Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam
lượt xem 2
download
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích: làm sáng tỏ những vấn đề chung về phí và pháp luật về phí bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn; chỉ ra những thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong các quy định pháp luật hiện hành về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật bảo vệ môi trường về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đơn Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÍ VÀ PHÁP LUẬT 7 BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM 1.1. Khái quát về công cụ kinh tế trong quản lý bảo vệ môi trường 7 1.1.1. Khái niệm về công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường 7 1.1.2. Đặc điểm của công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường 8 1.1.3. Vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường 11 1.2. Quan niệm về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn 13 1.3. Cơ sở của việc xây dựng các quy định pháp luật về phí 19 bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn 1.3.1. Xuất phát từ nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền 19 (Polluter Pays Principle - PPP) 1.3.2. Xuất phát từ quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường 21 1.3.3. Xuất phát từ quy định về thu phí bảo vệ môi trường trong Luật 21 Bảo vệ môi trường nhằm tạo nên nguồn lực bảo vệ môi trường 1.4. Kinh nghiệm của một số nước về sử dụng phí bảo vệ môi 22 trường và gợi mở cho Việt Nam Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÍ MÔI TRƯỜNG 34 ĐỐI VỚI CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM 2.1. Các quy định pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với 34 chất thải rắn
- 2.1.1. Quy định về đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với 36 chất thải rắn 2.1.2. Quy định về đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường đối với 38 chất thải rắn 2.1.3. Quy định về mức thu và chế độ thu phí bảo vệ môi trường 40 đối với chất thải rắn 2.1.4. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ về 43 phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn 2.1.5. Quản lý và sử dụng số tiền thu được từ phí bảo vệ môi 44 trường đối với chất thải rắn 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường 45 đối với chất thải rắn và những vấn đề đặt ra 2.2.1. Những kết quả đạt được 45 2.2.2. Những vấn đề đặt ra 50 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 59 VỀ PHÍ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường 59 đối với chất thải rắn ở Việt Nam 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi 65 pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam 3.2.1. Cần tiến hành rà soát các quy định về phí bảo vệ môi trường 65 đối với chất thải rắn để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các quy định về thuế bảo vệ môi trường 3.2.2. Điều chỉnh mức thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải 67 rắn phù hợp với thực tiễn và yêu cầu trang trải các chi phí bảo vệ môi trường 3.2.3. Cần tập trung nguồn thu từ phí môi trường vào Quỹ bảo vệ 71 môi trường
- 3.2.4. Cần có các biện pháp ràng buộc các nhà đầu tư, các doanh nghiệp 73 trách nhiệm bảo vệ môi trường trong xử lý chất thải rắn 3.2.5. Cần quy định cụ thể về chế tài xử lý khi đơn vị phải nộp phí 75 bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn vi phạm nghĩa vụ nộp 3.2.6. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm 76 công tác quản lý môi trường và những người làm công tác thu phí bảo vệ môi trường 3.2.7. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về pháp luật liên quan đến 80 việc thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
- Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu Tªn b¶ng Trang b¶ng 1.1 Công cụ khuyến khích kinh tế áp dụng tại các nước OECD 23
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Môi trường và phát triển có mối quan hệ khăng khít với nhau. Môi trường là địa bàn và đối tượng của phát triển. Phát triển là nguyên nhân tạo nên những biến đổi tích cực và tiêu cực đối với môi trường. Phát triển kinh tế - xã hội là nhu cầu tất yếu của loài người và tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế con người sẽ phải khai thác môi trường, nhưng nếu vì phát triển kinh tế mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được hoặc khai thác quá khả năng phục hồi đối với tài nguyên tái tạo được thì sẽ không còn nguyên liệu, năng lượng để phát triển, từ đó dẫn tới đình chỉ sản xuất, giảm sút hoặc triệt tiêu hệ thống kinh tế. Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh tế và trong cuộc sống sinh hoạt của con người lượng chất thải thải ra môi trường ngày càng nhiều, tác động xấu đến không khí, nước, đất và các yếu tố môi trường khác làm tổn hại môi trường sống và khiến cho hệ thống kinh tế không thể hoạt động một cách bình thường được. Bên cạnh mưa xít là thảm họa thủng tầng ôzôn. Tầng ôzôn được ví như là một tấm áo che phủ trái đất tránh khỏi những tia từ ngoại trực tiếp từ mặt trời. Theo báo cáo môi trường của Liên hợp quốc, nếu tầng ôzôn mỏng đi 1% thì cường độ của tia tử ngoại chiếu xuống mặt đất sẽ tăng lên 2%, tỷ lệ về bệnh ung thư da sẽ tăng lên 8%... mưa axít, tia tử ngoại cũng sẽ làm tổn thương lớn tới vật nuôi, cây trồng cả trong nước lẫn trên mặt đất. Ước tính với tốc độ tăng trưởng công nghiệp như hiện nay, thì tới năm 2075 tầng ôzôn sẽ giảm đi 40% so với năm 1985. Khi đó, thế giới sẽ có 150 triệu người mắc bệnh ung thư da, 18 triệu người bị đục thuỷ tinh thể, tài nguyên thuỷ sản sẽ tổn thất 25%, sản lượng mùa màng sẽ giảm 7,5%... Còn nếu như tầng ôzôn bị phá huỷ thì con người và mọi sinh vật trên trái đất sẽ bị huỷ diệt bởi tia tử ngoại của mặt trời. 1
- Vì vậy, phát triển phải đi đôi với quản lý và bảo vệ môi trường. Hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường trong đó có việc lựa chọn các công cụ để đảm bảo sự phát triển hài hòa đó đang là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó, việc sử dụng các công cụ kinh tế để quản lý và bảo vệ môi trường là một trong những biện pháp khả thi nhất vì nó không mâu thuẫn hay đi ngược lại các mục tiêu của kinh tế thị trường mà ở nó có sự kết hợp hợp lý giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Trên thế giới và đặc biệt trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organisation for Economic Cooperation and Development - OECD) các công cụ kinh tế là biện pháp quản lý và bảo vệ môi trường đã và đang được ứng dụng rộng rãi. Việt Nam hiện nay được xếp vào diện các nước có nền kinh tế chuyển đổi, điều đó có nghĩa là chúng ta đang chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường khi mà lợi nhuận là thứ được đặt lên hàng đầu thì đôi khi vì lợi nhuận thu được mà con người cố tình làm ngơ trước sự phá hoại môi trường. Đứng trước tình trạng đó buộc chúng ta phải sử dụng các công cụ kinh tế để tạo ra các động cơ khuyến khích, thúc đẩy con người cố gắng giảm bớt mức phát thải ô nhiễm, hoặc áp dụng các công nghệ sạch hơn cho môi trường để đảm bảo tăng trưởng đi đôi với duy trì chất lượng môi trường như chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Một trong các công cụ kinh tế quan trọng bên cạnh thuế bảo vệ môi trường là phí bảo vệ môi trường. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, một vấn đề phổ biến đang diễn ra thường xuyên, hàng ngày ở mọi nơi trong xã hội Việt Nam hiện nay. Việc tìm hiểu và phân tích quy định của pháp luật trong lĩnh vực này đối với việc bảo vệ môi trường là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của Việt Nam. 2
- Với những lý do đó, việc nghiên cứu Pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam″ có ý nghĩa khoa học và có ý nghĩa thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay các bài viết và các đề tài nghiên cứu về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn còn rất ít, chủ yếu là các bài viết liên quan đến quản lý chất thải rắn là chủ yếu, đó là bài viết của TS. Nguyễn Văn Phương: "Chất thải và các quy định về quản lý chất thải", Tạp chí Luật học, số 4/2003; bài viết của TS. Nguyễn Văn Phương: "Một số vấn đề về khái niệm chất thải", Tạp chí Luật học, số 10/2006; bài viết của Lê Kim Nguyệt: "Một cơ chế phù hợp cho quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11/2002; đề tài "Một số vấn đề quản lý chất thải y tế tại Hà Nội", Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Kim Thoa, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004; đề tài khoa học cấp trường của TS. Nguyễn Văn Phương:"Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải",2008; đề tài "Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam", khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thu Loan, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009 v.v... Hầu hết các đề tài, bài viết này chỉ đi phân tích và đánh giá các vấn đề liên quan đến quản lý chất thải rắn và chỉ có một số khía cạnh liên quan đến phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn mà chưa có một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nào đề cập một cách toàn diện và có hệ thống, có tính chuyên sâu về vấn đề phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam. Do đó đề tài mà luận văn đề cập sẽ là bài viết đi sâu vào tìm hiểu pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, là vấn đề mà chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều trong mối tương quan với các vấn đề liên quan đến công cụ kinh tế trong quản lý chất thải. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Mục đích Việc nghiên cứu đề tài nhằm thực hiện mục đích: 3
- Một là, làm sáng tỏ những vấn đề chung về phí và pháp luật về phí bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn; Hai là, chỉ ra những thiếu sót hoặc chưa hợp lý trong các quy định pháp luật hiện hành về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật bảo vệ môi trường về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. - Nhiệm vụ Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về phí và pahps luật về bảo vệ môi trường nói chung và phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn nói riêng; + Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống các của pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn; + Luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật bảo vệ môi trường về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, đồng thời đề ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định này. - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là những khái niệm về phí, pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn; các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam hiện hành về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này qua hoạt động thu phí ở một số địa phương trong những năm gần đây. * Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập chung nghiên cứu các quy định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn 4
- trong pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam hiện hành. Khi nghiên cứu các quy định cụ thể về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn này, luận văn có đề các công cụ kinh tế để quản lý và bảo vệ môi trường được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường cũng như nghiên cứu một cách khái quát về các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường hiện đang được áp dụng ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, cách tiếp cận những vấn đề này chỉ là cơ sở để nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn theo quy định của pháp luật Việt Nam. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc bảo vệ môi trường phát triển bền vững. Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, đối chiếu, so sánh, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những người làm công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn. 5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Luận văn là một công trình nghiên cứu về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn - một công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường hiện mới được áp dụng tại Việt Nam. Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn ở chỗ: tìm ra được những tồn tại trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. 5
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy ở bậc Đại học, Trường Đào tạo nghề trong lĩnh vực pháp lý và là tư liệu tham khảo đối với cơ quan và tổ chức hữu quan. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về phí và pháp luật phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam. Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí môi trường đối với chất thải rắn ở Việt Nam. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÍ VÀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CHẤT THẢI RẮN Ở VIỆT NAM 1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 1.1.1. Khái niệm về công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường Công cụ quản lý và bảo vệ môi trường được hiểu là các phương thức hay biện pháp hành động thực hiện công tác quản lý và bảo vệ môi trường của nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Các công cụ quản lý và bảo vệ môi trường rất đa dạng. Nhưng tuy nhiên, về cơ bản, các công cụ kinh tế thường mang lại hiệu quả cao hơn so với các công cụ khác. Công cụ kinh tế là một loại công cụ quản lý và bảo vệ môi trường "sử dụng đến những đòn bẩy lợi ích kinh tế " [53, tr. 21]. Trong khoa học kinh tế, công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường được hiểu là "các công cụ chính sách được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động ảnh hưởng đến hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường" [49, tr. 421]. Như vậy, theo các nhà kinh tế học thì khái niệm công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường có ngoại diên rất rộng. Đó là tất cả những biện pháp dựa vào thị trường được sử dụng để làm thay đổi lợi ích và chi phí của các hoạt động của con người nhằm quản lý và bảo vệ môi trường như thuế môi trường, phí môi trường, giấy phép xả thải và thị trường giấy phép xả thải, tín dụng môi trường... Dưới góc độ pháp lý thì công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường là những công cụ chính sách do pháp luật quy định được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và 7
- tiêu dùng thường xuyên tác động tới môi trường nhằm thay đổi hành vi của con người theo hướng có lợi cho môi trường. Như vậy, chỉ những biện pháp sử dụng lợi ích và chi phí để tác động đến hành vi của con người theo hướng có lợi cho môi trường được pháp luật quy định mới được xem là các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, cho đến nay trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có một văn bản nào đưa ra định nghĩa thế nào là công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường. Tại chương XI Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 (Luật Bảo vệ môi trường 2005) mới chỉ đưa ra các nguồn lực bảo vệ môi trường. Theo đó, công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường bao gồm: ngân sách nhà nước về bảo vệ môi trường; thuế môi trường; phí bảo vệ môi trường; ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên; quỹ bảo vệ môi trường và các chính sách ưu đãi và hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường. 1.1.2. Đặc điểm của công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường Công cụ kinh tế là một trong số các công cụ quản lý và bảo vệ môi trường hữu hiệu nhất hiện nay. Để làm sáng tỏ đánh giá này ta hãy tìm hiểu những đặc điểm của công cụ kinh tế. Thứ nhất, công cụ kinh tế có tính linh hoạt và mềm dẻo tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân hành động sao cho phù hợp với điều kiện của họ. Các công cụ kinh tế là các biện pháp khuyến khích kinh tế được xây dựng trên nền tảng các quy luật kinh tế thị trường nhằm tác động đến hành vi của các tác nhân kinh tế ngay từ khi chuẩn bị cho tới khi thực hiện quyết định. Các biện pháp khuyến khích này cho phép cân nhắc, so sánh, tính toán một cách kỹ càng giữa cái "được" và cái "mất", cái lợi và cái hại của từng kịch bản phát triển, từng phương án hành động mà họ cho là có lợi nhất đối với mình. Các 8
- công cụ kinh tế duy trì một tập hợp tương đối rộng rãi các hành động môi trường có tính pháp lý, nhưng có xác định những hậu quả khác nhau đối với những sự lựa chọn khác nhau và bắt buộc phải phục tùng từng hậu quả xảy ra. Trong khi đó các công cụ pháp lý truyền thống thường cứng nhắc, bắt buộc các chủ thể phải tuân thủ mà không được phép lựa chọn. Thứ hai, công cụ kinh tế có tính hiệu quả về bảo vệ môi trường, nhất là trong nền kinh tế thị trường. Cụ thể là: - Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước như là một trung tâm điều hành, kiểm soát. Mọi kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đều được phân giao từ trên xuống, các doanh nghiệp hầu như không có quyền chủ động. Trong khi đó, các công cụ kinh tế vận hành thông qua cơ chế chi phí và giá cả trên cơ sở các quy luật của kinh tế thị trường, do đó nó hoàn toàn dành cơ hội lựa chọn và quyền chủ động quyết định cho các cá nhân và tổ chức sao cho phù hợp với điều kiện của họ. Vì thế, các công cụ kinh tế tạo cơ hội và điều kiện để nhà sản xuất chuyển chi phí bảo vệ môi trường vào giá thành sản phẩm, tức là chuyển trách nhiệm bảo vệ môi trường gián tiếp cho người tiêu dùng, khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư bảo vệ môi trường tương xứng với mức đầu tư phát triển sản xuất. Như thế, công cụ kinh tế đã thực hiện được một trong các nguyên tắc bảo vệ môi trường mà Luật Bảo vệ môi trường 2005 đã đề ra tại Điều 4 là: "Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân". - Công cụ kinh tế sử dụng lợi ích kinh tế để quản lý và bảo vệ môi trường do đó các hành vi môi trường được điều chỉnh một cách tự giác. Vì vậy chúng ta sẽ giảm được những chi phí kinh tế trong quản lý. Mặt khác, do vận hành theo cơ chế chi phí và giá cả nên các doanh nghiệp, các nhà sản xuất phải tự tìm hiểu về các công cụ kinh tế để có cơ sở để tính toán chi phí sản xuất và ấn định giá bán. Vì thế, chúng ta sẽ giảm được những chi phí kinh tế trong việc tuyên truyền phổ biến. Ngoài ra, nếu sử dụng tốt công cụ kinh tế 9
- đặc biệt là thuế môi trường và phí bảo vệ môi trường chúng ta sẽ tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, để đầu tư trở lại cho môi trường. - Sử dụng công cụ kinh tế sẽ đảm bảo tiết kiệm tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm và nâng cao khả năng tái chế, tái sử dụng chất thải. Như vậy, công cụ kinh tế vừa mang tính hiệu quả về kinh tế vừa mang tính hiệu quả về môi trường. Thứ ba, công cụ kinh tế có tính công bằng về mặt xã hội, bởi lẽ, một trong những nguyên tắc hình thành lên công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường là nguyên tắc "Người gây ô nhiễm phải trả tiền" và nguyên tắc "Người hưởng lợi phải trả tiền". Thứ tư, công cụ kinh tế có tính kích thích lợi ích kinh tế. Đặc điểm này của công cụ kinh tế là do một trong các nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường là nguyên tắc kích thích lợi ích kinh tế. Cũng do có đặc điểm này mà khi được sử dụng, công cụ kinh tế làm cho con người tự giác thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường. Thứ năm, công cụ kinh tế bảo đảm bảo vệ môi trường gắn liền trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Bởi lẽ, "chừng nào việc sử dụng môi trường sống chưa trở thành một chi phí trong sản xuất hay tiêu dùng thì chừng đó con người vẫn không ý thức được về trách nhiệm giảm nhẹ hủy hoại môi sinh" [36, tr. 153-154]. Trong khi đó, các công cụ kinh tế được vận hành thông qua cơ chế chi phí và giá cả trên cơ sở các quy luật của nền kinh tế thị trường, hơn nữa nếu sử dụng công cụ kinh tế thì môi trường được xem là một loại hàng hóa, do đó việc sử dụng môi trường (dù là với vai trò là yếu tố đầu vào hay yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất, kinh doanh) thì cũng đều phải trả tiền. Vì vậy, trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh dù lớn hay nhỏ của mình các chủ thể đều phải cân nhắc, suy xét việc bảo vệ môi trường ngay từ giai đoạn lập kế hoạch và trong suốt quá trình tổ chức thực hiện. 10
- 1.1.3. Vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường Công cụ kinh tế có vai trò đặc biệt trong quản lý và bảo vệ môi trường, điều này thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, so với các công cụ quản lý và bảo vệ môi trường khác, công cụ kinh tế có một số ưu điểm nhất định và chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường. Tính ưu việt của các công cụ kinh tế được thể hiện ở một số điểm sau: Một là, áp dụng công cụ kinh tế giúp các doanh nghiệp có những thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh. Trước tiên do công cụ kinh tế có tính linh hoạt, mềm dẻo mà các doanh nghiệp hoàn toàn có quyền chủ động xây dựng và triển khai các dự án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh sao cho phù hợp với điều kiện của mình. Mặt khác, việc áp dụng công cụ kinh tế sẽ tạo ra những lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp từ đó tạo tiền đề cũng như khả năng để doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ví dụ: Chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường là một trong những công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường. Theo đó, cơ sở sản xuất, kinh doanh đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất sẽ được miễn, giảm thuế, vay vốn ưu đãi... Do đó, doanh nghiệp có những nguồn lực tài chính để có thể mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. Hai là, khuyến khích các nhà sản xuất thường xuyên cải tiến công nghệ kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm. Các công cụ kinh tế tạo điều kiện để khuyến khích các nhà sản xuất liên tục giảm ô nhiễm bằng cách thường xuyên đầu tư cải tiến công nghệ kiểm soát ô nhiễm. Điều này không chỉ có lợi cho môi trường mà còn tăng khả năng cạnh tranh cũng như triển vọng của nền kinh tế quốc gia. Trong lúc đó, công cụ pháp lý không khuyến khích được các nhà sản xuất tiếp tục giảm thiểu ô nhiễm khi họ đã đạt tiêu chuẩn cho 11
- phép. Nguyên nhân cơ bản là do đầu tư giảm thiểu ô nhiễm dưới tiêu chuẩn thường phải tốn kém, trong lúc công cụ pháp lý không cần điều đó, vả lại cũng không thu được khoản tài chính nào, trong khi việc đầu tư giảm thiểu ô nhiễm hơn nữa thường là cơ sở để các nhà quản lý tiến tới quy định tiêu chuẩn khắt khe hơn. Ba là, công cụ kinh tế giúp đạt kết quả bảo vệ môi trường nhanh hơn và đặt ra mục tiêu cao hơn so với công cụ pháp lý. Nguyên nhân là càng đầu tư giảm thiểu ô nhiễm nhanh hơn thì hiệu quả kinh tế lại cao hơn. Bên cạnh đó, các công cụ kinh tế còn tạo điều kiện để các nhà sản xuất chủ động nghiên cứu, xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện giảm thiểu ô nhiễm cũng như việc khuyến khích họ tiến xa hơn nữa để đạt được các mục tiêu môi trường cao hơn và nhanh hơn. Bốn là, áp dụng công cụ kinh tế sẽ khiến cho các chủ thể tự giác thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường. Nguyên nhân là do công cụ kinh tế sử dụng đến những đòn bẩy kinh tế, đó là những lợi ích vật chất. Chính những lợi ích vật chất này đã thúc đẩy các chủ thể tự giác thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường. Trong khi đó, công cụ tuyên truyền giáo dục cũng có tác dụng khiến cho các chủ tự giác thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường nhưng chỉ trong trường hợp trước đó "khi con người vì sự vô thức đã tàn phá chính môi trường trong đó họ đang sống" [53, tr. 23], còn trong các trường hợp khác biện pháp này hầu như không phát huy tác dụng. Năm là, so với biện pháp chính trị và biện pháp công nghệ thì việc sử dụng các công cụ kinh tế mang tính khả thi hơn. Nguyên nhân là do các biện pháp chính trị thường được thể hiện thông qua đường lối của các đảng phái chính trị, vì thế nó thường mang tính chất định hướng. Còn biện pháp công nghệ có bản chất là việc đầu tư các dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại để giảm thiểu ô nhiễm. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có nguồn tài chính đủ lớn để làm được điều này. 12
- Thứ hai, các công cụ kinh tế tạo ra nguồn lực tài chính cần thiết để quản lý và bảo vệ môi trường. Thứ ba, các công cụ kinh tế kích thích các chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho môi trường qua đó góp phần định hướng nền kinh tế phát triển thân thiện với môi trường. Bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường suy cho cùng lợi nhuận là mục tiêu hướng tới của tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, do đó nếu chi phí để tái chế, tái sử dụng chất thải thấp hơn chi phí để khai thác tài nguyên mới hoặc chi phí để giảm thiểu ô nhiễm thấp hơn hoặc bằng các khoản thuế, phí phải nộp thì các tổ chức, cá nhân sẵn sàng thực hiện. 1.2. QUAN NIỆM VỀ PHÍ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI CHẤT THẢI RẮN * Quan niệm về phí bảo vệ môi trường Trong quản lý và bảo vệ môi trường, bên cạnh các công cụ kinh tế khác thì công cụ phí nhằm mục đích kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường cũng được sử dụng khá rộng rãi. Theo nghĩa thông thường thì phí được hiểu là "khoản tiền phải trả cho một công việc phục vụ, dịch vụ công cộng nào đó" [63, tr. 709]. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm phí được quy định tại Điều 2 Pháp lệnh số 38/2001/PL-UBTVQH10 ngày 28 tháng 8 năm 2001 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phí và lệ phí. Theo đó, phí được hiểu là "khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo pháp lệnh này". Từ các khái niệm nêu trên có thể hiểu phí bảo vệ môi trường là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường phải trả để phục vụ cho việc thu gom, quản lý và xử lý các chất thải đó. Mặc dù một trong các nguyên tắc bảo vệ môi trường quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường là: "Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân". Tuy nhiên, hiện nay việc 13
- đầu tư, xây dựng, vận hành các công trình công cộng phục vụ việc thu gom, quản lý, xử lý chất thải hầu như đều do Nhà nước đảm nhiệm vì vậy phí bảo vệ môi trường là khoản thu của Nhà nước từ các tổ chức, cá nhân có hành vi xả thải ra môi trường để phục vụ cho việc công tác thu gom, quản lý, xử lý chất thải nhằm bảo vệ môi trường. Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra khái niệm về phí bảo vệ môi trường như sau: Phí bảo vệ môi trường là một khoản thu của ngân sách nNhà nước, được thu từ các tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc có hoạt động làm phát sinh các nguồn tác động xấu đối với môi trường nhằm hình thành lên nguồn tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường. Theo quy định tại Tiểu mục 1, Phần X, Mục A Danh mục chi tiết phí, lệ phí Ban hành kèm theo Nghị định số 24/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2002/NĐ - CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí thì phí bảo vệ môi trường bao gồm: - Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải; - Phí bảo vệ môi trường đối với khí thải; - Phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn; - Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản. Tìm hiểu về phí bảo vệ môi trường, ta thấy có những đặc trưng sau: Thứ nhất, về đối tượng nộp phí. Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì "tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc có hoạt động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường phải nộp phí bảo vệ môi trường". Như vậy, đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường là các chủ thể có các hoạt động gây bất lợi cho môi trường, đó có thể là hành vi 14
- xả thải như xả nước thải được quy định tại Nghị định số 67/2003/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 04/2007/NĐ-CP), theo đó, tại Điều 3 Nghị định này có quy định: "Tổ chức, hộ gia đình có nước thải quy định tại Điều 2 Nghị định này là đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải". Hoặc có các "hoạt động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường", như hoạt động khai thác khoáng sản. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 137/2005/NĐ-CP thì "Đối tượng nộp phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản là các tổ chức, cá nhân khai thác các loại khoáng sản quy định tại Điều 2 Nghị định này". Thứ hai, về đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường là các chất thải như nước thải (Điều 2 Nghị định số 67/2003/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung) hoặc là các yếu tố vật chất là đối tượng tác động của các hoạt động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường như các loại khoáng sản: đá, cát, đất, than, sét, sỏi…trong hoạt động khai thác khoáng sản (Điều 2 Nghị định số 137/2005/ NĐ-CP). Thứ ba, về mức phí, theo quy định tại khoản 2 Điều 113 Luật Bảo vệ môi trường 2005 thì mức phí bảo vệ môi trường được quy định trên cơ sở: - Khối lượng chất thải ra môi trường, quy mô ảnh hưởng tác động xấu đối với môi trường. - Mức độ độc hại của chất thải, mức độ gây hại đối với môi trường; - Sức chịu tải của môi trường tiếp nhận chất thải. Thứ tư, phí bảo vệ môi trường thường mang tính địa phương, ngành kinh tế sâu sắc. Bởi lẽ, sức chịu tải của môi trường ở mỗi địa phương, mỗi ngành kinh tế khác nhau là khác nhau. Bên cạnh việc chỉ ra các đặc điểm của phí bảo vệ môi trường, cũng cần phân biệt phí bảo vệ môi trường với thuế môi trường sẽ được áp dụng trong thời gian tới. Mặc dù thuế môi trường, phí bảo vệ môi trường đều là các 15
- khoản thu hình thành lên nguồn tài chính để bảo vệ môi trường nhưng giữa chúng có một số điểm khác biệt cơ bản. - Về đối tượng, nếu thuế môi trường là lượng sản phẩm của cơ sở sản xuất hoặc doanh thu do bán sản phẩm thì phí bảo vệ môi trường là lượng chất gây ô nhiễm có trong dòng thải hoặc khối lượng, số lượng các yếu tố vật chất là đối tượng tác động của các hoạt động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trường. - Thuế môi trường không mang tính hoàn trả trực tiếp, nhưng phí bảo vệ môi trường lại mang tính hoàn trả trực tiếp rõ ràng. - Phạm vi áp dụng của thuế môi trường không có giới hạn, khác biệt giữa các địa phương, ngành kinh tế, nhưng đối với các khoản thu từ phí bảo vệ môi trường có thể mang tính địa phương, ngành kinh tế. Từ những đặc điểm trên của phí bảo vệ môi trường, ta thấy phí bảo vệ môi trường có những ưu điểm cơ bản sau: Thứ nhất, phí bảo vệ môi trường góp phần tạo nên sự công bằng đối với thiên nhiên môi trường theo lối có vay, có trả. Bởi lẽ, phí bảo vệ môi trường được hình thành trên cơ sở nguyên tắc "Người gây ô nhiễm phải trả tiền" theo đó người có các tác động xấu đối với môi trường thì phải nộp phí bảo vệ môi trường và "toàn bộ nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường được sử dụng đầu tư trực tiếp cho việc bảo vệ môi trường" [43, Điều 113]. Thứ hai, phí bảo vệ môi trường khuyến khích người gây ô nhiễm giảm phát thải. Phí bảo vệ môi trường tạo cơ hội cho người nộp phí giảm số phí phải nộp bằng cách giảm các hành động gây tác hại tới môi trường. Chẳng hạn, Chì là đối tượng phải chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải theo quy định tại Nghị định số 67/2003/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bố sung bởi Nghị định số 04/2007/NĐ-CP) do đó, các tổ chức, hộ gia đình có nước thải sẽ tìm cách giảm nồng độ chì có trong nước thải bằng các cách khác nhau. 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn