Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về nguồn hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí ở Việt Nam
lượt xem 5
download
Mục đích của luận văn là nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật quy định về nguồn hình thành và sử dụng quỹ hưu trí ở Việt Nam. Phân tích về tình hình thực hiện chế độ hưu trí hiện hành, phát hiện những vấn đề bất cập trong các quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về nguồn hình thành và sử dụng quỹ hưu trí ở nước ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về nguồn hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT --------------------- TRẦN THỊ THUÝ NGA PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN HÌNH THÀNH VÀ SỬ DỤNG QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: Luật Kinh tế MÃ SỐ : 6.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HOC: TS. Nguyễn Huy Ban Hà Nội, 2004 42
- MỤC LỤC MỤC LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 4 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ 7 1.1- KHÁI NIỆM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 7 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển bảo hiểm xã hội 7 1.1.2. Những vấn đề cơ bản của bảo hiểm xã hội 11 1.1.3. Các loại hình thực hiện bảo hiểm xã hội 18 1.2- CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG HỆ THỐNG CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI. 19 1.2.1. Khái niệm về chế độ hƣu trí. 19 1.2.2. Phân biệt chế độ hƣu trí trong bảo hiểm xã hội với chế độ hƣu trí thƣơng mại 25 1.2.3. Các yếu tố cơ bản để xây dựng chế độ hƣu trí. 25 1.3- NGUỒN HÌNH THÀNH QUỸ HƢU TRÍ VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP XÂY DỰNG QUỸ HƢU TRÍ 32 1.3.1. Nguồn hình thành quỹ hƣu trí của các nƣớc trên thế 32 giới. 1.3.2. Một số cơ chế tài chính và phƣơng pháp cân đối của 34 quỹ hƣu trí CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ HÌNH THÀNH VÀ SỬ DỤNG QUỸ HƢU TRÍ Ở VIỆT NAM 39 2.1- SƠ LƢỢC VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ Ở NƢỚC TA 39 2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1961 39 2.1.2. Giai đoạn từ 1961 đến 1994 40 2.1.3. Giai đoạn từ 1995 đến nay 42 1
- 2.2- CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ 44 2.2.1. Về đối tƣợng thực hiện chế độ hƣu trí 45 2.2.2. Nguồn hình thành quỹ hƣu trí: 50 2.2.3. Sử dụng quỹ hƣu trí. 52 2.2.4. Về đầu tƣ tăng trƣởng 56 2.3- MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUỸ HƢU TRÍ 57 2.3.1. Những kết quả chủ yếu của pháp luật về quỹ hƣu trí hiện hành 57 2.3.2. Những tồn tại của pháp luật về chế độ hƣu trí hiện 58 hành CHƢƠNG 3 GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN HÌNH THÀNH VÀ SỬ DỤNG QUỸ HƢU TRÍ Ở VIÊT NAM 66 3.1- NHỮNG GIẢI PHÁP SỬA ĐỔI VỀ NỘI DUNG CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ. 66 3.1.1. Thay đổi một số quy định về điều kiện nghỉ hƣu 66 3.1.2. Thay đổi công thức tính trợ cấp hƣu trí 70 3.1.3. Thay đổi độ dài thời gian tính mức tiền lƣơng bình quân đóng bảo hiểm xã hội để làm cơ sở tính tính trợ cấp 71 hƣu trí 73 3.1.4. Hạn chế việc chi trả trợ cấp một lần từ quỹ hƣu trí 3.1.5. Tách quy định về mất sức lao động ra khỏi chế độ hƣu 74 trí, xây dựng chế độ trợ cấp mất sức lao động độc lập 3.1.6. Việc xử lý tiền trợ cấp hƣu trí khi Nhà nƣớc tăng tiền lƣơng tối thiểu chung hoặc thực hiện chính sách cải cách tiền 76 lƣơng cho cán bộ công chức 2
- 3.2- NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ NGUỒN HÌNH THÀNH QUỸ HƢU 78 TRÍ 3.2.1. Thay đổi quy định về mức đóng bảo hiểm xã hội cho 78 chế độ hƣu trí và cơ cấu của quỹ hƣu trí 3.2.2. Giải pháp hỗ trợ từ ngân sách Nhà nƣớc cho quỹ bảo 80 hiểm xã hội 3.3- NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN 82 3.3.1. Công tác quản lý thu, chi của chế độ hƣu trí 82 3.3.2. Công tác đầu tƣ tăng trƣởng quỹ 83 3.3.3. Giảm dần chi phí quản lý hệ thống 85 3.3.4. Nâng cao tính cƣỡng chế trong thực thi pháp luật 85 3.3.5. Xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội trong đó có chế độ 86 hƣu trí KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 3
- PHẦN MỞ ĐẦU 1- Lý do chọn đề tài Chế độ hƣu trí là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội quan trọng nhất của hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội. Đây là một chế độ bảo hiểm xã hội mang tính tổng hợp, dài hạn và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế - xã hội của một quốc gia. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 60, khi hệ thống bảo hiểm xã hội đƣợc ra đời, Chính phủ đã quan tâm xây dựng và thực hiện chế độ hƣu trí đối với ngƣ- ời lao động. Qua nhiều giai đoạn phát triển của đất nƣớc, chế độ hƣu trí đã trở thành một trong những chỗ dựa và là mục tiêu của ngƣời lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội. Đến nay, đã có hàng triệu ngƣời đã và đang đƣợc hƣởng trợ cấp hƣu trí hàng tháng. Trong suốt hơn 40 năm qua, chế độ hƣu trí đã có nhiều thay đổi để ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với yêu cầu của xã hội. Trong những năm trƣớc đây, chế độ hƣu trí đƣợc thực hiện đối với cán bộ công nhân viên chức Nhà nƣớc và đƣợc Nhà nƣớc bao cấp hoàn toàn, điều này đã gây nên một gánh nặng lớn cho ngân sách Nhà nƣớc khi số ngƣời hƣởng hƣu trí ngày càng tăng. Từ khi nƣớc ta thực hiện đổi mới nền kinh tế, chính sách bảo hiểm xã hội nói chung, chế độ hƣu trí nói riêng, đã có những thay đổi căn bản. Kể từ khi Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành, bảo hiểm xã hội chính thức đƣợc chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế tạo nguồn quỹ bằng sự đóng góp của các bên, ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nƣớc vào một quỹ chung. Tuy nhiên, cho đến nay chế độ hƣu trí và quỹ hƣu trí vẫn còn những tồn tại và chƣa đảm bảo đƣợc sự cân đối , ổn định về lâu dài. Việc nghiên cứu, đánh giá pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội hƣu trí và nguồn quỹ để đảm bảo thực hiện chế độ hƣu trí là một vấn đề đang đƣợc xã hội quan tâm. Xuất phát từ lý do trên, tôi đã chọn vấn đề “Pháp luật về nguồn hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí ở Việt Nam” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế với hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào công tác nghiên cứu trong lĩnh vực pháp luật về bảo hiểm xã hội nói 4
- chung và chế độ hƣu trí nói riêng. Tuy nhiên luận văn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong các thầy cô giáo và các nhà khoa học lƣợng thứ. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có nhiều nghiên cứu về pháp luật bảo hiểm xã hội nói chung, tuy nhiên chƣa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nguồn hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội hƣu trí ở nƣớc ta. 3- Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật quy định về nguồn hình thành và sử dụng quỹ hƣu trí ở Việt Nam. Phân tích về tình hình thực hiện chế độ hƣu trí hiện hành, phát hiện những vấn đề bất cập trong các quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về nguồn hình thành và sử dụng quỹ hƣƣ trí ở nƣớc ta. 4- Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu và phân tích những nội dung chính sau : - Thứ nhất: Những vấn đề lý luận chung về bảo hiểm xã hội và chế độ hƣu trí. - Thứ hai: Những quy định của pháp luật hiện hành về nguồn hình thành và sử dụng quỹ hƣu trí ở nƣớc ta. - Thứ ba: Việc thực hiện chế độ hƣu trí trong thực tiễn những năm qua, 5- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và Pháp luật, đồng thời vận dụng các tƣ tƣởng chủ đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta về đổi mới tƣ duy chính trị - pháp lý, về cải cách hành chính tƣ pháp và về mục tiêu phát triển bền vững. Để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ đặt ra, luận án đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, kết hợp logíc với lịch sử, phân tích, thống kê, so sánh và tổng hợp. 5
- 6- Những đóng góp chủ yếu về mặt khoa học của luận văn. - Xác định những nội dung cơ bản mang tính lý luận khoa học của chế độ hƣu trí, những yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình hình thành và sử dụng của quỹ hƣu trí. - Hệ thống những quy định của pháp luật về chế độ hƣu trí. Đánh giá thực trạng thực hiện và những bất cập trong pháp luật về việc hình thành và sử dụng quỹ hƣu trí. Đề xuất những kiến nghị sát thực để hoàn thiện chế độ hƣu trí và đảm bảo ổn định quỹ hƣu trí. - Có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, hoặch định chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ hƣu trí nói riêng. 7- Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1 - Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội và chế độ hƣu trí Chƣơng 2- Thực trạng về hình thành và sử dụng quỹ hƣu trí ở Việt Nam Chƣơng 3- Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về nguồn hình thành và sử dụng quỹ hƣu trí ở viêt nam CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ 6
- 1.1. KHÁI NIỆM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI: 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội: Trong cuộc đời của mỗi con ngƣời, trong quá trình tồn tại và trƣởng thành không phải lúc nào ngƣời ta cũng gặp thuận lợi, cũng làm việc tạo ra đƣợc sản phẩm để có thu nhập, thoả mãn các nhu cầu của mình, trái lại họ phải chịu sự chi phối của môi trƣờng tự nhiên, của những rủi ro xảy ra mà họ không lƣờng trƣớc đƣợc nhƣ ốm đau, tai nạn, già yếu.....Tất nhiên khi gặp phải những hoàn cảnh này con ngƣời không làm việc đƣợc, do đó bị giảm hoặc mất thu nhập, dẫn đến những khó khăn trong cuộc sống. Để khắc phục những rủi ro, để giảm bớt khó khăn thì ngoài việc tự mình khắc phục, con ngƣời cần thiết phải đƣợc sự bảo trợ của cộng đồng, của xã hội. Sự bảo trợ này đƣợc thể hiện dƣới hình thức bằng tiền hoặc bằng hiện vật để đảm bảo những nguồn vật chất cần thiết nhằm phục hồi nhanh chóng khả năng lao động, cũng nhƣ sự ổn định về thu nhập cần thiết để sinh sống. Từ xa xƣa con ngƣời đã có sự san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trên tinh thần “nhƣờng cơm sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách” dần dần trở thành một truyền thống tốt đẹp của cả xã hội, ý thức cộng đồng. Cùng với sự phát triển của xã hội, ý thức cộng đồng ngày càng đƣợc mở rộng, làm tiền đề cho sự ra đời của bảo hiểm xã hội ngày nay. Nhìn lại lịch sử thì từ đầu Công nguyên, ở Rôm (Italy) đã tự tổ chức các quỹ để trợ cấp cho ngƣời ốm đau. Vào thế kỷ 14 các nhà thiên chúa giáo ở Châu Âu cũng lập ra các quỹ để tƣơng trợ ốm đau, tàn tật. Đến thế kỷ thứ XV những ngƣời nông dân trồng nho ở vùng thung lũng Anpơ đã thành lập những hội tƣơng tế với cách thức môĩ ngƣời đều trích một phần thu nhập đóng vào một quỹ chung phòng khi ai bị ốm đau, tai nạn thì dùng quỹ đó để trợ giúp, đáp ứng đƣợc sự bù đắp tức thời cho những ngƣời gặp rủi ro bất hanh. Hình thức này dần dần đƣợc đa số các nƣớc ở Châu Âu thực hiện. 7
- Những hình thức tƣơng trợ của cộng đồng đối với những ngƣời gặp khó khăn đã góp phần cho họ vƣợt qua cam go, nhƣng tính chất của những hình thức này chỉ là sự bù đắp tức thời, không ổn định. Việc tƣơng trợ trong phạm vi hẹp của những đơn vị nhỏ hoặc khu vực nhỏ không có thể khắc phục hết những rủi ro của ngƣời lao động. Cuộc sống của ngƣời lao động lại gặp phải bấp bênh ảnh hƣởng đến lao động sản xuất, và trật tự an toàn xã hội. Sự ảnh hƣởng này đã tác động đến giới chủ và Nhà nƣớc, buộc họ phải từng bƣớc can thiệp vào để duy trì lực lƣợng lao động, những ngƣời tạo ra của cải vật chất. Năm 1850, ở Đức nhiều bang đã có sáng kiến thành lập quỹ ốm đau và bắt buộc công nhân phải đóng góp để dự phòng. Tính bắt buộc đóng góp mới chỉ xuất hiện ở một bên ngƣời đƣợc bảo hiểm. Đến những năm 1880 các hình thức tƣơng trợ xã hội đƣợc mở rộng cho các trƣờng hợp tai nạn, tuổi già và có thêm sự tham gia đóng góp vào quỹ xã hội của giới chủ và Nhà nƣớc. Cũng từ thời kỳ này, pháp luật bảo hiểm xã hội và hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội đƣợc ra đời ở Đức dƣới thời Thủ tƣớng Bismarck .Đạo luật về chế độ bảo hiểm ốm đau của công nhân đƣợc ban hành năm 1883, theo đạo luật này việc thực hiện bảo hiểm xã hội là bắt buộc đối với những ngƣời làm công ăn lƣơng. Đạo luật quan trọng tiếp theo là luật bảo hiểm tai nạn ban hành năm 1884. Đạo luật này cũng quy định chế độ bảo hiểm bắt buộc do giới chủ doanh nghiệp đóng góp, những công nhân bị tai nạn trong xí nghiệp hoặc những ngƣời thân còn sống của họ đƣợc nhận trợ cấp từ các quỹ bảo hiểm tai nạn chuyên ngành, Đạo luật về bảo hiểm hƣu trí và mất sức đƣợc ban hành năm 1889, bảo đảm cho ngƣời từ 70 tuổi trở lên một khoản trợ cấp hƣu trí hoặc một khoản trợ cấp mất sức lao động. Đến đây mở ra một thời kỳ mới của bảo hiểm: Bắt buộc tham gia đối với ngƣời lao động, đóng phí bảo hiểm do 3 bên, quản lý hệ thống có đại diện của cả 3 bên (Nhà nƣớc, giới chủ và giới thợ). Hệ thống bảo hiểm xã hội của Đức đƣợc nhân rộng ra khắp Châu Âu và một số nơi khác. Vào những năm 1930 bảo hiểm xã hội đƣợc thực hiện ở Mỹ La tinh, Hoa kỳ và Canađa. Sau 8
- chiến tranh thế giới lần thứ II, bảo hiểm ở xã hội lan rộng tới nhiều nƣớc ở Châu Phi, Châu Á và các nƣớc vùng biển Caribê thực hiện. Tuy nhiên việc áp dụng có những khác biệt tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội từng thời kỳ của mỗi nƣớc. Đến nay, hầu hết các nƣớc trên thế giới đã có pháp luật bảo hiểm xã hội. Mục đích của pháp luật bảo bảo hiểm xã hội ở các nƣớc đều giống nhau ở chỗ đều là sự bảo vệ cho ngƣời lao động khi gặp phải rủi ro do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập. Tuy nhiên giữa các đạo luật bảo hiểm xã hội của các nƣớc cũng có nội dung khác nhau về các dạng lao động đƣợc áp dung, về số lƣợng các chế độ trợ cấp, về phƣơng thức tổ chức thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội...v.v... Tổ chức lao động quốc tế là tổ chức liên Chính phủ đƣợc thành lập năm 1919, với mục đích đƣa ra những khuyến nghị nhằm giúp đỡ về kỹ thuật đối với các thành viên trong tất cả các lĩnh vực lao động, bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời lao động. Từ khi thành lập đến nay Tổ chức lao động quốc tế đã coi việc xúc tiến bảo hiểm xã hội là một trong những hoạt động chính của mình. Công ƣớc 102 của Tổ chức lao động quốc tế đã quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của các chế độ bảo hiểm xã hội và khuyến nghị các nƣớc thành viên thực hiện tiêu chuẩn này. Ngoài ra Công ƣớc còn quy định những vấn đề cơ bản làm nòng cốt cho bảo hiểm xã hội, đó cũng là cơ sở để các nƣớc luật hoá theo điều kiện của mỗi quốc gia. Ở nƣớc ta, với truyền thống đùm bọc lẫn nhau trong gia đình và cộng đồng làng xã, mầm mống của bảo hiểm xã hội đã có từ lâu đời “trẻ cậy cha, già cậy con”, “lá lành đùm lá rách”, ngƣời dân Việt Nam đã đồng cam cộng khổ với nhau, giúp đỡ nhau những khi ốm đau , tai nạn...cũng nhƣ san sẻ cho nhau bát cơm, manh áo lúc mất mùa đói kém. Ngay từ những ngày mới giành đƣợc chính quyền Đảng và Nhà nƣớc ta đã quan tâm đến bảo hiểm xã hội đối với ngƣời lao động. Trong sắc lệnh số 76 ngày 20/5/1950 quy định về chế độ công chức, sắc lệnh số 77 ngày 22/5/1950 quy định về chế độ công đân. Trong đó ngoài các chế độ tuyển dụng , thôi việc, 9
- tiền lƣơng, thì giờ làm việc...cũng đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về bảo hiểm xã hội nhƣ chế độ ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, hƣu trí và trợ cấp khi chết. Nhƣng do hoàn cảnh kháng chiến, nên việc áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội chƣa đƣợc thực hiện toàn diện. Pháp luật bảo hiểm xã hội chỉ thực sự đƣợc thực hiện một cách tƣơng đối hoàn chỉnh bắt đầu từ những năm 60, đƣợc đánh dấu bằng sự ra đời của Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nƣớc, đƣợc ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội trong suốt hơn 30 năm qua cũng nhƣ các chính sách xã hội khác, đƣợc thực hiện trong cơ chế tập trung bao cấp. Thời kỳ này bảo hiểm xã hội thể hiện sự đãi ngộ của Nhà nƣớc đối với cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nƣớc. Cán bộ công nhân viên chức (gọi chung là ngƣời lao động) trong các cơ quan đơn vị của Nhà nƣớc không phải đóng góp bảo hiểm xã hội , nhƣng khi gặp phải những trƣờng hợp rủi ro hoặc già yếu thì đƣợc Nhà nƣớc trợ cấp. Với quan niệm nhƣ vậy, vấn đề tài chính bảo hiểm xã hội dần dần trở thành một gánh nặng cho ngân sách Nhà nƣớc, đồng thời sự bình đẳng giữa những ngƣời lao động trong xã hội cũng không đƣợc đảm bảo vì lực lƣợng lao động ngoài quốc doanh không đƣợc quyền hƣởng trợ cấp. Vì thế, Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã quy định tại điều 56 “Nhà nƣớc quy định chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nƣớc và những ngƣời làm công ăn lƣơng. Nhà nƣớc khuyến khích các hình thức bảo hiểm xã hội khác với ngƣời lao động”. Đảng ta cũng ra Nghị quyết về từng bƣớc thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi ngƣời lao động (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII) Nhƣ vây, đến nay với việc xây dựng nền kinh tế mới nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo hiểm xã hội không chỉ áp dụng hạn hẹp đối với công nhân viên chức Nhà nƣớc mà còn đƣợc áp dụng đối với ngƣời lao động trong các thành phần kinh tế khác. Bộ luật Lao 10
- động đƣợc Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994, trong đó có một chƣơng về bảo hiểm xã hội đã phần nào đáp ứng đƣợc nhu cầu bảo hiểm xã hội của ngƣời lao động, đồng thời xây dựng đƣợc một hệ thống bảo hiểm xã hội tập trung, thống nhất và độc lập với sự đóng góp của cả ba bên, dần dần tách khỏi ngân sách Nhà nƣớc. Các quy định về bảo hiểm xã hội trong Bộ Luật Lao động là một chuyển biến lớn của pháp luật bảo hiểm xã hội ở nƣớc ta. 1.1.2. Những vấn đề cơ bản của bảo hiểm xã hội Nghiên cứu về bảo hiểm xã hội, chúng ta thấy rằng bảo hiểm xã hội phát sinh, tồn tại và phát triển do nhu cầu khách quan của xã hội. Có thể thấy nền kinh tế- xã hội càng phát triển thì nhu cầu về bảo hiểm xã hội càng tăng. Bảo hiểm xã hội có mục đích là bảo vệ ngƣời lao động khi yếu thế, đặc thù của hình thức bảo hiểm này là những trƣờng hợp đƣợc bảo hiểm chủ yếu là những biến cố gắn liền với quá trình lao động và những trƣờng hợp diễn ra sau đó. Cùng với sự phát triển của xã hội, bảo hiểm xã hội ngày càng đa dạng phong phú. Bảo hiểm xã hội là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, do vậy cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung khái niệm này, tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu. Từ điển Bách khoa tập I (Viện Từ điển Bách khoa Việt Nam – xuất bản 1995) có nêu “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngƣời lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc bị giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của ngƣời lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. Khái niệm này thể hiện cách thức tổ chức và thực hiện bảo hiểm xã hội, coi quỹ bảo hiểm xã hội nhƣ là một “quỹ tài chính”. Hơn nữa nguồn quỹ bảo hiểm xã hội đƣợc hình thành trong mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia là khác nhau, có thể không hoàn toàn là do sự đóng góp của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động. Thực tiễn ở Việt Nam, một thời gian dài quỹ bảo hiểm xã hội hoàn toàn do ngân 11
- sách Nhà nƣớc đảm bảo. Khái niệm này cũng đã chỉ ra đƣợc bảo hiểm xã hội không chỉ góp phần ổn định đời sống ngƣời lao động và gia đình họ mà còn góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Có ý kiến cho rằng “bảo hiểm xã hội là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế tiền lƣơng cho ngƣời lao động trong các trƣờng hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay việc làm, do đó bị mất hoặc giảm thu nhập do lao động tạo ra, nhằm bảo đảm thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu cho ngƣời lao động” (Luận cứ khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam- Trần Quang Hùng, Bộ Lao động- Thƣơng binh và xã hội, xuất bản 1994). Nhƣ vậy, cách hiểu này thể hiện rõ tính chất của các trợ cấp bảo hiểm xã hội là nhằm thay thế tiền lƣơng hoặc tiền công. Khi ngƣời lao động tham gia vào các quan hệ lao động mà vì một lý do nào đó dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập từ tiền lƣơng hoặc tiền công thì trợ cấp bảo hiểm xã hội sẽ thay thế khoản thiếu hụt đó. Định nghĩa này chƣa phản ánh hết nội dung của bảo hiểm xã hội, vì bảo hiểm xã hội không chỉ thay thế tiền lƣơng hoặc tiền công, vì ngƣời lao động khi cao tuổi không làm việc thì không còn tiền lƣơng hoặc tiền công nhƣng đƣợc hƣởng trợ cấp hƣu trí hoặc nhiều dạng trợ cấp khác nhƣ trợ cấp tử tuất, trợ cấp gia đình. Đồng thời, bảo hiểm xã hội còn bao gồm một tổng hợp các hoạt động từ việc huy động các nguồn đóng góp, đến việc quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và cách thức tổ chức thực hiện việc chi trả các trợ cấp. Tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu nên có nhiều cách định nghĩa khác nhau về bảo hiểm xã hội, nhƣng chúng ta có thể thấy khái niệm do Tổ chức lao động quốc tế nêu ra là phù hợp chung với các mô hình bảo hiểm xã hội của nhiều nƣớc: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với ngƣời lao động thông qua việc huy động các nguồn đóng góp để trợ cấp cho họ, nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn, thất nghiệp, mất khả năng lao động, tuổi già, chết. 12
- Đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các thân nhân trong gia đình ngƣời lao động, để góp phần ổn định cuộc sống bản thân ngƣời lao động và gia đình, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. Định nghĩa này đã phản ánh toàn diện khái niệm về bảo hiểm xã hội, thể hiện sự kết hợp chặt chẽ hai mặt của bảo hiểm xã hội đó là kinh tế và xã hội, tạo nên bản chất của bảo hiểm xã hội. Xem xét toàn diện về bảo hiểm xã hội chúng ta có thể thấy bảo hiểm xã hội có những đặc điểm sau: Thứ nhất về tài chính để đảm bảo trợ cấp bảo hiểm xã hội thông thƣờng đƣợc hình thành từ sự huy động các nguồn đóng góp của ngƣời sử dụng lao động, ngƣời lao động và sự hỗ trợ của Nhà nƣớc. Từ đó các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội đƣợc đảm bảo. Đặc trƣng này thể hiện nghĩa vụ của ngƣời lao động và trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội. Nhà nƣớc tham gia bảo hiểm xã hội thông qua việc hỗ trợ thêm cho quỹ bảo hiểm xã hội Thứ hai trong bảo hiểm xã hội các rủi ro đƣợc cộng đồng chia sẻ, nhƣng để bảo đảm đƣợc mục tiêu phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo đảm an toàn xã hội nên Nhà nƣớc phải dùng công cụ pháp luật để điều chỉnh nghĩa vụ của ngƣời lao động và trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động, vì thế sự tham gia bảo hiểm xã hội là bắt buộc đối với mọi lao động và ngƣời sử dụng lao động. Trừ một số ngoại lệ đối với những ngƣời lao động mà công việc của họ không thƣờng xuyên, có tính chất vụ việc hoặc theo mùa vụ nên thu nhập của họ không ổn định,....có thể không áp dụng bắt buộc đối với các dạng lao động này Thứ ba các nguồn thu bảo hiểm xã hội đƣợc tập trung vào một quỹ tiền tệ hạch toán độc lập để các chi phí trợ cấp bảo hiểm xã hội và chi phí cho bộ máy quản lý thực hiện. Thứ tƣ, đa số các quỹ bảo hiểm xã hội đƣợc thiết lập theo sự tồn tích để bảo đảm cho việc cân đối dài hạn hoặc để dự phòng cho các chế độ trợ cấp ngắn 13
- hạn. Do đó, phần tiền nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm xã hội đƣợc đầu tƣ để sinh lợi và bảo toàn giá trị. Hoạt động này có ý nghĩa trong việc góp phần phát triển kinh tế xã hội và trực tiếp tạo ra nhiều việc làm, làm tăng thêm ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội Thứ năm, mức đóng và mức hƣởng bảo hiểm xã hội thƣờng có mối liên hệ với chính sách tiền lƣơng, tiền công của ngƣời lao động vì tiền lƣơng hoặc tiền công của ngƣờ lao động là thu nhập thƣờng xuyên, ổn định là thƣớc đo giá trị sức lao động và phản ánh đời sống của ngƣời lao động thƣờng đƣợc quy định bởi các văn bản pháp luật. Mức đóng góp và trợ cấp bảo hiểm xã hội đều căn cứ vào mức tiền lƣơng, tiền công của ngƣời đƣợc bảo hiểm. Hiện nay theo thống kê của Tổ chức lao động quốc tế thì ở các nƣớc đang thực hiện các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội là: Ốm đau; thai sản ; mất sức lao động; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; tuổi già; tử tuất; thất nghiệp; chăm sóc y tế; trợ cấp gia đình. Tuy trên thế giới tồn tại 9 dạng trợ cấp bảo hiểm xã hội nhƣ trên, nhƣng trong thực tế tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nƣớc thực hiện một số dạng trợ cấp nhất định. Nƣớc ta hiện nay áp dụng 6 dạng trợ cấp bảo hiểm xã hội đó là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, hƣu trí, tử tuất và bảo hiểm y tế. Nhƣng bảo hiểm y tế đƣợc hình thành theo một nhánh riêng, không nằm trong quy định của bộ luật Lao động. 1.1.2.1- Bản chất của bảo hiểm xã hội: Bảo hiểm xã hội vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Về tính kinh tế, trƣớc hết xem xét từ giác độ ngƣời đƣợc bảo hiểm thì bảo hiểm xã hội tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho ngƣời lao động khi họ gặp phải các rủi ro trong phạm vi bảo hiểm xã hội, nhằm bảo đảm đời sống cho họ và cho những ngƣời trong gia đình. Khi xem xét về vấn đề tài chính của bảo hiểm xã hộithì tất 14
- cả các nguồn đóng góp của ngƣời sử dụng lao động, ngƣời lao động và của Nhà nƣớc đều trực tiếp liên quan đến vấn đề sản xuất kinh doanh của đơn vị, đến giá thành sản phẩm, đến chính sách tài chính của quốc gia. Về tính xã hội, do có sự “chia sẻ rủi ro” của bảo hiểm xã hội, ngƣời lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ bảo hiểm xã hội, nhƣng toàn xã hội sẽ có một lƣợng vật chất lớn để trang trải cho những rủi ro xảy ra. Ở đây, bảo hiểm xã hội lấy nguyên tắc “số đông bù số ít”, xuất phát từ sự liên kết của những ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội, từ lợi ích chung của họ để trợ cấp cho một số ít ngƣời gặp phải rủi ro. Vì thế bảo hiểm xã hội là sự tƣơng trợ cộng đồng mang tính nhân văn, tiến bộ xã hội vì một cộng đồng an sinh, trật tự. Để làm rõ hơn bản chất của bảo hiểm xã hội cần xem xét thêm -Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động bảo hiểm xã hội là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. Khác với bảo hiểm thƣơng mại, trong bảo hiểm xã hội mối quan hệ này chủ yếu dựa trên quan hệ lao động và dĩên ra giữa 3 bên: ngƣời sử dụng lao động, ngƣời lao động và Nhà nƣớc. Ngƣời sử dụng lao động có trách nhiệm phải đóng góp bảo hiểm cho ngƣời lao động mà họ thuê mƣớn. Ngƣời lao động tham gia bảo hiểm xã hội để thực hiện bảo hiểm cho chính mình trong quá trình lao động và sau lao động. Nhà nƣớc tham gia bảo hiểm xã hội với tƣ cách là chủ thể quản lý, hoạch định, thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, định hƣớng cho các hoạt động bảo hiểm xã hội. Ngoài ra Nhà nƣớc tham gia bảo hiểm xã hội với tƣ cách là bảo vệ cho các thành viên trong cộng đồng và là ngƣời bảo hộ cho các hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội, hỗ trợ cho quỹ bảo hiểm xã hội trong những trƣờng hợp cần thiết. 15
- - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong bảo hiểm xã hội có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con ngƣời nhƣ: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...hoặc cũng có thể là những trƣờng hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên nhƣ tuổi già, thai sản....Những biến cố đó có thể diễn ra trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của ngƣời lao động bị giảm hoặc bị mất khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ đƣợc bù đắp hoặc thay thế từ quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ này đƣợc hình thành chủ yếu từ đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và một phần từ hỗ trợ của Nhà nƣớc. 1.1.2.2- Chức năng của bảo hiểm xã hội: Bảo hiểm xã hội có những chức năng chủ yếu sau: - Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngƣời lao động tham gia bảo hiểm xã hội khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản của bảo hiểm xã hội. Nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của bảo hiểm xã hội. - Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội. - Góp phần khuyến khích ngƣời lao động tích cực lao động sản xuất. Ngƣời lao động có việc làm, khi khoẻ mạnh làm việc bình thƣờng sẽ có tiền lƣơng, tiền công, khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già đã có trợ cấp bảo hiểm xã hội thay thế nguồn thu nhập bị mất. Nhờ bảo hiểm xã hội, đời sống của ngƣời lao động và gia đình họ sẽ đƣợc đảm bảo, vì thế ngƣời lao động sẽ gắn bó với công việc, yên tâm tích cực lao động sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế. 16
- - Gắn bó lợi ích giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động, giữa ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội với nhau. Bảo hiểm xã hội dựa trên cơ sở đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội vào quỹ bảo hiểm xã hội. Các mức đóng góp này đƣợc tồn tích dần thành quỹ tập trung, quỹ này lại huy động phần nhàn rỗi tƣơng đối để sinh lợi tăng nguồn thu. Nhờ quỹ tập trung này, bảo hiểm xã hội có thể đảm bảo việc bù đắp thu nhập cho ngƣời lao độgn khi họ gặp rủi ro đồng thời cũng giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp khi xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Bảo hiểm xã hội đã phát huy tiềm năng của số đông để bảo đảm an toàn đời sống cho ngƣời lao động cũng nhƣ cho xã hội, từ đó tạo ra sự gắn bó chặt chẽ về lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội. - Góp phần ổn định chính trị xã hội. Đối tƣợng tham gia bảo hiểm xã hội càng nhiều thì càng giảm đi số ngƣời đói nghèo do gặp phải rủi ro trong cuộc sống, từ đó làm cho xã hội lành mạnh và ổn định. 1.1.2.3- Nguyên tắc của bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội đƣợc thiết lập với những nguyên tắc chủ yếu nhƣ : - Tất cả mọi ngƣời lao động đều có quyền tham gia và đƣợc hƣởng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. - Quỹ bảo hiểm xã hội đƣợc hình thành từ các nguồn đóng góp, thông thƣờng là sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, ngƣời lao động, với một phần hỗ trợ của Nhà nƣớc. - Mức đóng góp và mức hƣởng bảo hiểm xã hội căn cứ vào tiền lƣơng, tiền công hoặc thu nhập của ngƣời lao động. Mức đóng góp bảo hiểm xã hội của ngƣời lao động và của ngƣời sử dụng lao động là một tỷ lệ nhất định so với tiền lƣơng hoặc tiền công của chính ngƣời lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Mức hƣởng bảo hiểm xã hội phải thấp hơn mức tiền lƣơng (hoặc tiền công) khi đang làm việc, nhƣng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho ngƣời thụ hƣởng. 17
- - Bảo hiểm xã hội thực hiện trên cơ sở lấy số đông bù số ít, dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro, đây là nguyên tắc rất quan trọng trong bảo hiểm xã hội. 1.1.3. Các loại hình thực hiện bảo hiểm xã hội: Trong lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội, tồn tại 3 loại hình phổ biến nhƣ sau: 1.1.3.1- Loại hình bảo hiểm xã hội tự phát: Đây chính là nguồn gốc phôi thai của pháp luật bảo hiểm xã hội. Nhƣ phần đầu đã nêu ngay từ đầu công nguyên ở Rôm ngƣời dân đã tự tổ chức các quỹ để trợ cấp cho ngƣời ốm. Giữa thế kỷ 15 những ngƣời nông dân ở vùng Anpơ đã trích từ thu nhập của mình để đóng vào quỹ ốm đau, tai nạn. Loại hình bảo hiểm xã hội tự phát này đƣợc hình thành sớm nhất trên thế giới và vẫn đƣợc duy trì phát triển đến ngày nay. Loại hình này mang nhiều đặc tính của cứu trợ xã hội vì có thể đáp ứng đƣợc sự bù đắp tức thời cho những ngƣời gặp rủi ro, nhƣng lại khó có thể đảm bảo trợ cấp ổn định, lâu dài đƣợc. 1.1.3.2- Loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc: Khi công nghiệp phát triển đội ngũ những ngƣời làm công ăn lƣơng tăng nhanh, thì vấn đề bảo hiểm xã hội càng trở nên cấp thiết. Loại hình bảo hiểm xã hội tự phát không thể đáp ứng đƣợc nhu cầu về bảo hiểm xã hội của công nhân. Lúc này đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nƣớc thông qua việc tổ chức thực hiện bằng những quy định pháp luật , loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc ra đời. Đến nay bảo hiểm xã hội bắt buộc đã khẳng định đƣợc vị trí vững mạnh, bảo đảm đƣợc trợ cấp ổn định, chắc chắn và lâu dài từ thế hệ này sang thế hệ khác, đáp ứng đƣợc mục tiêu cơ bản của bảo hiểm xã hội. Đối tƣợng của bảo hiểm xã hội bát buộc chủ yếu là những ngƣời lao động có quan hệ lao động, tuy nhiên ở một số nƣớc bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng đƣợc thực hiện với những lao động khác có thu nhập ổn định. Đến nay đã có trên 180 nƣớc có pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc. 18
- 1.1.3.3- Loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện: trƣớc hết cần phân biệt loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện với loại hình bảo hiểm xã hội tự phát, hai loại hình này khác nhau ở chỗ bảo hiểm xã hội tự nguyện đƣợc Nhà nƣớc quy định bằng pháp luật, mọi ngƣời có thể tự nguyện tham gia theo các quy định của pháp luật, còn bảo hiểm xã hội tự phát là tập thể ngƣời lao động tự tổ chức, tự đặt ra các thể lệ để thực hiện với nhau. Bảo hiểm xã hội tự nguyện ra đời nhằm mục đích thực hiện với những đối tƣợng không có quan hệ lao động, hoặc những đối tƣợng có nhu cầu đóng góp để đƣợc hƣởng thêm về trợ cấp. Bảo hiểm xã hội tự nguyện áp dụng cho đối tƣợng này thƣờng chỉ thực hiện chế độ hƣu trí, thí dụ ở Anh, ở Pháp có chế độ hƣu trí bắt buộc chung đối với mọi ngƣời lao động, ngoài ra Nhà nƣớc còn quy định chế độ hƣu trí bổ sung tự nguyện, ai có nhu cầu thì tham gia để khi đủ điều kiện thì đƣợc hƣởng thêm một khoản lƣơng hƣu tự nguyện. Đối tƣợng thứ hai của bảo hiểm xã hội tự nguyện là những đối tƣơng không thuộc diện bảo hiểm xã hội bắt buộc nhƣ ngƣời tự tạo việc làm, ngƣời nội trợ, nông dân, ngƣ dân....và phạm vi thực hiện các chế độ trợ cấp là hoàn toàn phụ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia, có thể thực hiện tất cả các chế độ nhƣ bảo hiểm xã hội bắt buộc, có thể chỉ thực hiện một số chế độ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế-xã hội của quốc gia và phụ thuộc vào khả năng quản lý của cơ quan thực hiện bảo hiểm xã hội. Đến nay có khoảng gần 70 nƣớc có pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện. 1.2 CHẾ ĐỘ HƢU TRÍ TRONG HỆ THỐNG CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI. 1.2.1. Khái niệm về chế độ hưu trí. Theo Đại từ điển tiếng việt do Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo xuất bản năm 1999 thì hƣu trí là “Nghỉ việc khi đã già hoặc đủ thời gian phục vụ đƣợc hƣởng chế độ lƣơng bổng theo quy định của Nhà nƣớc”. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì chế độ hƣu trí là dạng trợ cấp cho những ngƣời tham gia bảo hiểm xã hội đạt đến độ tuổi cao mà không tiếp tục làm việc bình thƣờng nữa. Qua hai định nghĩa này có thể thấy : 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 309 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 210 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 347 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 94 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn