh chóng cùng với quan niệm về sự bình quyền trong các mối quan hệ, phụ nữ cũng như nam giới cũng phải đảm nhận nhiều các công việc xã hội dẫn đến quỹ thời gian dành cho gia đình bị thu hẹp, và người phụ nữ trong gia đình thường xuyên không có nhiều thời gian dành cho việc chăm sóc con cái, phụng dưỡng người lớn tuổi như trước đây và đặc biệt là việc dọn dẹp nhà cửa. Điều nay đã hình thành nên một thị trường lao động không còn mới nhưng ngày càng phát triển trong xã hội ngày nay; chủ yếu dành cho đối tượng lao động là phụ nữ từ nông thôn. Đó chính là thị trường lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam. Vai trò của lực lượng lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ) trong xã hội ngày càng được khẳng định. Họ đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giải phóng phụ nữ làm việc ngoài xã hội với cường độ cao khỏi gánh nặng công việc trong gia đình, có nhiều thời gian hơn dành cho sự nghiệp, học hành, nghỉ ngơi, giải trí..., bên cạnh đó, nghề GVGĐ còn mang lại thu nhập tương đối ổn định cho nhiều lao động là người nông dân đang gặp nhiều khó khăn, giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở một bộ phận lao động ở nông thôn. Trước đây, LĐGVGĐ vẫn chưa được coi là một nghề và những người làm công việc ngày cũng không được tôn trọng như những người làm nghề khác. Trước năm 2012, quy định về “lao động giúp việc gia đình” đã có nhưng 1
- còn hạn chế và chỉ được đề cập tại một số điều như tại điều 5, điều 28, điều 139 Bộ luật lao động (BLLĐ) năm 1994 về vấn đề hợp đồng lao động, quy định về thời gian còn chung chung chưa có hướng dẫn cụ thể. Song qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, dến BLLĐ năm 2012 có hiệu lực kể từ ngày 01/5/2013, lần đầu tiên GVGĐ được công nhận như một nghề chính thức, được quy định thành một mục riêng tại mục 5 Chương XI gồm 5 điều từ điều 179 đến điều 183 BLLĐ năm 2012 và được hướng dẫn thực hiện tại Nghị định 27/2014/NĐ- CP ngày 07/4/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của BLLĐ về lao động là người giúp việc gia đình và Thông tư số 19/2014/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động thương binh và Xã hội, hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 27/2014/NĐ-CP. (Sau đây viết là Nghị định 27/NĐ-CP; Thông tư 19/TT-BLĐTBXH). Đây là một bước tiến tích cực trong việc xây dựng khung pháp lý về GVGĐ cũng như từng bước đưa GVGĐ trở thành một nghề trong thị trường lao động. Việc luật hóa vấn đề lao động GVGĐ đã cải thiện điều kiện và chế độ làm việc, đảm bảo sự bình đẳng giới và bảo vệ những đối tượng lao động dễ bị tổn thương này. LĐGVGĐ mang đậm nét đặc trưng về giới với 98,7% lực lượng lao động là phụ nữ, xuất thân chủ yếu từ nông thôn, gia cảnh khó khăn, nghề nghiệp không ổn định, một số lớn tuổi không có chồng, bị góa hoặc ly hôn., thuộc những đối tượng có trình độ thấp, ít hiểu biết xã hội và hầu như chưa qua đào tạo nghề. Bên cạnh đó, môi trường làm việc của người GVGĐ thường khép kín trong không gian nhà của người sử dụng lao động (gia chủ) và quan niệm xã hội ít nhiều còn thiếu sự tôn trọng đối với NGV. Chính vì những đặc thù này, LĐGVGĐ dễ phải đối mặt các nguy cơ như bị mắng chửi, đánh đập, đe dọa, bị lạm dụng sức lao động, lạm dụng tình dục... nguy cơ không được gia chủ thực hiện đúng thỏa thuận ban đầu về công việc, thời gian, tiền lương... hoặc các quyền lợi của họ không được đảm bảo, ví dụ như quyền được chi trả một phần bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm xã hội 2
- (BHXH).Thực tế tại thành phố Hà nội đã chỉ ra loại hình lao động này đang nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội cũng như lợi ích của các bên liên quan trong mối quan hệ này. Tình trạng NSDLĐ GVGĐ và NLĐ không ký hợp đồng lao động, chủ yếu thỏa thuận miệng, không đóng bảo hiểm xã hội, vi phạm về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi về an toàn vệ sinh lao động, sự vi phạm về việc đăng ký tạm trú cho NGV, nhiều trường hợp NGV bị đối xử thậm tệ hay nhiều gia đình bị NGV lấy trộm tài sản, tự ý bỏ việc làm đảo lộn cuộc sống của gia đình NSDLĐ xảy ra rất phổ biến. Những vấn đề này ngày càng gây bức xúc dư luận và chính sự lỏng lẻo trong mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ trong loại hình lao động này là nguyên nhân khiến cho thị trường LĐGVGĐ thiếu tính chuyên nghiệp, mặc dù đã có những quy định hướng dẫn chi tiết khi thi hành. Chính vì những lý do trên nên em lựa chọn: “Pháp luật lao động giúp việc gia đình và thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Luận văn đi vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện các quy định đối với lao động giúp việc gia đình ở nước ta nói chung và trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Từ đó thấy được những thuận lợi và khó khăn trong thực tiễn để đề xuất một số kiến nghị cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật lao động giúp việc gia đình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thị trường LĐGVGĐ ngày càng phát triển và có có ảnh hưởng lớn đến một bộ phận người lao động là phụ nữ và trẻ em từ các vùng nông thôn nên đô thị để tham gia vào thị trường này. Việc nghiên cứu về loại hình lao động này trên nhiều phương diện, dưới nhiều khía cạnh đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý như: - Dự án “Bảo vệ quyền của LĐGVGĐ tại Việt Nam” với mục tiêu “Bảo vệ quyền của LĐGVGĐ thông qua tham vấn xây dựng chính sách và tạo điều kiện hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách” của Trung tâm Nghiên cứu Giới, 3
- Gia đình và Phát triển cộng đồng (GFCD), năm 2011, với sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của Oxfam Novib và Rosa Luxemburg Stiftung. GFCD đã tiến hành rà soát pháp luật, chính sách liên quan đến LĐGVGĐ và thực hiện các nghiên cứu ở 05 tỉnh/thành phố: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Nam Định, Khánh Hòa và Vĩnh Long cũng như tham khảo kinh nghiệm thực tiễn về quản lý LĐGVGĐ của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở những phát hiện chính của các nghiên cứu và tham khảo báo cáo rà soát pháp luật trong nước và quốc tế, GFCD xây dựng “Báo cáo tổng quan về tình hình LĐGVGĐ tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay”. Báo cáo là bức tranh tổng thể về thực trạng, những bất cập và xu hướng phát triển của một loại hình lao động vốn đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt Nam- LĐGVGĐ. - “Việc làm bền vững đối với lao động GVGĐ” của tác giả Hà Thị Minh Khương trên tạp chí nghiên cứu gia đình và giới- Viện gia đình và giới số 05/2012. - “Thực trạng lao động là người LĐGVGĐ ở Việt Nam và một số kiến nghị” của tác giả Nguyễn Thị Lam; - “Một số vấn đề xã hội của lao động GVGĐ ở đô thi hiện nay” của tác giả Trần Thị Hồng trên tạp chí nghiên cứu gia đình và giới- Viện gia đình và giới số 02/2011. - “Trẻ em là thuê giúp việc gia đình ở Hà Nội” của nhóm tác giả do Nguyễn Thị Vân Anh và Lê Khanh (chủ biên), NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000: Các tác giả tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề chung liên quan đến trẻ em, trong đó quyền trẻ em được coi là cơ sở, nền tảng pháp lý cho việc nghiên cứu về lao động trẻ em, đồng thời trình bày phương pháp tiếp cận nghiên cứu lao động trẻ em làm thuê giúp việc tại các gia đình ở Hà Nội. Nhóm nghiên cứu đã mô tả các đặc điểm về gia đình, lứa tuổi trình độ học vấn và chỉ ra một số đặc điểm về phẩm chất tâm lý của trẻ em giúp việc. Từ đó, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra được những khía cạnh về chăm sóc và bảo vệ 4
- sức khỏe, quyền học tập của trẻ em giúp việc làm căn cứ đưa ra một số giải pháp kiến nghị đối với việc nâng cao nhận thúc về quyền trẻ em; - “Điều kiện sống và làm việc của trẻ em gái từ nông thôn ra Hà Nội làm nghề giúp việc gia đình” của tác giả Đặng Bích Thủy trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 6/2001: Trên cơ sơ phân tích điều kiện sống, điều kiện làm việc, chế độ nghỉ ngơi của trẻ em giúp việc gia đình thấy rằng trẻ em làm giúp việc gia đình sống trong môi trường khép kín, không được giao tiếp với thế giới bên ngoài. Từ đó tác giả đề xuất một số ý kiến kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức về quyền trẻ em qua hệ thống truyền thông đại chúng và tuyên truyền sâu rộng pháp luật liên quan đến việc bảo vệ trẻ em và nhấn mạnh đến việc hỗ trợ, quan tâm từ Nhà nước đối với các gia đình có hoàn cảnh khó khăn. - “Một số loại hình giúp việc gia đình ở Hà Nội hiện nay và các giải pháp quản lý” do TS Ngô Thị Ngọc Anh chủ biên, NXB lao động (Hà Nội), 2010: Đề tài nêu bật dược đặc điểm của người lao động giúp việc gia đình và các hộ sử dụng lao động giúp việc gia đình, đồng thời nêu lên các loại hình lao động giúp việc gia đình ở Hà Nội và thực trạng hoạt động của các loại hình lao động giúp việc gia đình. Từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp đối với các loại hình lao động giúp việc gia đình trên địa bàn Hà Nội. - Luận văn thạc sĩ: “Lao động là người giúp việc gia đình theo Bộ luật lao động năm 2012”, Nguyễn Hữu Long, 2014. Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề mang tính pháp lý về lao động giúp việc gia đình theo Bộ luật lao động năm 2012, tìm hiểu việc thực hiện những quy định này trong thực tế và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về lao động giúp việc gia đình. Các công trình nói trên của các tác giả đã tiếp cận nghiên cứu về lao động GVGĐ từ nhiều góc độ khác nhau và đó là nguồn tài liệu quý giá cho tác giả sau này trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên các nghiên cứu này mới chỉ chú ý vào tìm hiểu nguyên nhân, đặc điểm về lao động GVGĐ trên phương diện xã hội, đời sống. Những vấn đề pháp lý liên quan đến các chủ 5
- thể trong mối quan hệ lao động này dường như chưa được chú trọng. Hiện nay các nghiên cứu về lao động GVGĐ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thi hành một cách đầy đủ và toàn diện chưa nhiều. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật lao động giúp việc gia đình từ thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội” là hết sức cần thiết, nhằm đưa pháp luật về lao động GVGĐ vào đời sống một cách có hiệu quả trong tương lai gần. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề mang tính pháp lý về lao động GVGĐ và thực tiễn áp dụng các quy định này tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái quát lý luận về pháp luật lao động GVGĐ; - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về lao động GVGĐ tại thành phố Hà Nội. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lao động giúp việc gia đình và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam về lao động GVGĐ theo Bộ luật lao động năm 2012 và thực trạng thi hành pháp luật trên thực tiễn tại thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Lao động là người giúp việc gia đình có thể được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Song, trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề mang tính pháp lý về lao động GVGĐ và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tại thành phố Hà Nội. 6
- 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Quan điểm của Đảng, nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, tổng hợp, đánh giá… 6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về lao động giúp việc gia đình; Về mặt thực tiễn của đề tài: từ việc đánh giá thực tiễn việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động giúp việc gia đình tại thành phố Hà Nội đưa ra những giải pháp, phương hướng và kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về lao động GVGD. Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp các cơ quan lập pháp có thêm tư liệu tham khảo cho công tác hoàn thiện pháp luật. Đồng thời đề tài cũng phục vụ cho các công trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập pháp luật lao động sau này. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 03 chương: Chương 1: Khái quát chung về lao động giúp việc gia đình và sự điều chỉnh của pháp luật. Chương 2: Thực trạng pháp luật về lao động giúp việc gia đình và thực tiễn tại thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lao động giúp việc gia đình từ thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội. 7
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT 1.1. Quan niệm về lao động giúp việc gia đình 1.1.1. Định nghĩa về lao động giúp việc gia đình Lao động giúp việc gia đình (GVGĐ) là một loại hình lao động đã xuất hiện từ rất lâu đời. Trên thế giới, loại hình lao động này có mặt từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về lao động GVGĐ. Các nước khác nhau đang áp dụng những cách tiếp cận chính sách, pháp luật khác nhau và sử dụng thuật ngữ “lao động GVGĐ” để chỉ rất nhiều loại công việc khác nhau. Định nghĩa đầu tiên về người lao động giúp việc gia đình trên thế giới được đưa ra tại cuộc họp các chuyên gia do ILO tổ chức năm 1951. Theo đó, người giúp việc gia đình được định nghĩa là “người làm công việc tại nhà riêng, theo các hình thức và thời gian thanh toán tiền công khác nhau. Người này có thể do một hoặc nhiều người thuê và người chủ không được tìm kiếm lợi nhuận từ công việc này” [29, tr.11]. Với cách định nghĩa như vậy thì lao động GVGĐ được nhận biết bởi hai tiêu chí cơ bản: một là công việc của lao động GVGĐ được thực hiện trong “hộ gia đình”, hai là NSDLĐ không được tìm kiếm lợi nhuận từ công việc của người lao động. Đến năm 2011, theo Điều 1 của Công ước số 189 về “Việc làm bền vững cho lao động GVGĐ” thì “công việc giúp việc gia đình” được quy định là công việc được thực hiện trong một hoặc nhiều hộ gia đình; còn “người lao động giúp việc gia đình” là người thực hiện công việc gia đình trong mối quan hệ lao động việc làm. “Người thỉnh thoảng hoặc không thường xuyên thực hiện công việc gia 8
- đình và không làm việc đó như một nghề nghiệp thì không phải là người lao động GVGĐ” [29, tr. 11]. Như vậy theo Công ước 189, bổ sung thêm một tiêu chí đó là tính chất công việc của lao động GVGĐ phải thường xuyên tức là đều đặn, không bị gián đoạn; còn tính chất nghề nghiệp thì có thể hiểu là tính cố định, công việc đấy là nghề để mưu sinh. Để được gọi là một người GVGĐ thì bản thân người lao động đó phải thực hiện và coi GVGĐ là công việc ổn định, lâu dài, là công việc mang lại nguồn thu nhập chính cho bản thân. Theo luật Việc làm của Singapore (2008) “người GVGĐ là người được thuê để làm việc nhà, làm vườn hoặc lái xe phục vụ mục đích cá nhân và không được coi là người lao động được điều chỉnh bởi luật Việc làm” (Điều 2) [4, tr.78]. Đạo luật về việc làm số 265 năm 1955 của Malaysia đưa ra định nghĩa về người GVGĐ hay người phục vụ trong gia đình theo cách gọi của nước này (domestic servant) là: người được thuê lại để làm những công việc trong gia đình, không liên quan tới bất kì hoạt động thương mại, kinh doanh hoặc nghề nghiệp của người chủ gia đình. Họ có thể là người nấu cơm, lau dọn nhà cửa, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình”. Bộ luật Lao động của Philippin (1998) sử dụng thuật ngữ “phục vụ trong nhà hoặc cho hộ gia đình” (domestic/ household service) nghĩa là “dịch vụ GVGĐ hoặc hộ gia đình” là loại hình dịch vụ mà thông thường người sử dụng lao động thuê người lao động vì nhu cầu hoặc mong muốn được thỏa mãn nhu cầu tiện lợi cá nhân của người sử dụng lao động hoặc thành viên gia đình họ, bao gồm cả dịch vụ lái xe riêng gia đình [4, tr. 53]. Luật lao động của Camphuchia (1997) quy định “Người giúp việc trong gia đình” là những người lao động tham gia vào công việc chăm sóc chủ nhà hay trông nom tài sản của chủ nhà để nhận thù lao” (Điều 4), [4, tr. 78]. 9
- Còn theo Luật lao động của Brunei (2002) “Người GVGĐ là bất kỳ người nào dọn dẹp nhà cửa, chuồng trại hoặc làm vườn hoặc lái xe hoặc liên quan đến các công việc của bất kỳ nhà ở, nhà ăn, câu lạc bộ hoặc tổ chức nhà nước hoặc tư nhân” (Điều 2) [4, tr.78]. Với định nghĩa này ta thấy: cách tiếp cận chính sách và pháp luật của Brunei khác với cách tiếp cận chính sách và pháp luật của Campuchia. Nếu như Luật lao động của Camphuchia quy định phạm vi làm việc của lao động GVGĐ chỉ giới hạn trong hộ gia đình thì Luật lao động của Brunei quy định nơi làm việc của lao động GVGĐ không chỉ trong hộ gia đình mà còn ở cả nhà ăn, câu lạc bộ hoặc các tổ chức tư nhân hay nhà nước. Tại Việt Nam, nghề giúp việc tại các gia đình xuất hiện từ thời kỳ phong kiến. Trước đây, vào khoảng năm 1401, trong cải cách chế độ của Hồ Quý Ly có một quy định đó là hạn chế số lượng gia nô trong nhà quan. Gia nô là kẻ làm các công việc từ đồng áng đến việc nhà và gần như không có quyền tự do. Khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, đô thị này xuất hiện nghề giúp việc cho các gia đình người Pháp và cả những gia đình người Việt ở tầng lớp trung lưu, từ đó xuất hiện những cái tên "anh xe", "con sen", "u già"...Thương mại phát triển, nhiều người Việt trở nên giàu có và họ cũng có nhu cầu thuê người giúp việc, thế nên đầu thế kỷ XX, số người giúp việc tăng lên đáng kể, nhiều gia đình mua xe tay và nuôi anh xe khỏe mạnh trong nhà để đưa ông chủ, bà chủ đi chơi, công việc, đưa con cái họ đi học... Cũng như con sen, chị khâu, u già... họ ở dãy nhà ngang của gia chủ và được trả lương theo tháng. Đến thời kỳ đổi mới thì quan niệm về người giúp việc không còn nặng nề như thời bao cấp. Các gia đình có điều kiện nhưng neo người đã thuê người ở nông thôn giúp việc cho gia đình. Như vậy cho thấy LĐGVGĐ đã thực sự tồn tại trong xã hội Việt Nam từ rất lâu nhưng phải đến Bộ luật Lao động năm 1994 mới đề cập chính thức tới thuật ngữ giúp việc gia đình, tại Điều 2 quy định: “Bộ 10
- luật này cũng được áp dụng đối với người học nghề, người giúp việc gia đình và một số loại lao động khác được quy định tại Bộ Luật này và có những tính chất đặc thù của loại hình lao động này tại các điều 28, điều 139 BLLĐ” [24]. Mặc dù có đề cập đến lao động giúp việc nhưng còn rất chung chung, không có hướng dẫn cụ thể và chế tài đi kèm, do đó Bộ luật Lao động năm 2012 đã ra đời. Lần đầu tiên giúp việc gia đình được công nhận là một nghề và được luật hóa, đây được đánh giá là bước tiến dài khi thông qua việc dành một mục riêng (Mục 5 của Chương XI) gồm 5 điều (từ điều 179 đến điều 183) để điều chỉnh đối với LĐGVGĐ. Trong năm 2014, các quy định về lao động giúp việc cũng ngày càng cụ thể hơn với Nghị định số 27/2014/NĐ-CP và Thông Tư số 19/2014/TT-BLĐTBXH. Các quy định của các văn bản pháp luật này đã nâng cao vị thế của lao động giúp việc trên thị trường lao động và làm nhiều người trong xã hội có cái nhìn khác về những người hành nghề giúp việc. Theo qui định tại Điều 179, Bộ luật Lao động 2012 và tại Điều 3 nghị định số 27/2014/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động là giúp việc gia đình, lao động là người GVGĐ được xác định là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình (là các công việc trong hợp đồng lao động được lặp đi lặp lại theo một khoảng thời gian nhất định (hằng giờ, hằng ngày, hằng tuần hoặc hằng tháng) của một hoặc nhiều hộ gia đình. Các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại. Trong đó, bao gồm người lao động sống tại gia đình người sử dụng lao động và người lao động không sống tại gia đình người sử dụng lao động [24]. Điều luật đã nêu rõ các công việc trong gia đình phải “không liên quan 11
- đến hoạt động thương mại” và “người làm công việc giúp việc gia đình theo hình thức khoán việc thì không thuộc đối tượng áp dụng của Bộ Luật”. Nhìn chung, quan niệm của Việt Nam về lao động giúp việc gia đình có cùng xu hướng với các nước trên thế giới. Các quốc gia khác nhau có cách định nghĩa lao động GVGĐ có thể giống hoặc không giống nhau nhưng tựu chung lại, định nghĩa đều đề cập đến 04 dấu hiệu đặc trưng liên quan đến lao động GVGĐ: Thứ nhất, phạm vi làm việc, đây là một tiêu chí cơ bản của công việc LĐGVGĐ. Hầu hết các nước quy định phạm vi làm việc được thực hiện trong: “Hộ gia đình”. Tuy nhiên có một số quốc gia thì quy định không chỉ trong hộ gia đình. Ví dụ: Brunei; Tây Ban Nha. Thứ hai, đó là LĐGVGĐ là loại hoạt động không liên quan đến hoạt động thương mại. Ở Argentina (Nghị định No. 7.979/56) và Malaysia, pháp luật liên quan loại trừ các hình thức lao động gắn với kinh doanh thương mại hoặc chuyên môn được một người sử dụng lao động thực hiện tại nhà của mình ra khỏi phạm vi của LĐGVGĐ. Brazin loại trừ công việc được thực hiện vì mục đích phi lợi nhuận (Điều 1 của Đạo luật No. 5859 ngày 11 tháng 12 năm 1972). Ở điều 161 Bộ luật lao động của Guatemala đã loại những công việc đem lại lợi nhuận hoặc vì mục đích kinh doanh của người sử dụng lao động ra khỏi định nghĩa LĐGVGĐ [30]. Tuy nhiên ở Uruguay (Đạo luật số 18.065) liên quan đến những tiêu chuẩn về lao động GVGĐ lại tập trung vào các nhiệm vụ dẫn đến “lợi ích kinh tế trực tiếp” của người lao động GVGĐ. Như vậy cho thấy việc đòi hỏi những kỹ năng của người lao động GVGĐ phải được đào tạo và có thể đem lại lợi ích vật chất cho gia đình và cho cả nền kinh tế ở phạm vi rộng hơn. Pháp, Thụy sĩ cũng có cách tiếp cận như vậy. Thứ ba, về công việc của người lao động GVGĐ. Chủ yếu các quốc gia 12
- quy định công việc của lao động GVGĐ liên quan đến hai lĩnh vực quan trọng là chăm sóc gia đình và công việc gia đình. Một số nước có quy định thêm cả bảo vệ, lái xe, người làm vườn là lao động GVGĐ (Tây Ban Nha, Nam phi…). Thứ tư, là về tính chất thường xuyên của công việc. Hầu hết các quốc gia quy định người lao động GVGĐ phải thực hiện công việc một cách thường xuyên nghĩa là lặp đi lặp lại theo một khoảng thời gian nhất định (hằng giờ, hằng ngày, hằng tuần hoặc hằng tháng) của một hoặc nhiều hộ gia đình (ví dụ như tại Việt nam). Như vậy, lao động GVGĐ là người lao động làm các công việc trong một hoặc nhiều hộ gia đình từ chăm sóc gia đình và công việc gia đình một cách thường xuyên, họ không phải là thành viên trong hộ gia đình sử dụng người lao động, là người được thuê và được trả công trên cơ sơ thỏa thuận để đáp ứng như cầu của người sử dụng lao động. 1.1.2. Đặc điểm của lao động giúp việc gia đình Lao động GVGĐ cũng mang đầy đủ các yếu tố về năng lực pháp lý và năng lực hành vi như các đối tượng lao động khác. Tuy nhiên do loại hình lao động này có tính đặc thù riêng nên bên cạnh những đặc điểm chung của lao động làm thuê, lao động GVGĐ còn có những đặc điểm đặc trưng riêng: Thứ nhất, Lao động GVGĐ chủ yếu người lao động là nữ giới, có trình độ học vấn thấp, có xuất thân từ các vùng nông thôn, có hoàn cảnh đặc biệt, độ tuổi tầm trung niên là phổ biến. - Về giới tính: Ở Việt Nam, chưa có một thống kê quy mô toàn quốc về tỷ lệ tham gia GVGĐ nhưng các nghiên cứu thường chỉ đề cập đến hai đối tượng chính là trẻ em và phụ nữ. Lao động giúp việc gia đình là lĩnh vực có sự tham gia của lao động chưa thành niên, trong đó cũng chủ yếu là nữ giới. Theo kết quả nghiên cứu của ILO và GFCD cho biết: (98,7%) NGV là phụ nữ. Điều này phù hợp với 13
- lý thuyết phân công lao động theo giới cũng như quan niệm của nhiều người hiện nay trong xã hội vẫn coi công việc nội trợ là công việc của phụ nữ. - Về độ tuổi: Nhận thấy rằng, lao động GVGĐ có ở tất cả các nhóm tuổi từ 15 đến 60 tuổi, tuy nhiên tập trung yếu ở độ tuổi trung niên (36-55 tuổi), đặc biệt từ 40 tuổi trở đi Theo kết quả điều tra của IFGS 2011, có 61,5% người lao động GVGĐ ở độ tuổi 36-55, 23,8% người lao động ở độ tuổi 35 trở xuống. Bởi lẽ ở độ tuổi này phần lớn họ đã có con cái lớn và đến tuổi lao động, do đó họ có điều kiện thoát ly gia đình để đi làm xa, hơn nữa, nhiều gia đình cũng thích thuê những lao động ở độ tuổi này vì họ có thể ở lại với gia đình lâu hơn và có kinh nghiệm làm việc gia đình cũng như chăm sóc các thành viên trong gia đình tốt hơn. Bên cạnh đó, có một bộ phận là những người ở ngoài độ tuổi lao động (trên 55 tuổi) tham gia vào thị trường lao động này, theo nghiên cứu có khoảng 14,8% người lao động ở độ tuổi 56 trở lên nhưng NLĐ ở độ tuổi này thường không được “ưa chuộng” vì nhóm phụ nữ này thường yếu, nắm bắt công việc chậm không làm được công việc nặng nên nhiều hộ gia đình có tâm lý ngại thuê người già vì hay đau ốm và bất tiện khi để người già chăm sóc, phục vụ gia đình. Chỉ có khoảng 3% ở độ tuổi 16-18, sở dĩ số lao động này còn khiêm tốn bởi ở độ tuổi này ở nông thôn đa phần các em gái thường không còn đi học, nên khi gia đình khó khăn thì để có thêm thu nhập thì các em tranh thủ ra thủ đô làm thêm nghề GVGĐ, đối tượng này có có hội tham gia loại hình lao động bởi dễ bảo, học việc nhanh và có thể chơi và trông em nhỏ, tuy nhiên nhóm này thường trở lại quê nhà lập gia đình hoặc có mong muốn tìm kiếm một công việc khác khi đến 19-20 tuổi nên tâm lý nhiều gia chủ không muốn thuê đối tượng này vì tính ổn định thấp và dễ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp vì chưa đến tuổi trưởng thành như trộm cắp, dễ bị kẻ xấu lợi dụng xúi giục, quan hệ bất chính với chủ nhà… 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn