intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

36
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản và thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó tìm ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quản lý và thanh lý tài sản phá sản, tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, người lao động và doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THUỲ LINH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu - 2010
  2. MỤC LỤC Trang ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN 1.1 Khái niệm tài sản phá sản và mối quan hệ giữa quản lý và thanh lý 6 tài sản phá sản 1.2. Sự cần thiết của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản 15 1 20 Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý và thanh lý tài sản phá sản 21 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản tại 48 Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội 2 72 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN 3.1 Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về quản lý và 74 thanh lý tài sản phá sản 3.2. Những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý 76 tài sản phá sản 3 90 91
  3. DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT LPS Luật phá sản BLDS TAND Toà án nhân dân TSPS Tài sản phá sản DN Doanh nghiệp, hợp tác xã TQLTLTS Tổ quản lý, thanh lý tài sản QLTLTS Quản lý, thanh lý tài sản
  4. L ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Trong nền ki , pháp luật về phá sản có vị trí quan trọng trong lĩnh vực pháp luật kinh tế và là bộ phận không thể thiếu. Từ những năm đầu tiên của tiến trình đổi mới, những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã xây dựng Luật phá sản doanh nghiệp (1993), nhưng vì còn thiếu kiến thức về nền kinh tế thị trường, điều kiện tham khảo các quy định của pháp luật nước ngoài về thủ tục phá sản còn hạn chế nên nhiều quy định của Luật này còn bất cập, không phù hợp với thực t . Nhận thức được vấn đề này, Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhận định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm (2001- 2005) là: “Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các luật: Luật Thương mại, Luật Phá sản doanh nghiệp…” Để cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước cũng như những yêu cầu cụ thể của thực tiễn, ngày 26/5/2004, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá 11 đã thông qua Luật phá sản (LPS) và Luật này có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 [2]. LPS 2004 đã tiến bộ hơn với nhiều quy định rõ ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào quá trình Toà án giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, đã làm cho việc giải quyết phá sản được thực hiện nhanh chóng hơn, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, sau một thời gian áp dụng đã nảy sinh không ít những khó khăn, vướng mắc cần phải hoàn thiện, nhất là vấn đề liên quan đến quản lý, thanh lý tài sản. 1
  5. đây , . Nghiên cứu các quy định của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản qua thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và môi trường kinh tế quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu luận văn Trong những năm gần đây, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về pháp luật phá sản, luật phá sản ở nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Toà án nhân dân tối cao: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của luật phá sản về thủ tục phá sản” do Tiến sĩ Nguyễn Văn Dũng- Phó Viện trưởng Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao làm chủ nhiệm đề tài; Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Bộ Kế hoạch và đầu tư: “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam” do Thạc sĩ Nguyễn Kim Anh- chuyên viên Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm chủ nhiệm đề tài; Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Trương Hồng Hải đã bảo vệ năm 2004 tại Trường Đại học Luật Hà Nội: “Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đinh Thị Thanh Nga đã bảo vệ năm 2007 tại khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội: lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản”. Bên cạnh đó còn có một số tài liệu hội thảo khoa học có liên quan như: Hội thảo chuyên đề Luật phá sản- thực tiễn, vướng mắc, kiến nghị của Toà Kinh tế- TAND Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006, Hội thảo đánh giá 2
  6. việc thực hiện Bộ luật tố tụng và Luật phá sản của TAND tối cao năm 2007… Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong đó đề cập đến việc nghiên cứu thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật hiện hành, đánh giá pháp luật về phá sản ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, thực trạng thi hành luật phá sản, giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng luật phá sản. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên là cơ sở khoa học để tác giả kế thừa và phát triển trong đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu: luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản và thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó tìm ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quản lý và thanh lý tài sản phá sản, tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, người lao động và doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm sáng tỏ lý luận về quản lý và thanh lý tài sản phá sản, sự cần thiết của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản. - Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý và thanh lý tài sản phá sản và thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản ở Việt Nam, góp phần tăng tính khả thi của pháp luật phá sản. 4. Phạm vi nghiên cứu luận văn 3
  7. Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản lý và thanh lý tài sản phá sản, làm rõ thực trạng của pháp luật Việt Nam về quản lý và thanh lý tài sản phá sản, thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp và sử dụng số liệu thống kê, phương pháp so sánh luật để giải quyết những vấn đề cơ bản của luận văn. 6. Những đóng góp mới của luận văn Thời gian gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu pháp luật phá sản ở nhiều khía cạnh khác nhau, chủ yếu tập trung nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải quyết phá sản; vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng luật phá sản…Luận văn: “Pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản qua thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội” nghiên cứu cụ thể về quản lý và thanh lý tài sản phá sản từ thực tiễn giải quyết phá sản tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội- cả nước. Từ những phân tích, đánh giá pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản, tác giả sẽ đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định về quản lý và thanh lý tài sản phá sản nói riêng và hoàn thiện LPS nói chung. 4
  8. 7. Cấu trúc của luận văn Nội dung luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý và thanh lý tài sản phá 1.1 Khái niệm tài sản phá sản và mối quan hệ giữa quản lý và thanh lý tài sản phá sản 1.2 Sự cần thiết của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản Chương 2: Pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản và thực tiễn áp dụng tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý và thanh lý tài sản phá sản 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản tại Toà án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 3:Hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản 3.1 Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản 3.2 Những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản. 5
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ THANH LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN 1.1 Khái niệm tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và mối quan hệ giữa quản lý và thanh lý tài sản phá sản 1.1.1 Khái niệm tài sản phá sản a. Khái niệm tài sản Tài sản theo Điều 163 Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam (sau đây gọi là BLDS) bao gồm “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. So với thuật ngữ “vật có thực” theo quy định của BLDS 1995 thì “vật” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng hơn, bao gồm vật đang có và vật sẽ được hình thành trong tương lai. Sự thay đổi trong quy định như vậy là phù hợp với nhu cầu về giao dịch dân sự trong nền kinh tế thị trường. Không phải chỉ những vật đang hiện hữu mà những vật đang được hình thành như: máy móc đang lắp ráp, nhà đang xây, thuyền đang đóng…cũng được coi là tài sản và có thể là đối tượng của giao dịch. “Tài sản” ở đây còn bao gồm “tiền”; Tiền trong kinh tế học được hiểu là thứ đại diện cho giá trị của hàng hoá và dịch vụ, là phương tiện lưu thông trong giao dịch dân sự. Như vậy, tiền giữ vai trò rất quan trọng và được coi là tài sản đặc biệt, nó có chức năng là phương tiện thanh toán, phương tiện tính toán và là phương tiện tích luỹ. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm ổn định giá trị của đồng tiền và có các quy định chặt chẽ trong việc phát hành tiền và hạn chế quyền định đoạt tiền của chủ sở hữu. Ngoài ra, “tài sản” còn bao gồm “giấy tờ có giá”, tuy nhiên chỉ những giấy tờ có giá là đối tượng của giao dịch dân sự và trong thời hạn lưu thông mới 6
  10. trở thành tài sản. Các loại giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu…, chúng đều có một mệnh giá nhất định. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, giấy tờ có giá là phương tiện thanh toán tiện lợi, hiệu quả và khá an toàn nên ngày càng được sử dụng rộng rãi. , “quyền tài sản” cũng là một nội dung của “tài sản”. Theo Điều 182 BLDS năm 2005, quyền tài sản “là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Có thể thấy rằng nội dung “tài sản” theo pháp luật Việt Nam hiện hành khá rộng, bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Nhưng các nhà làm luật khi đưa ra khái niệm “tài sản” trong BLDS 2005 cũng như nhiều khái niệm trong các văn bản quy phạm pháp luật khác còn thể hiện dưới dạng liệt kê nên khi có sự thay đổi nhất định trong đời sống kinh tế- xã hội thì nó trở nên thiếu sót. Vì vậy, khi đưa ra các khái niệm nói riêng và xây dựng luật nói chung, nhà làm luật cần có quy định theo hướng mở để phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. b. Khái niệm tài sản phá sản. Pháp luật các nước khác nhau có quan niệm không giống nhau về tài sản phá sản (TSPS). Luật phá sản Đức xác định TSPS dựa trên loại hình tài sản được phân loại là động sản hay bất động sản, tài sản vô hình hay hữu hình [52]; Luật phá sản của Mỹ coi TSPS hiện có của doanh nghiệp phản ánh trên sổ sách kế toán tại thời điểm mở thủ tục phá sản, tài sản thu hồi được tự việc xiết nợ [63]. Luật Phá sản Nhật Bản chỉ coi TSPS của doanh nghiệp nằm trong lãnh thổ quốc gia, không tính đến tài sản của doanh nghiệp ở nước ngoài [60]; Nga thì coi cả tài sản phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản nằm trong khối TSPS [61]. Nhìn chung, toàn bộ sản nghiệp của doanh nghiệp, hợp tác xã (sau đây 7
  11. gọi chung là DN) sau khi có quyết định thụ lý vụ phá sản của toà án hợp thành một khối, gọi là TSPS. Pháp luật phá sản Việt Nam không đưa ra khái niệm TSPS mà chỉ có quy định về tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản. Điều 19 Luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định: “Tài sản của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp hoặc thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp Nhà nước), trong đó gồm : 1. Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp đang có ở doanh nghiệp; 2. Tiền hoặc tài sản góp vốn, liên doanh, liên kết với cá nhân, doanh nghiệp hoặc tổ chức khác; 3. Tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp mà cá nhân, tổ chức doanh nghiệp khác đang nợ hoặc chiếm đoạt; 4. Tài sản mà doanh nghiệp đang cho thuê hoặc cho mượn; 5. Các quyền về tài sản. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân còn bao gồm cả tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh.” LPS 2004, theo Điều 49: “1. Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: - Tài sản và quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; - Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; 8
  12. - Tài sản là vật đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã. Trường hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo đảm nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; - Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai. 2. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản bao gồm tài sản quy định tại khoản 1 Điều này và tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành ng vào hoạt động kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh đó được chia theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định có liên quan.” Như vậy, so với quy định của LPS doanh nghiệp 1993, LPS đã quy định thời điểm xác định tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản sớm hơn và quy định phạm vi rộng hơn, rõ ràng hơn về tài sản đó. Tài sản của DN được xác định tại thời điểm “toà án thụ lý đơn” chứ không phải là thời điểm toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản. , khối TSPS sẽ được bảo đảm hơn khi lâm vào tình trạng phá sản có DN cố tiêu dùng thật nhiều nếu không cũng bị thu hồi ; một số khác thì có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản. Theo LPS, lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng được coi là nằm trong khối TSPS. Như vậy, dù là tài sản đó hình thành trong tương lai nhưng giao dịch để tạo cho DN có được tài sản đó xác lập trước khi toà án thụ lý đơn nên cũng cần 9
  13. đưa vào khối TSPS nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của DN. Bên cạnh đó, có thể thấy luật đưa ra phạm vi TSPS rất rộng: trường hợp thanh toán tài sản là vật đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của DN cho các chủ nợ có đảm bảo mà vật bảo đảm có giá trị vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Ngoài ra, quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã cũng nằm trong khối TSPS và được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai. Nhìn một cách khái quát, nhà làm luật Việt Nam dường như đồng nhất khái niệm tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản với khái niệm TSPS. Tuy vậy, có thể nhận thấy phạm vi TSPS rộng hơn khái niệm tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản. Nếu Luật phá sản doanh nghiệp 1993 chỉ đề cập đến tài sản có trong khối TSPS thì theo LPS, TSPS bao gồm tài sản có và tài sản nợ của DN lâm vào tình trạng phá sản. Trong tài sản có của doanh nghiệp, ngoài tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản, còn có các tài sản khác, như: tài sản hình thành trong giai đoạn thanh lý tài sản, tài sản thu hồi được từ những giao dịch vô hiệu mà DN thực hiện trong khoảng thời gian nhất định, tài sản có được trong quá trình DN phục hồi hoạt động kinh doanh. Bằng cách đưa ra các quy định để DN có thể bằng nhiều cách thức làm tăng khối TSPS, LPS đã phần nào thực hiện được mục tiêu của mình. Có thể hiểu: TSPS là toàn bộ tài sản có và tài sản nợ của DN tính từ thời điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho đến khi giải quyết xong vụ việc phá sản. Trong quá trình giải quyết phá sản, việc xác định đúng, đầy đủ các tài sản của DN có ý nghĩa rất quan trọng. Theo quy định 1 49 LPS, tài sản của DN có bốn nhóm chính và phạm vi khối TSPS khá rộng. Tuy nhiên, với các quy định mang tính liệt kê như vậy sẽ rất 10
  14. dễ bỏ qua một số tài sản mà lẽ ra có thể thu hồi và thanh lý để thanh toán nghĩa vụ cho chủ nợ. Chẳng hạn, ng i Điều 49 LPS thì tài sản thu được từ các giao dịch vô hiệu hoặc thu được từ các giao dịch không công bằng của con nợ, tài sản và quyền tài sản mà con nợ có được sau ngày mở thủ tục phá sản cũng nên coi là tài sản có thể thu hồi để thực hiện nghĩa vụ của DN. , việc thực hiện thu hồi loại tài sản trên thực tế sẽ rất khó khăn vì luật quy định. Bên cạnh đó, LPS khi đưa ra quy định về phạm vi khối TSPS cũng không đưa ra danh mục các tài sản thuộc diện loại trừ khỏi khối TSPS. Trong khi đó, nếu xét ở khía cạnh nhân đạo và thông lệ chung của quốc tế thì trường hợp con nợ là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh thì pháp luật cũng phải xác định tài sản miễn trừ khi giải quyết phá sản đối với đối tượng này. Theo pháp luật một số nước, tài sản loại trừ là đồ dùng sinh hoạt thiết yếu, các khoản đền bù thất nghiệp, chăm sóc y tế, trợ cấp đối với việc nuôi con… Ngoài ra, có thể thấy rằng LPS cũng không đề cập đến tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản nằm ở nước ngoài. Tuy nhiên, nếu luật quy định thì sẽ phải kèm theo đó là quy chế giám sát, quản lý, thu hồi…, mà việc đó thì không dễ dàng, mà không tính đến phần tài sản đó (nếu có), thì lại là thiếu sót đáng kể trong các quy định pháp luật về phá sản, vì đôi khi tài sản đó rất lớn. 1.1.2 Mối quan hệ giữa quản lý và thanh lý tài sản phá sản Khi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ n những thời cơ, nền kinh tế thị trường đồng thời đã tạo ra những thách thức mới, buộc các nhà kinh doanh phải có những kiến thức về kinh doanh cũng như pháp luật để trụ vững trong bối cảnh kinh tế đầy cạnh tranh khốc liệt. Bước vào con đường kinh doanh, không 11
  15. một nhà kinh doanh nào muốn doanh nghiệp cũng như sản nghiệp của mình bị gặp khó khăn, thua lỗ. Nhưng theo quy luật của cạnh tranh, có thành công thì cũng có thể thất bại, bên cạnh hàng loạt doanh nghiệp mới thành lập thì cũng sẽ có những doanh nghiệp rút lui khỏi nền kinh tế thị trường . Trong quá trình hoạt động kinh doanh có thể vì lý do nào đó mà DN không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu và lâm vào tình trạng phá sản, nếu không phục hồi được hoạt động kinh doanh thì sẽ bị tuyên bố phá sản. Khi đó sản nghiệp của họ sẽ bị thu hồi để thanh toán các nghĩa vụ tài sản cho các chủ nợ, người lao động, nhà nước…Trong tình trạng như vậy, DN có thể có hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Nếu để DN tiếp tục quản lý khối tài sản của họ mà không có sự kiểm tra, giám sát của một cơ quan, tổ chức hay một nhóm người nào đó thì khối tài sản đó khó có thể được bảo toàn và hậu quả tất yếu sẽ làm các chủ nợ thiệt hại về tài sản. Vì vậy, việc thành lập một thiết chế để đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ và quy định cho nó một địa vị pháp lý là rất cần thiết [55]. Quản lý tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản là một trong những vấn đề cơ bản mà Luật phá sản các nước đều phải đề cập tới với mục đích cơ bản là làm cho khối tài sản của con nợ được sử dụng một cách hợp lý, đúng pháp luật. Người quản lý tài sản, trong một số trường hợp có thể thay thế cả người quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của con nợ. Luật phá sản Estonia trao hầu hết các quyết định quan trọng cho chủ nợ và người quản lý tài sản độc lập, giảm thiểu vai trò của các cơ quan chức trách nhà nước. Luật này quy định rằng hầu hết các vụ phá sản sẽ dẫn tới thanh lý, không những vậy luật còn quy định một chương về vấn đề thoả hiệp đơn giản nhưng công bằng làm giải pháp thay thế. Bộ luật cho phép một cách rõ ràng người quản 12
  16. lý tài sản thu hồi các khoản tiền cho chủ nợ ngay trước khi phá sản và thúc đẩy nhanh việc thanh toán sớm cho chủ nợ là những người thân cận của bên mắc nợ (chẳng hạn như các cán bộ hoặc họ hàng) [73]. Pháp luật phá sản Thuỵ Điển, sau khi xác định con nợ đã mất khả năng thanh toán, có quyết định mở thủ tục phá sản thì Toà án sẽ bổ nhiệm quản tài viên. Quản tài viên có thẩm quyền rất rộng trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, nhưng không có quyền can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý điều hành hoạt động của doanh nghiệp vẫn thuộc ban lãnh đạo doanh nghiệp [50]. Theo Luật phá sản doanh nghiệp 1993, việc (QLTLTS) của DN lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện bởi hai Tổ khác nhau: Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh lý tài sản. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, việc QLTLTS được giao cho một nhóm người, gọi là Tổ quản lý và thanh lý tài sản (TQLTLTS). Tổ này được thành lập theo quyết định của Toà án, hoạt động dưới sự kiểm tra của Thẩm phán và chịu trách nhiệm trước Thẩm phán. Quản lý tài sản là hoạt động kê biên toàn bộ tài sản hiện có của DN lâm vào tình trạng phá sản; giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của DN; thực hiện các biện pháp bảo toàn, thu hồi tài sản của DN, HTX để tài sản đó không bị cất giấu, tẩu tán nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của DN, HTX. Thanh lý tài sản là việc xử lý tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, thu hồi tài sản còn lại của nó để thanh toán cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Vậy khối tài sản của DN có sau khi trừ đi phần tài sản nợ còn lại sẽ được xử lý để trả cho các chủ nợ. TQLTLTS tiến hành bán đấu giá tài sản, gửi các khoản tiền thu được từ DN gửi vào tài khoản tại ngân hàng, tiến hành phương án phân chia tài sản, thi hành các quyết định khác của Thẩm phán 13
  17. trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của Thẩm phán, việc phân chia giá trị tài sản DN theo thứ tự nhất định: Phí phá sản; Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội… cho người lao động; Các khoản nợ không có đảm bảo phải trả cho các chủ nợ t : nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình, nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán thì mỗi chủ nợ được thanh toán một phần theo tỷ lệ tương ứng, nếu sau khi thanh toán đủ cho các chủ nợ mà vẫn còn thừa thì phần đó thuộc về xã viên hợp tác xã, chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên của công ty, các cổ đông của công ty cổ phần, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Khi Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản thì theo quy định của pháp luật các chủ thể trên sẽ tham gia vào quá trình đòi nợ tập thể. Các chủ nợ sẽ gửi giấy đòi nợ, TQLTLTS lập danh sách chủ nợ và việc thanh lý tài sản dựa trên danh sách này. Khi Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với DN thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh lý được coi là đã đến hạn và được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi thời gian chưa đến hạn; các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó, nếu giá trị tài sản đảm bảo ít hơn khoản nợ thì phần còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản, nếu tài sản đảm bảo lớn hơn khoản nợ thì phần còn lại sẽ được nhập vào tài sản của DN để thanh toán các nghĩa vụ khác. Có thể thấy rằng Thẩm phán đóng vai trò rất lớn trong việc tiến hành thủ tục phá sản nói chung và quản lý, thanh lý tài sản nói riêng, cùng với Thẩm phán là nhiệm vụ quan trọng của TQLTLTS và cả sự tham gia của con nợ. Do vậy, nếu thành phần của TQLTLTS là những người có kiến thức 14
  18. chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực phá sản thì sự phối hợp với các chủ thể khác mới hiệu quả. Pháp luật phá sản Việt Nam về thành phần của Tổ này vẫn chưa phù hợp nên thực tiễn vẫn còn những khó khă . Mặc dù quản lý và thanh lý tài sản có những điểm khác biệt nhất định về đối tượng và phương thức thực hiện nhưng đều do một chủ thể tiến hành với những quyền và nghĩa vụ nhất định được pháp luật quy định, mục đích của QLTLTS là nhằm bảo vệ quyền về tài sản cho các chủ nợ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, bảo vệ lợi ích của DN lâm vào tình trạng phá sản và góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, đảm bảo trật tự, kỷ cương xã hội. Khi việc quản lý tài sản được thực hiện tốt, tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản được bảo toàn, không bị cất giấu, tẩu tán thì hoạt động thanh lý tài sản sẽ được thực hiện đúng pháp luật, giải quyết một cách ổn thoả quyền lợi của các chủ nợ. Nếu hai hoạt động này được phối hợp một cách thống nhất và đồng bộ thì khi thực hiện sẽ đạt được hiệu quả cao, góp phần thực hiện mục tiêu của Luật phá sản. 1.2 Sự cần thiết của pháp luật về quản lý và thanh lý tài sản phá sản QLTLTS . , 15
  19. QLTLTS . . TQLTLTS . , QLTLTS . QLTLTS . , QLTLTS . Bên cạnh việc đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ , pháp luật về phá sản cũng bảo vệ cho lợi ích của chính . Kể từ khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, mọi hoạt động kinh doanh của DN vẫn tiến hành bình thường, có sự giám sát, kiểm tra của Thẩm phán. khi có quyết 16
  20. định mở thủ tục phá sản, các chủ nợ không được tự mình đòi nợ DN, DN không được tự mình thanh toán các khoản nợ mà việc . Nếu sau khi thanh lý tài sản và trả cho các chủ nợ theo thứ tự ưu tiên mà tài sản của DN đã hết thì khoản chưa được thanh toán hay chưa được thanh toán đầy đủ cũng xem như đã được thanh toán hết và chủ nợ cũng không có quyền đòi nợ DN nữa (trừ trường hợp DN đó là doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh). Hơn nữa, ngay cả khi Toà án đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì DN cũng vẫn có thể có cơ hội khôi phục lại hoạt động kinh doanh của mình, thoát khỏi tình trạng phá sản, thanh toán được các khoản nợ và tiếp tục tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo PGS-TS Dương Đăng Huệ: Pháp luật phá sản chưa quy định cơ chế để các con nợ tự tiến hành phục hồi khi lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Theo quy định hiện nay thì chỉ khi nào con nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và được Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản thì mới có quyền được áp dụng cơ chế phục hồi. Như vậy, thủ tục phục hồi chỉ có thể được tiến hành trong quá trình toà án tiến hành giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quy định này buộc các con nợ phải tiến hành thủ tục phục hồi dưới sự kiểm soát của toà án, do đó chưa thực sự khuyến khích các DN nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Để bảo đảm tính chủ động hơn cho các con nợ thì cần có một cơ chế cho phép con nợ khi thấy mình lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính thì có thể chủ động nộp đơn đến Toà án để được áp dụng các biện pháp bảo vệ đặc biệt; và con nợ tự tiến hành thủ tục phục hồi sau khi đã thoả thuận với các chủ nợ mà không cần sự giám sát của toà án [56]. , QLTLTS . 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0