Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế ở nước ta hiện nay
lượt xem 4
download
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện quản lý nhà nƣớc về hải quan bằng pháp luật, tìm hiểu thực trạng các quy định của pháp luật về hải quan, từ đó đánh giá tình hình áp dụng pháp luật về hải quan trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của Hải quan, kiến nghị những giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hệ thống pháp luật về hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế, thực hiện các điều ƣớc quốc tế, các cam kết mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế ở nước ta hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------------------------ NGUYỄN NGỌC SƠN PHÁP LUẬT VỀ HẢI QUAN TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LUẬT HÀ NỘI – 2002
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---------------------------- NGUYỄN NGỌC SƠN PHÁP LUẬT VỀ HẢI QUAN TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 50515 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LUẬT Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN AM HIỂU HÀ NỘI - 2002
- Môc lôc Trang Lêi më ®Çu 1 Ch-¬ng 1/ Mét sè vÊn ®Ò chung vÒ h¶i quan vµ ph¸p luËt vÒ h¶i 8 quan 1.1/ S¬ l-îc sù ra ®êi cña H¶i quan vµ b¶n chÊt cña H¶i quan 8 1.2/ Chøc n¨ng, nhiÖm vô cña H¶i quan ViÖt Nam 13 1.2.1/ KiÓm tra, gi¸m s¸t h¶i quan 15 1.2.2/ Thu thuÕ xuÊt khÈu, thuÕ nhËp khÈu vµ thùc hiÖn chÝnh s¸ch 17 thu trong lÜnh vùc h¶i quan 1.2.3/ §iÒu tra, xö lý vi ph¹m ph¸p luËt h¶i quan; phßng chèng bu«n 20 lËu, gian lËn th-¬ng m¹i, vËn chuyÓn tr¸i phÐp hµng ho¸ qua biªn giíi 1.2.4/ Thèng kª Nhµ n-íc vÒ h¶i quan 21 1.3/ Sù h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn cña ph¸p luËt vÒ h¶i quan ë n-íc ta 21 1.3.1/ Tr-íc n¨m 1945 21 1.3.2/ Tõ n¨m 1945 ®Õn nay 23 Ch-¬ng 2/ Thùc tr¹ng ph¸p luËt H¶i quan ViÖt Nam 30 30 2.1/ §Þa bµn ho¹t ®éng cña H¶i quan ViÖt Nam 31 2.2/ KiÓm tra, gi¸m s¸t h¶i quan 31 2.2.1/ KiÓm tra, gi¸m s¸t h¶i quan theo ph¸p luËt ViÖt Nam 42 2.2.2/ KiÓm tra, gi¸m s¸t h¶i quan theo ph¸p luËt quèc tÕ
- 2.2.3/ KiÓm tra, gi¸m s¸t h¶i quan ®èi víi ho¹t ®éng xuÊt khÈu, nhËp 45 khÈu 2.2.3.1/ VÒ c¬ chÕ, chÝnh s¸ch xuÊt khÈu, nhËp khÈu 45 2.2.3.2/ KiÓm tra, gi¸m s¸t h¶i quan ®èi víi hµng ho¸ xuÊt khÈu, 49 nhËp khÈu 2.3/ Thu thuÕ xuÊt khÈu, thuÕ nhËp khÈu vµ thu kh¸c 54 2.4/ §iÒu tra, xö lý c¸c hµnh vi vi ph¹m ph¸p luËt h¶i quan; xö ph¹t 61 vi ph¹m hµnh chÝnh vµ ®iÒu tra h×nh sù cña H¶i quan Ch-¬ng 3/ Nh÷ng yªu cÇu cña héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ vµ mét 72 sè gi¶i ph¸p nh»m hoµn thiÖn ph¸p luËt vÒ h¶i quan 3.1/ Héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ vµ nh÷ng t¸c ®éng ®Õn ho¹t ®éng H¶i 72 quan 3.1.1/ Héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ 72 3.1.2/ Nh÷ng yªu cÇu cña héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ t¸c ®éng ®Õn ho¹t 77 ®éng H¶i quan 3.2/ Ph-¬ng h-íng vµ gi¶i ph¸p 82 3.2.1/ ChÝnh s¸ch th-¬ng m¹i hµng ho¸ vµ hµng rµo phi thuÕ quan 83 3.2.2/ KiÓm tra, gi¸m s¸t h¶i quan 86 3.2.3/ VÒ lÜnh vùc thuÕ quan 93 3.3.4/ N©ng cao thÈm quyÒn ®iÒu tra cña H¶i quan 95 KÕt luËn 98 Danh môc tµi liªu tham kh¶o 102
- LỜI MỞ ĐẦU 1/ Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trƣơng nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức tài chính quốc tế nhƣ WB, IMF, ADB... và trở thành thành viên chính thức của ASEAN năm 1995, APEC năm 1998; đang đàm phán gia nhập WTO, đã ký hiệp định khung với EU, đặc biệt Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001 đã đánh một dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nƣớc ta. Bên cạnh những mặt tích cực mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến nƣớc ta nhƣ việc mở rộng thị trƣờng, tăng khả năng thu hút các nguồn vốn, tạo điều kiện tiếp nhận công nghệ mới có hiệu quả hơn..., thì những yêu cầu, thách thức mới và những tác động tiêu cực ở mặt nào đó, đòi hỏi phải đƣợc giải quyết sao cho thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo hộ sản xuất trong nƣớc; bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nƣớc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; giữ vững chủ quyền quốc gia. Pháp luật hải quan Việt Nam đã góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới của đất nƣớc; đóng góp tích cực vào việc hoàn thiện pháp luật kinh tế nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Càng có ý nghĩa hơn khi Luật Hải quan, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất quy định về Hải quan, đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2002. Luật Hải quan ra đời đã giải quyết nhiều yêu cầu cấp bách, đã cơ bản tạo ra khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội liên quan đến hoạt động hải quan, tác động tích cực đến hoạt động kinh tế đối ngoại, sản 1
- xuất và lƣu thông, thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, góp phần giữ vững ổn định chính trị trong điều kiện hội nhập, phát triển nhanh về kinh tế những năm đầu thập kỷ của thế kỷ 21. Tuy nhiên vấn đề đặt ra lúc này là làm thế nào để pháp luật hải quan nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát huy đƣợc hiệu quả quản lý. Muốn vậy vấn đề hết sức quan trọng là làm sao các quy định của pháp luật hải quan phải đƣợc nghiên cứu, tìm hiểu và xem xét một cách hệ thống để nhận thức đƣợc rõ ràng, rộng rãi. Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế luôn đặt ra những vấn đề mới, đòi hỏi một số lĩnh cụ thể của pháp luật phải thích nghi, trong đó, đặc biệt là vấn đề thuế quan và hàng rào hải quan. Vì vậy nghiên cứu “Pháp luật về hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế ở nước ta hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của thực tế đời sống kinh tế - xã hội trƣớc yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của đất nƣớc ta. 2/ Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về pháp luật hải quan Việt Nam nói chung và pháp luật hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế nói riêng, cho đến nay vẫn là điều khá mới mẻ và chƣa thu hút đƣợc nhiều sự chú ý của đông đảo các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, các luật gia... Nguyên nhân của tình trạng trên là do, mặc dù Hải quan đƣợc thành lập từ rất sớm 10/9/1945, nhƣng trong công cuộc bảo vệ tổ quốc, tiến hành và hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, hoạt động của Hải quan thực tế còn rất hạn chế. Sau năm 1975, do chính sách Nhà nƣớc độc quyền ngoại thƣơng, quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hoá đƣợc thực hiện chủ yếu trong Khối SEV. Do vậy, hoạt động của Hải quan vẫn còn hạn chế ở 2
- phạm vi, mức độ nhất định. Với chủ trƣơng đổi mới, mở cửa của Đảng cộng sản Việt Nam, từ năm 1986 nền kinh tế nƣớc ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nƣớc; thì hoạt động của Hải quan ngày càng trở nên cần thiết với yêu cầu về phạm vi, địa bàn hoạt động rõ ràng, thực quyền, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và tình hình nhiệm vụ trong thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập kinh tế và phát triển đất nƣớc. Trƣớc yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, đã có những bài viết, bài tham luận có liên quan và một số công trình khoa học, luận án, đề tài nghiên cứu về Hải quan và pháp luật về hải quan, có thể kể đến nhƣ: “Tham gia quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam về phƣơng diện pháp lý” (T.S Hà Hùng Cƣờng, tham luận tại hội thảo “Những thách thức về phƣơng diện pháp lý trƣớc quá trình toàn cầu hoá” tháng 10/2000, Nhà Pháp luật Việt-Pháp). “Mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế xã hội trong thập niên đầu của thế kỷ 21 và nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam” (T.S Uông Chu Lƣu, tham luận tại toạ đàm về “Các mục tiêu chiến lƣợc về phát triển kinh tế xã hội tác động đến nhu cầu phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam” tháng 6/2001 tại Hà Nội). “Tìm hiểu pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá và đại diện thƣơng mại” (TS Nguyễn Am Hiểu, NXB Đà Nẵng, 2000). “Pháp luật Thƣơng mại Việt Nam trƣớc thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” (TS Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 6/2000). 3
- “Sự cần thiết phải triển khai khai thuê Hải quan” (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành của Cục Giám sát quản lý- Tổng cục Hải quan, mã số 03- N98, năm 1998). “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế kiểm tra sau giải phóng hàng hoá nhập khẩu” (Đề tài nghiên cứu cấp ngành của Cục kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu- Tổng cục Hải quan, mã số 02 - N99, năm 1999). “Nghiên cứu các nội dung cơ bản của thủ tục hải quan qua việc rà soát, hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật hải quan và xuất nhập khẩu” (Đề tài nghiên cứu cấp ngành của Cục Giám sát quản lý - Tổng cục Hải quan, mã số 05 - N 2000, năm 2000) “Nghiên cứu xác định lộ trình tiến tới thực hiện Hiệp định trị giá hải quan GATT/WTO và các giải pháp thực thi” (Đề tài nghiên cứu cấp ngành của Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu- Tổng cục Hải quan, mã số 08 - N2000, năm 2000) Tuy nhiên, các bài viết, các đề tài trên đây chỉ mới đề cập đến từng lĩnh vực cụ thể mang tính đơn lẻ, nêu vấn đề hoặc giải quyết những công việc cụ thể. Chƣa có một công trình khoa học vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn nghiên cứu tổng thể về pháp luật hải quan Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 3/ Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện quản lý nhà nƣớc về hải quan bằng pháp luật, tìm hiểu thực trạng các quy định của pháp luật về hải quan, từ đó đánh giá tình hình áp dụng pháp luật về hải quan trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của Hải quan, kiến nghị những giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hệ thống pháp luật 4
- về hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế, thực hiện các điều ƣớc quốc tế, các cam kết mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Nhằm thực hiện mục đích trên, nhiêm vụ của luận văn là: . Nghiên cứu quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nƣớc trong việc xây dựng pháp luật về hải quan. . Nghiên cứu thực trạng pháp luật hải quan trong thời kỳ mở cửa và hội nhập kinh tế, trên cơ sở so sánh với các thời kỳ trƣớc. . Trên cơ sở tham khảo pháp luật hải quan cũng nhƣ kinh nghiệm quản lý về hải quan của một số nƣớc trong khu vực và trên thế giới; đảm bảo lộ trình cắt giảm thuế quan theo chƣơng trình CEPT/AFTA, APEC, thực hiện trị giá hải quan GATT/WTO, Công ƣớc HS về hệ thống điều hoà mô tả và mã hoá hàng hoá, trên cơ sở tham gia có bảo lƣu Công ƣớc KYOTO về hài hoà và đơn giản hoá thủ tục hải quan. Luận văn còn có nhiệm vụ đánh giá việc thực hiện pháp luật hải quan trong tình hình hiện nay, từ đó đóng góp một số giải pháp cụ thể nhằm thực thi một cách hữu hiệu Luật Hải quan, cũng nhƣ hoàn thiện pháp luật hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 4/ Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Hoạt động hải quan là một loại hoạt động quản lý của Nhà nƣớc, sử dụng các biện pháp mang tính chất quan thuế hay phi quan thuế; nhằm kiểm tra, kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phƣơng tiện vận tải, hành khách xuất cảnh, nhập cảnh; thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thu khác liên quan đến hoạt động hải quan; phòng chống buôn lậu, gian lận thƣơng mại và vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Hiểu theo nghĩa rộng, pháp luật về hải quan là tổng thể các quy phạm pháp luật, điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc về 5
- hải quan, tức là điều chỉnh hoạt động của cơ quan hải quan, cơ quan quản lý nhà nƣớc và của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động hải quan. Đó là một lĩnh vực rất rộng liên quan tới nhiều lĩnh vực pháp luật. Tuy nhiên, theo nghĩa hẹp, pháp luật về hải quan có thể hiểu là những quy định về Hải quan, đó là một lĩnh vực hoạt động, và đó còn là một chế định pháp lý về quản lý nhà nƣớc về hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phƣơng tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nƣớc; về tổ chức và hoạt động của cơ quan hải quan. Đề tài tập trung nghiên cứu pháp luật về hải quan theo nghĩa hẹp này. 5/ Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đƣờng lối của Đảng về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp hệ thống, điều tra, phân tích, tổng hợp, so sánh để làm rõ các luận điểm. 6/ Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống các quan điểm lý luận cũng nhƣ thực tiễn về pháp luật hải quan. Luận văn đề cập và phân tích những yêu cầu và lộ trình hội nhập kinh tế của nƣớc ta, đồng thời góp phần giải quyết nhiệm vụ xây dựng, thực thi, hoàn thiện pháp luật hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 6
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật hải quan; nêu và phân tích để làm rõ những điểm mới, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội cũng nhƣ yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, và các vấn đề còn tồn tại, bất cập cùng một số đề xuất, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hải quan. Luận văn còn phân tích và kiến nghị những vấn đề mang tính cấp thiết mà Hiệp định thƣơng mại Việt Nam- Hoa Kỳ và quá trình đàm phán ra nhập WTO, cũng nhƣ các cam kết, thoả thuận mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia đã đề cập, nhƣ việc thực hiện trị giá hải quan GATT/WTO, thực hiện CEPT/AFTA, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, vấn đề xác định xuất xứ của hàng hoá nhập khẩu làm cơ sở cho việc thực hiện các ƣu đãi về thuế quan... 7/ Bố cục của luận văn Luận văn gồm: Lời mở đầu, ba chƣơng, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về hải quan và pháp luật về hải quan Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật hải quan Việt Nam Chƣơng 3: Những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hải quan 7
- CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HẢI QUAN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HẢI QUAN 1.1/ Sơ lƣợc sự ra đời của Hải quan và bản chất của Hải quan Trong các tác phẩm kinh điển, khi phân tích về nguồn gốc của nhà nƣớc, về sở hữu tƣ nhân, về sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất qua các hình thái kinh tế xã hội; Các Mác - Ăng Ghen - Lê Nin đã chỉ rõ, hoạt động hải quan xuất hiện cùng với sự xuất hiện của sản xuất hàng hoá. Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội, và sự tách biệt về kinh tế giữa ngƣời sản xuất này với ngƣời sản xuất khác, do các quan hệ sở hữu khác nhau về tƣ liệu sản xuất quy định. Do phân công lao động xã hội nên mỗi ngƣời chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm nhất định. Song, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi ngƣời cần có nhiều loại sản phẩm, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau. Do chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất, mà ngƣời chủ tƣ liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tƣ liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra; ngƣời sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của ngƣời sản xuất khác thì phải thông qua trao đổi sản phẩm lao động cho nhau dƣới hình thức mua - bán. Cùng với nền sản xuất hàng hoá, dần dần xuất hiện “Giai cấp, đã không còn tham gia sản xuất, mà chỉ làm việc trao đổi hàng hoá, đó chính là các thƣơng gia”[1,165] Sự xuất hiện của tầng lớp thƣơng gia “Đã tạo khả năng xuất hiện các quan hệ thƣơng mại vƣợt ra ngoài phạm vi của các địa bàn gần nhất, mà việc thực hiện nó phụ thuộc vào các phƣơng tiện giao thông hiện có, vào tình trạng an toàn xã hội trên các con đƣờng đƣợc đảm bảo bằng các quan hệ chính trị, 8
- vào các nhu cầu ít hay nhiều tuỳ thuộc vào mức độ phát triển tại các vùng mà các quan hệ đó có thể với tới đƣợc”. [2,52-53] Việc di chuyển của các thƣơng đoàn thƣờng không an toàn mà các di tích lịch sử của Ai Cập cổ đại (thế kỷ XVI - XII TCN) đã cho thấy bằng chứng của các vụ cƣớp bóc cũng nhƣ các khiếu nại của các thƣơng nhân. Do vậy duy trì một đội ngũ bảo vệ là một gánh nặng về kinh tế và không phải khi nào cũng có hiệu quả đối với các thƣơng nhân. Cho nên họ đã tìm một giải pháp khác thay cho chi phí để nuôi dƣỡng đội ngũ bảo vệ đắt tiền, đó là chi một loại thuế đặc biệt - tiền thân của thuế quan “Thuế hải quan phát sinh từ các khoản thu mà các lãnh chúa phong kiến thu của các thƣơng nhân đi qua lãnh địa của họ, để bằng cách đó thoát khỏi việc bị cƣớp bóc, các khoản thu này về sau cũng đƣợc thu bởi các thành phố và khi xuất hiện các nhà nƣớc hiện đại thì chúng trở thành phƣơng tiện thuận tiện nhất để thu tiền cho ngân khố” [2,57] Sự hình thành các quốc gia độc lập là điều kiện chính trị cho việc xuất hiện chính sách hải quan. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ tan rã, giai cấp chủ nô ra đời; họ tìm cách chiếm đoạt lao động của các thành viên khác trong xã hội và thúc đẩy sự phát triển của nghề thủ công, buôn bán, đẩy nhanh sự tách biệt giữa thành thị và nông thôn, “Cùng với các thành thị đã xuất hiện yêu cầu quản lý, cảnh sát, thuế khoá...” [2,50]. Để duy trì bộ máy nhà nƣớc, giới chủ nô đã thu các loại thuế và thu khác từ việc buôn bán và từ việc vận chuyển quá cảnh hàng hoá. Tại Ba Bi Lon, quốc gia trung tâm kinh tế và văn hoá của thế giới thời cổ đại, mọi hàng hoá đƣa vào đều bị kiểm tra và đều phải nộp thuế. Thời kỳ đó hoạt động hải quan phát triển nhất là ở Hy Lạp cổ đại, đó là do hoàn cảnh địa lý của đất nƣớc này không mấy thuận lợi, ngƣời dân sinh sống chủ yếu dựa vào buôn bán; họ phải nhập lúa mì từ Ai Cập và vùng Hắc Hải...; thuế hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu đƣợc quy định bằng 1/10 trị 9
- giá hàng hoá, sau này ngƣời ta nhận thấy thu thuế nhẹ hơn sẽ thúc đẩy thƣơng mại, từ đó thu lợi đƣợc nhiều hơn, do đó họ giảm dần thuế, thậm chí chỉ còn 1/100 trị giá hàng hoá; một số hàng hoá nhập khẩu nhƣ vũ khí, trang thiết bị quân sự đƣợc miễn thuế; các đồng minh của Hy Lạp đƣợc hƣởng ƣu đãi thuế quan.[96,27] Thu thuế hải quan đƣợc tiến hành tại các cảng biển, các chợ thành thị và tại các trạm thuế quan trên biên giới đƣờng bộ; thuế hải quan thƣờng đƣợc thu nộp bằng vàng hoặc bạc. ở Hy Lạp cổ đại, việc thu thuế quan đƣợc giao khoán cho những công dân nổi tiếng, hàng năm họ phải nộp cho nhà nƣớc một khoản tiền nhất định và đƣợc hƣởng phần thu vƣợt, nếu chƣa nộp đƣợc họ có thể đƣợc tạm hoãn, nếu không hoàn thành nghĩa vụ giao nộp thì có thể bị phạt tù. Vào thế kỷ XII - XIII, với xu hƣớng dần dần nới rộng quan hệ kinh tế giữa các thành phố và các công quốc. Chính sách thuế quan cũng đƣợc chuyển theo hƣớng tạo ra một hệ thống thuế quan chung trên biên giới phía ngoài của quốc gia. Tuy nhiên quá trình thống nhất hoá luật lệ hải quan ở các quốc gia diễn ra trong một thời gian dài; Anh và Scotland diễn ra vào năm 1707; Anh và Irland năm 1823; tại Pháp chế độ hải quan thống nhất vào năm 1790; nƣớc Áo hình thành chính sách hải quan chung của mình vào năm 1775-1851; ở Italia hàng rào thuế quan giữa các vùng chỉ biến mất vào năm 1859; còn nƣớc Đức quá trình thống nhất thuế quan diễn ra suốt từ năm 1842 đến 1888.[93,5] Trong thời kỳ này các quốc gia can thiệp rất tích cực vào ngoại thƣơng, đặt ra các luật lệ thúc đẩy việc tích luỹ tiền tệ cho ngân khố, nhƣ việc đƣa ra các quy định hàng hoá chỉ đƣợc đi qua những địa điểm nhất định, để tiện cho việc kiểm soát và thu thuế quan. Nói chung, luật lệ hải quan thời kỳ này chỉ đơn thuần mang tính chất tài chính và tính chất thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu cũng giống nhƣ hàng 10
- hoá xuất khẩu. Nhƣ ở Pháp, luật thuế quan năm 1664 có tới 700 điều quy định việc nhập khẩu hàng hoá và 900 điều quy định đối với việc xuất khẩu hàng hoá, cho thấy luật lệ hải quan thời kỳ này đã đƣợc quy định chi tiết nhƣ thế nào. Từ cuối thế kỷ XVII, xuất hiện xu hƣớng bảo hộ giữa các quốc gia, nhiều đạo luật đã đƣợc thông qua để hạn chế nhập khẩu hàng hoá của các nƣớc khác và khuyến khích xuất khẩu hàng hoá trong nƣớc; nhƣ Luật Hàng hải Cromwel năm 1651 của Anh quy định về việc hàng hoá nhập vào Anh, nếu chở bằng tàu của nƣớc khác sẽ bị đánh thuế gấp đôi so với chở bằng tàu nƣớc Anh. Các quốc gia châu Âu cũng ban hành các luật lệ bảo hộ không chỉ thƣơng mại mà còn sản xuất nữa. Về vấn đề này Mác và Ăng ghen đã viết: “ Cùng với sự xuất hiện của các công xƣởng, các dân tộc khác nhau đã bắt đầu cạnh tranh với nhau, tiến hành các cuộc đấu tranh thƣơng mại, với sự giúp đỡ của các cuộc chiến tranh, các loại thuế bảo hộ và các hệ thống cấm đoán, trong khi đó trƣớc kia các dân tộc đó do quan hệ với nhau nên đã tiến hành việc trao đổi một cách hoà bình. Từ nay thƣơng mại đã mang tính chất chính trị” [2,56] Năm 1650, nƣớc Anh ban hành luật cấm ngƣời nƣớc ngoài buôn bán tại các nƣớc thuộc địa của Anh nếu không đƣọc chính phủ Anh cho phép. Nƣớc Pháp, vào các năm từ 1815 đã ban hành các luật lệ bảo hộ, phải đến những năm 60 của thế kỷ đó mới chuyển sang hƣớng tự do hoá thƣơng mại. Tại nƣớc Đức, mƣời tám công quốc do nƣớc Phổ đứng đầu đã thành lập liên minh thuế quan, bỏ hết các hàng rào thuế quan trong nội địa, tạo nên một thị trƣờng thống nhất. Nói tóm lại, hoạt động hải quan đã xuất hiện từ lâu đời, từ khi có sự phân công lao động và sản xuất hàng hoá, hoạt động hải quan gắn liền với sự xuất hiện nhu cầu trao đổi hàng hoá. Để bảo vệ lợi ích của mình, mỗi cộng 11
- đồng đã tự quy định những biện pháp có lợi nhất cho mình trong việc kiểm soát trao đổi hàng hoá để bảo vệ sản xuất, đồng thời thu được lợi nhiều nhất trong quan hệ với các cộng đồng khác; đó chính là bản chất của hoạt động hải quan. Có thể nói không có trao đổi hàng hoá giữa các cộng đồng dân cƣ, ngày nay là giữa các quốc gia, thì không có hoạt động hải quan. Hiện nay, cơ quan hải quan của các nƣớc, bên cạnh các chức năng truyền thống nhƣ kiểm tra hàng hoá, thu thuế, đấu tranh chống buôn lậu..., còn có nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện các nghĩa vụ về bằng phát minh sáng chế, các luật lệ về tài chính, hạn nghạch xuất nhập khẩu...; chẳng hạn, Hải quan Hoa Kỳ có các nhiệm vụ: tính và thu thuế hải quan, các loại phí và lệ phí, các loại tiền phạt đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu; thực hiện việc kiểm tra các phƣơng tiện vận tải, kiểm tra ngƣời và hành lý nhập cảnh vào Hoa Kỳ; hợp tác với các cơ quan liên bang khác trong việc ngăn chặn vận chuyển ma tuý, dƣợc phẩm bị cấm, tranh ảnh đồi truỵ; yêu cầu cung cấp các số liệu trên cơ sở Luật về bí mật hoạt động ngân hàng; thực hiện kiểm tra việc tuân thủ một số luật lệ về các quy tắc và trật tự giao thông hàng hải; bảo đảm việc tuân thủ các quy định về bản quyền tác giả, nhãn mác thƣơng mại...; bảo vệ lợi ích ngƣời tiêu dùng qua việc theo dõi hàng hoá nhập khẩu có phù hợp hay không với các tiêu chuẩn và quy chế của luật pháp quốc gia nhƣ ô tô, các chất dễ cháy, kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật, mức độ phát xạ của các sản phẩm điện tử; Luật Hải quan Hoa kỳ còn quy định việc kiểm soát xuất khẩu mà mục tiêu là ngăn chặn việc xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao sang các nƣớc thù địch [94]. Trong những thập niên qua, các thoả thuận đơn phƣơng cũng nhƣ đa phƣơng về vấn đề hải quan đã đƣợc hình thành giữa các quốc gia, do tính chất ngày càng gia tăng của các cuộc “chiến tranh” thuế quan; các hiện tƣợng này đã dẫn đến các cố gắng điều chỉnh quan hệ hải quan ở tầm quốc tế. Việc thành 12
- [95,43-58] lập Hội đồng hợp tác Hải quan ngày 15 tháng 12 năm 1950 ; ký thoả thuận GATT, các vòng đàm phán Uruguay..., đều nằm trong cố gắng của các quốc gia trong việc điều chỉnh chính sách hải quan, nhằm tạo ra một môi trƣờng quốc tế thuận lợi nhất cho việc phát triển kinh tế. Hiện nay, trên thế giới, tuỳ theo ngôn ngữ của từng quốc gia mà Hải quan mang những tên gọi khác nhau, nhƣng phổ biến là Customs (tiếng Anh), Douane (tiếng Pháp), Tamojnia (tiếng Nga)…; Hải quan ở các nƣớc khác nhau cũng có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội và vị trí, vai trò của nhà nƣớc trong từng thời kỳ; nhƣng nói chung, Hải quan là một cơ quan Nhà nƣớc có những chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau: . Kiểm tra, giám sát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; hành khách và phƣơng tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh theo đúng pháp luật. . Thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các sắc thuế, khoản thu khác theo quy định của pháp luật; thực hiện chính sách thuế quan của Nhà nƣớc theo nhiệm vụ thẩm quyền đƣợc giao. . Chống buôn lậu và các hành vi vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hải quan khác. . Thực hiện thống kê Nhà nƣớc về hải quan. 1.2/ Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam Chức năng, nhiệm vụ truyền thống của Hải quan là bảo vệ không gian kinh tế của quốc gia. Mục tiêu tổng quát của chức năng, nhiệm vụ này là đảm bảo việc bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nƣớc. Chức năng của Hải quan trong xã hội thể hiện qua những mục tiêu mà Hải quan nhằm đạt đƣợc thông qua các hoạt động của mình. Những mục tiêu này thay đổi tuỳ theo hình thái ý thức xã hội và mô hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá, Nhà nƣớc độc quyền ngoại thƣơng, 13
- vai trò của Hải quan đã giảm tới mức tối thiểu; Hải quan không tham gia vào việc thực hiện các chế độ thuế xuất, nhập khẩu vì một lẽ đơn giản là các loại thuế này hầu nhƣ không tồn tại. Vì việc buôn bán ngoại thƣơng, trao đổi hàng hoá đƣợc thực hiện qua các nghị định thƣ. Sau khi tham gia Hội đồng tƣơng trợ kinh tế các nƣớc Xã hội chủ nghĩa, tháng 6 năm 1978. Nhà nƣớc đã áp dụng một số đặc điểm của hệ thống này trong quan hệ buôn bán, nhƣ kế hoạch hoá tập trung trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu, quyết định giá cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu bằng biện pháp hành chính, đồng tiền trong thanh toán ngoại thƣơng là đồng tiền không chuyển đổi đƣợc (rúp/đôla), ngân hàng thanh toán giữa các nƣớc trong khối là ngân hàng hợp tác kinh tế; vai trò của thuế quan không đáng kể vì nó chỉ đƣợc đánh vào hàng nhập khẩu phi mậu dịch, chủ yếu là hàng hoá do ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài gửi về cho thân nhân, hoặc do khách du lịch đƣa vào. Hàng hoá xuất, nhập khẩu mậu dịch đƣợc điều tiết bằng hạn ngạch, và phân bổ cho các công ty chuyên doanh của nhà nƣớc, do Trung ƣơng quản lý; một số ít hạn ngạch với số lƣợng không đáng kể, kim ngạch nhỏ đƣợc dành cho các công ty do địa phƣơng quản lý. Tất cảc hàng hoá xuất, nhập khẩu vƣợt quá hạn ngạch hoặc không nằm trong khuôn khổ các nghị định thƣ, thì phải có giấy phép của cơ quan quản lý thƣơng mại. Ngày nay, các mục tiêu tổng quát của việc quản lý nhà nƣớc về hải quan đang đƣợc nhận thức trong bối cảnh chung của quá trình phân công lao động quốc tế đang ngày càng trở nên sâu sắc, của việc hình thành và củng cố các khối kinh tế ở khắp các khu vực địa lý trên thế giới, và của các quyền lợi cũng nhƣ các nghĩa vụ mà mỗi quốc gia - thành viên của Tổ chức Thƣơng mại thế giới phải tuân thủ. Các biện pháp bảo hộ, các biểu thuế quan…, của mỗi quốc gia, thành viên một tổ chức kinh tế nào đó, chủ yếu chỉ đƣợc áp dụng đối với hàng hoá đi từ các nƣớc không phải quốc gia thành viên. Tuy nhiên 14
- vẫn có rất nhiều lĩnh vực mà các mục tiêu của pháp luật về hải quan hoàn toàn mang tính chất quốc gia, nhƣ các lĩnh vực kiểm soát các quan hệ tài chính với bên ngoài, hay các lĩnh vực thuộc về kiểm tra, kiểm soát qua biên giới mang tính chất vệ sinh dịch tễ, kiểm dịch động thực vật… Bên cạnh những chức năng, nhiệm vụ nhƣ đã trình bày trên, khi nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Hải quan có thêm những chức năng, nhiệm vụ mới, có thể đƣợc cụ thể hoá thành các nội dung chính nhƣ sau: . Tiến hành công tác kiểm tra, giám sát về hải quan. Thi hành và bắt buộc thi hành các biện pháp liên quan đến việc kiểm soát hoạt động ngoại thƣơng, kiểm soát ngoại hối. . Thi hành và giám sát việc thi hành các quy chế khác nhau liên quan đến việc kiểm dịch động, thực vật; vệ sinh dịch tễ; an ninh, trật tự an toàn xã hội. . Thông qua việc thực hiện các chế độ thuế quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Hải quan tác động lên giá cả của các sản phẩm nhập khẩu, qua đó điều tiết tiêu dùng xã hội cũng nhƣ đầu tƣ sản xuất. . Thi hành các biện pháp điều tra nhằm chống buôn lậu, gian lận thƣơng mại, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, bảo vệ lợi ích ngƣời tiêu dùng. . Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển Hải quan Việt Nam. Tổ chức đào tạo, xây dựng lực lƣợng hải quan. . Thực hiện thống kê Nhà nƣớc, hợp tác quốc tế về hải quan. Chức năng cụ thể của Hải quan Việt Nam đƣợc thể hiện chủ yếu ở những mặt sau: 1.2.1/ Kiểm tra, giám sát hải quan 15
- a/ Kiểm soát hoạt động ngoại thƣơng. Kiểm soát hạn ngạch Việc bảo vệ sản xuất trong nƣớc, ngoài các biện pháp khác, còn đƣợc thực hiện thông qua các biện pháp kiểm soát số lƣợng đối với sản phẩm đƣợc phép nhập khẩu vào thị trƣờng nội địa, hoặc đối với một số ngành hàng xuất khẩu vào những thị trƣờng có hạn chế nhập khẩu. Tất cả các biện pháp kiểm soát về số lƣợng này đều nằm trong các biện pháp kiểm tra, giám sát hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh hay quá cảnh. Đối với hàng hoá nhập khẩu, các biện pháp hạn chế về số lƣợng, kết hợp với các biện pháp mang tính chất quan thuế, chủ yếu là nhằm bảo vệ sản xuất trong nƣớc và hƣớng dẫn tiêu dùng. Đối với lĩnh vực xuất khẩu, các biện pháp này nếu đƣợc áp dụng chủ yếu là do sự hạn chế từ nƣớc nhập khẩu hoặc là do mục đích khác trong quan hệ quốc gia. Nói chung, áp dụng hạn ngạch đối với hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu, chính là việc định ra số lƣợng tối đa hàng hoá có thể đƣợc phép nhập khẩu hay xuất khẩu trong một khoảng thời gian nhất định. Khi áp dụng hạn ngạch đối với hoạt động xuất nhập khẩu, Hải quan có nghĩa vụ giám sát, theo dõi để các loại hàng hoá thuộc chế độ hạn ngạch khi nhập vào hoặc xuất ra khỏi biên giới, ngoài các chứng từ thủ tục khác phải thực hiện, phải đáp ứng yêu cầu có giấy phép của cơ quan chức năng. Bên cạnh đó Hải quan vẫn thực hiện các chính sách thuế quan, vì việc có giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu, không đồng nghĩa với việc đƣợc miễn thuế xuất khẩu hay nhập khẩu. Kiểm soát thực hiện các biện pháp cấm Biện pháp cấm là việc không cho xuất ra hay nhập vào lãnh thổ quốc gia một số loại hàng hoá nào đó. Các biện pháp cấm có thể gồm: Cấm mang tính chất vệ sinh môi trƣờng, nhƣ một số loại dƣợc phẩm hoá chất độc, các 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 348 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn