intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

68
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung làm rõ những khái niệm: Tự chủ tài chính, pháp luật tự chủ tài chính và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về tự chủ tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam

  1. 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1 ................................................................................................... 9 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ............................................................................. 9 ÁP DỤNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU .......................... 9 1.1. Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ........................... 9 1.1.1. Khái niệm chung về đơn vị sự nghiệp có thu ................................. 9 1.1.2. Lý luận chung về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu.................................................................................................... 17 1.2. Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ............................................................................................................ 26 1.2.1. Sự cần thiết khách quan của việc điều chỉnh bằng pháp luật vấn đề tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu ............................... 26 1.2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt nam ................................................ 30 1.2.3. Nội dung pháp luật về quyền tự chủ tài chính áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam ...................................................... 41 CHƢƠNG 2 ................................................................................................. 50 THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TRONG CÁC ĐƠN VỊ ............................................ 50 SỰ NGHIỆP CÓ THU Ở VIỆT NAM.......................................................... 50 2.1. Thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam trong thời gian qua ................................................................ 50 2.2. Những định hƣớng hoàn thiện pháp luật tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ............................................................................ 67 2.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu ...................................................................... 77 KẾT LUẬN .................................................................................................. 85 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đơn vị sự nghiệp là những tổ chức đƣợc thành lập để thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Những hoạt động này nhằm duy trì và bảo đảm sự hoạt động bình thƣờng của xã hội, mang tính chất phục vụ là chủ yếu, không vì mục tiêu
  2. 2 lợi nhuận. Các tổ chức này đƣợc thành lập nhằm thực hiện các hoạt động sự nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau nhƣ y tế, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học kỹ thuật, văn hoá, thể dục thể thao… Thực tế ở Việt nam cho thấy, các đơn vị sự nghiệp đƣợc thành lập bởi các chủ thể khác nhau nhƣ Nhà nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội… Ở Việt Nam, đơn vị sự nghiệp có nhiều loại. Đó là, các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên, đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thƣờng xuyên và đơn vị sự nghiệp không có thu hoặc có số thu không đáng kể. Những đơn vị sự nghiệp do Nhà nƣớc quyết định thành lập và trong quá trình hoạt động sự nghiệp đƣợc phép thu phí để bù đắp một phần hay toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên đƣợc gọi là đơn vị sự nghiệp có thu công lập. Trong thời gian qua, các đơn vị này đã có nhiều đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Nhà nƣớc đã ban hành nhiều quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các đơn vị, từng bƣớc tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động. Sự ra đời của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập là sự cụ thể hóa nội dung cải cách tài chính công, một trong bốn nội dung của chƣơng trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nƣớc giai đoạn 2001-2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTG ngày 17/01/2001 của Thủ tƣớng Chính phủ). Các văn bản pháp luật hiện hành đã đáp ứng đƣợc phần nào mục tiêu đổi mới phƣơng thức quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu, tạo môi trƣờng pháp lý thuận lợi cho các đơn vị chủ động tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính, hoàn thành nhiệm vụ đƣợc
  3. 3 giao, phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lƣợng cao cho xã hội; tăng nguồn thu nhằm từng bƣớc nâng cao thu nhập cho ngƣời lao động; thực hiện chủ trƣơng xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội; huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bƣớc xóa bỏ bao cấp từ Ngân sách Nhà nƣớc. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, các văn bản quy phạm pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu đã bộc lộ những bất cập nhƣ còn tản mạn, không đồng bộ, chắp vá, thiếu tính thống nhất. Chẳng hạn, Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu công lập và Thông tƣ số 25/2002/TT-BTC ngày 21/02/2002 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP chỉ đề cập đến quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Đối với các đơn vị sự nghiệp có nguồn thu thấp, chƣa có văn bản quy pháp luật nào điều chỉnh. Ngoài Nghị định số 10/2002/NĐ-CP quy định về chế độ tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu công lập, còn có các Nghị định khác quy định chế độ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong các lĩnh vực khác nhƣ Nghị định số 115/NĐ-CP/2005 ngày 05/09/2005 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/08/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao… Trong đó, các quy định thiếu sự thống nhất gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Mặt khác, các văn bản quy pháp luật quy định chế độ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu hiện nay có hiệu lực pháp lý thấp, chủ yếu là các Nghị định do Chính phủ ban hành, Thông tƣ do các Bộ quản lý ngành ban hành. Cụ thể, văn bản quy pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực này là Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về
  4. 4 chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, Nghị định số 115/NĐ- CP/2005 ngày 05/09/2005 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính trong các đơn vị sự nghiệp công lập… Ngoài ra, phải kể đến số lƣợng không nhỏ các Thông tƣ do các Bộ ban hành nhằm hƣớng dẫn thực hiện các Nghị định nói trên nhƣ: Thông tƣ số 25/2002/TT-BTC ngày 21/02/2002, Thông tƣ số 71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính, Thông tƣ liên tịch số 22/2003/TTLT-BTC- BKHCN-BNV ngày 24/03/2003 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động có thu… Thực tế cho thấy, các văn bản quy phạm pháp luật trên chƣa thực sự phát huy vai trò của mình trong việc chuyển đổi phƣơng thức quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu. Bên cạnh đó, một số quy định chƣa phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Nhiều quy định về chế độ thu phí trong lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo… đã trở nên lạc hậu, không tạo điều kiện cho các đơn vị thực hiện quyền tự chủ tài chính (nội dung này sẽ đƣợc phân tích trong Luận văn). Những bất cập của hệ thống pháp luật về quyền và tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu ít nhiều đã gây cản trở cho công cuộc cải cách hành chính Nhà nƣớc nói chung và cải cách tài chính công nói riêng. Xuất phát từ vai trò của hoạt động sự nghiệp, từ nhu cầu khách quan đổi mới phƣơng thức quản lý tài chính và thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu, việc bổ sung, sửa đổi và từng bƣớc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài " Pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam" để làm luận văn tốt nghiệp của mình, hy vọng đƣợc đóng góp một số ý kiến nhỏ trong quá
  5. 5 trình hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu công lập ở nƣớc ta. 2. Tình hình nghiên cứu Tự chủ tài chính là một phạm trù khá mới. Việc giao quyền tự chủ tài chính cho đơn vị sự nghiệp có thu mới đƣợc triển khai áp dụng ở nƣớc ta từ năm 2002. Các công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề này còn khá khiêm tốn, trong đó đáng chú ý là đề tài cấp Bộ năm 2004 "Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu trong lĩnh vực giáo dục, y tế và văn hoá" của tiến sỹ Nguyễn Ngô Thị Hoài Thu. Công trình nghiên cứu này đã phân tích những thành công của việc giao quyền tự chủ tài chính đối với một số đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực y tế, giáo dục đƣợc chọn thí điểm áp dụng. Đồng thời, đánh giá những hạn chế trong các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu công lập và Thông tƣ số 25/2002/TT-BTC ngày 21/02/2002 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ- CP. Tiếp đó, PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền đã chủ trì đề tài cấp Bộ năm 2005 "Cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu và giải pháp đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập". Công trình nghiên cứu này đã mở rộng phạm vi nghiên cứu, khẳng định việc giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu công lập của Nhà nƣớc là chủ trƣơng hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay. Đồng thời, đƣa ra những giải pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị này. Ngoài ra, phải nhắc đến đề tài cấp cơ sở năm 2004 "Cơ chế tài chính đối với các viện nghiên cứu hoạt động theo mô hình sự nghiệp khoa học có thu" của Th.S Nguyễn Văn Thuyết. Công trình này đi sâu phân tích các
  6. 6 quy định của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu công lập hoạt động trong lĩnh vực khoa học – kỹ thuật ở Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về chế độ tài chính của các Viện nghiên cứu, công trình đã đƣa ra các đề xuất sửa đổi các quy định hiện hành nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị này có thể thực hiện quyền tự chủ ở mức cao nhất. Bên cạnh đó, tác giả Hoàng Minh Hảo thực hiện thành công đề tài cấp cơ sở năm 2004 "Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu". Tác giả đi sâu phân tích thực trạng sử dụng các nguồn tài chính trong hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu theo quy định của Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ. Đồng thời, có các kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính trong hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung. Nhìn chung, các công trình khoa học đó chỉ mới phân tích, đánh giá dƣới góc độ kinh tế - tài chính để rút ra kết luận chủ trƣơng giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu là hoàn toàn đúng đắn; nêu những bất cập trong cơ chế tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu và giải pháp đổi mới cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Các công trình đó chƣa đề cập tới thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu cũng nhƣ những thuận lợi, khó khăn trong áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Trong lĩnh vực pháp lý, Tiến sỹ luật học Nguyễn Thị Thƣơng Huyền đã đề cập tới một số vƣớng mắc trong áp dụng pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu và hƣớng nghiên cứu hoàn thiện trong bài viết đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 12/2004 "Những vấn đề pháp lý đặt ra khi áp dụng cơ chế tự chủ về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu và hướng nghiên cứu hoàn thiện". Tuy nhiên, vấn đề chỉ đƣợc bàn đến một cách khái quát trong khuôn khổ một bài báo.
  7. 7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nhƣ tên đã trình bày, đơn vị sự nghiệp có thu bao gồm nhiều loại. Song, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu công lập, tức là các đơn vị sự nghiệp đƣợc các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền quyết định thành lập và trong quá trình hoạt động sự nghiệp đƣợc phép thu phí để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Đề tài không đề cập tới các quy định về quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu ngoài công lập cũng nhƣ các đơn vị sự nghiệp công lập nhƣng không có thu. Trong quản lý tài chính, đơn vị sự nghiệp có thu chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau, nhiều nhóm chế định pháp luật khác nhau, đề tài chỉ nghiên cứu chế độ pháp lý có liên quan trực tiếp tới việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu nhƣ nội dung chủ yếu của chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu; thực trạng chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu; phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý trong lĩnh vực này. Đề tài cũng chỉ tập trung nghiên cứu chế độ pháp lý về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu mô hình tự chủ tài chính của một số nƣớc trên thế giới. 4. Mục đích nghiên cứu Với những nội dung đƣợc đề cập trong Luận văn, trƣớc hết tập trung làm rõ những khái niệm: tự chủ tài chính, pháp luật tự chủ tài chính và phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về tự chủ tài chính ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, mong muốn đƣợc đóng góp một phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010.
  8. 8 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, đặc biệt là các phƣơng pháp: duy vật lịch sử, phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, điều tra, thu thập số liệu, mô tả và khái quát hóa đối tƣợng nghiên cứu. 6. Kết cấu của Luận văn MỞ ĐẦU CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ÁP DỤNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU 1.1. Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu 1.2. Pháp luật về tự chủ tài chính áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp có thu CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam trong thời gian qua 2.2. Những định hƣớng hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu 2.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp có thu KẾT LUẬN
  9. 9 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ÁP DỤNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU 1.1. Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu 1.1.1. Khái niệm chung về đơn vị sự nghiệp có thu 1.1.1.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp có thu Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế và thực hiện chƣơng trình cải cách hành chính, Nhà nƣớc ta đã có nhiều giải pháp nhằm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, nâng cao chất lƣợng quản lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực của đất nƣớc, thực thi các biện pháp bảo đảm xã hội. Trong đó, đã có những quy định khẳng định địa vị pháp lý của các đơn vị sự nghiệp. Đặc biệt, là các quy định pháp luật về quyền tự chủ áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu. Đơn vị sự nghiệp là những tổ chức đƣợc thành lập để thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Những hoạt động này nhằm duy trì và bảo đảm sự hoạt động bình thƣờng của xã hội, mang tính chất phục vụ là chủ yếu, không vì mục tiêu lợi nhuận. Trong quá trình hoạt động, một số đơn vị sự nghiệp đƣợc phép thu phí để bù đắp một phần hay toàn bộ chi phí hoạt động, đƣợc gọi là đơn vị sự nghiệp có thu. Đơn vị sự nghiệp có thu có các đặc điểm sau: Thứ nhất, đơn vị sự nghiệp có thu là một tổ chức hoạt động theo nguyên tắc phục vụ xã hội. Trong nền kinh tế thị trƣờng, các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra đều có thể trở thành hàng hóa cung ứng cho mọi thành phần trong
  10. 10 xã hội. Việc cung ứng các hàng hóa này cho thị trƣờng chủ yếu không vì mục đích lợi nhuận nhƣ hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nƣớc tổ chức, duy trì và tài trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho thị trƣờng trƣớc hết nhằm thực hiện vai trò của Nhà nƣớc trong việc phân phối lại thu nhập. Mặt khác, nhằm thực hiện các chính sách phúc lợi công cộng của Nhà nƣớc khi can thiệp vào thị trƣờng. Nhờ đó, sẽ hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực kinh tế hoạt động bình thƣờng. Đồng thời, nâng cao dân trí, bồi dƣỡng nhân tài, bảo đảm nguồn nhân lực, thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển, bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống, sức khỏe, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Thứ hai, những sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp có thu là sản phẩm mang lại lợi ích chung, có tính bền vững và gắn bó hữu cơ với quá trình tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần. Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá trị về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội... Đây là những sản phẩm vô hình và có thể đƣợc sử dụng cho nhiều đối tƣợng trên phạm vi rộng. Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm của đơn vị sự nghiệp là sản phẩm có tính phục vụ, không chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh vực nhất định. Mặt khác, các hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu chủ yếu tạo ra các hàng hóa công cộng ở dạng vật chất và phi vật chất. Các sản phẩm này phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình tái sản xuất xã hội. Cũng nhƣ các hàng hóa khác, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có giá trị và giá trị sử dụng. Tuy nhiên, các sản phẩm này có điểm khác biệt là nó có giá trị xã hội cao. Do đó, các sản phẩm, dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc nhiều ngƣời cùng sử dụng và tái sử dụng đƣợc trên phạm vi rộng. Hàng hóa công cộng có hai đặc điểm là không loại trừ và không tranh giành [30. tr 862]. Nói cách khác, đó là những hàng hóa mà không ai có thể loại trừ những ngƣời tiêu dùng khác ra khỏi việc sử dụng nó. Đồng thời, việc
  11. 11 sử dụng hàng hoá của ngƣời này không loại trừ việc sử dụng hàng hoá đó của ngƣời khác. Việc sử dụng những hàng hóa công cộng do hoạt động sự nghiệp tạo ra làm cho quá trình sản xuất của cải vật chất đƣợc thuận lợi và ngày càng đạt hiệu quả cao. Chẳng hạn, hoạt động sự nghiệp giáo dục, y tế, thể dục thể thao đem lại tri thức và bảo đảm sức khỏe cho lực lƣợng lao động, tạo điều kiện cho lao động có chất lƣợng ngày càng tốt hơn. Hay, hoạt động sự nghiệp khoa học, văn học, văn hóa thông tin mang lại hiểu biết cho con ngƣời về tự nhiên, xã hội tạo ra những công việc mới phục vụ sản xuất và đời sống... Vì vậy, hoạt động sự nghiệp luôn gắn bó hữu cơ và tác động tích cực đến quá trình tái sản xuất xã hội. Thứ ba, hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp có thu luôn gắn liền với các chƣơng trình phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nƣớc và bị chi phối đáng kể bởi các chƣơng trình này. Với thẩm quyền của mình, Chính phủ luôn tổ chức, duy trì và bảo đảm các hoạt động sự nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Chính phủ đã và đang tổ chức, thực hiện các chƣơng trình mục tiêu quốc gia nhƣ: Chƣơng trình xóa mù chữ, Chƣơng trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Chƣơng trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, Chƣơng trình phòng chống AIDS, Chƣơng trình xóa đói giảm nghèo, Chƣơng trình phủ sóng phát thanh truyền hình... Những chƣơng trình mục tiêu quốc gia này chỉ có Nhà nƣớc mới có thể thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả. Thực tế hiện nay cho thấy, nếu để tƣ nhân thực hiện thì mục tiêu lợi nhuận sẽ lấn chiếm mục tiêu xã hội, dẫn đến hạn chế việc tiêu dùng sản phẩm hoạt động sự nghiệp. Từ đó, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Thực tế, hiện nay có nhiều loại đơn vị sự nghiệp hoạt động ở hầu hết các lĩnh vực và đƣợc thành lập bởi nhiều loại chủ thể khác nhau. Những đơn vị sự
  12. 12 nghiệp có thu đƣợc các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền quyết định thành lập đƣợc gọi là đơn vị sự nghiệp có thu công lập. Đơn vị sự nghiệp có thu công lập đƣợc xác định bởi các dấu hiệu cơ bản nhƣ sau: Thứ nhất, đơn vị sự nghiệp có thu do các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền quyết định thành lập. Căn cứ vào vị trí và phạm vi hoạt động, các đơn vị sự nghiệp có thu có thể do Thủ tƣớng Chính phủ hoặc Bộ trƣởng Bộ quản lý ngành hoặc Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng trực tiếp ra quyết định thành lập. Thứ hai, đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc Nhà nƣớc đầu tƣ cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí hoạt động thƣờng xuyên để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn đƣợc giao. Thứ ba, trong quá trình hoạt động, các đơn vị sự nghiệp này có thể đƣợc Nhà nƣớc cho phép thu một số khoản phí hoặc thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí hoạt động, tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức và bổ sung, tái tạo chi phí hoạt động thƣờng xuyên của đơn vị. Thứ tư, hoạt động của các đơn vị sự nghiệp này nhằm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cho xã hội. Nghĩa là các đơn vị này thực hiện hoạt động sự nghiệp đƣợc Nhà nƣớc ủy quyền, không nhằm mục đích sinh lợi. Thứ năm, đơn vị sự nghiệp có thu có tƣ cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. 1.1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu Các đơn vị sự nghiệp có thu công lập đƣợc thành lập, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Dựa vào các tiêu thức khác nhau, các đơn vị sự nghiệp này đƣợc chia thành các loại sau đây: Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, bao gồm:
  13. 13 - Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, phát thanh, truyền hình. Các đơn vị này có thể gồm: Trung tâm chiếu phim quốc gia, Nhà văn hoá, thƣ viện, bảo tồn, bảo tàng, đài phát thanh, đài truyền hình, trung tâm báo chí xuất bản… - Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, bao gồm các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân nhƣ các trƣờng mầm non, tiểu học, trƣờng phổ thông, cơ sở, phổ thông trung học, trƣờng trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, trƣờng cao đẳng, đại học, học viện, trung tâm đào tạo… - Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Các đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này gồm các viện nghiên cứu khoa học, trung tâm ứng dụng, chuyển giao công nghệ… - Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực thể dục thể thao. Trong lĩnh vực đặc thù này, các đơn vị sự nghiệp gồm có các trung tâm huấn luyện thể dục thể thao, liên đoàn, đội , câu lạc bộ thể dục thể thao… - Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực y tế. Lĩnh vực y tế là một trong các lĩnh vực hoạt động có liên quan đến mọi ngƣời dân trong xã hội. Hiện nay, các đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này có thể gồm các cơ sở khám, chữa bện nhƣ bệnh viện, phòng khám và các trung tâm điều dƣỡng, phục hồi chức năng… - Đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế nhƣ các viện thiết kế, quy hoạch đô thị, nông thôn, trung tâm bảo vệ rừng, cục bảo về thực vật, trung tâm nƣớc sạch và vệ sinh môi trƣờng, trung tâm dâu, tằm, tơ… Ngoài các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong các lĩnh vực trên, còn có các đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc các tổng công ty Nhà nƣớc. Căn cứ vào nguồn thu sự nghiệp, bao gồm:
  14. 14 - Đơn vị sự nghiệp có nguồn thu tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Đây là các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động. Nhà nƣớc không phải cấp kinh phí bảo đảm hoạt động thƣờng xuyên cho đơn vị. - Đơn vị sự nghiệp có nguồn thu tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Đây là đơn vị sự nghiệp có nguồn thu sự nghiệp, nhƣng chƣa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Các đơn vị này chỉ bảo đảm một phần chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Phần còn lại đƣợc Nhà nƣớc cấp. - Đơn vị sự nghiệp có nguồn thu thấp. Đây là các đơn vị sự nghiệp có số thu bảo đảm từ 10% trở xuống/ tổng số chi bảo đảm hoạt động thƣờng xuyên và chi hoạt động dịch vụ. Các đơn vị này và các đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu, theo chức năng, nhiệm vụ đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên. Căn cứ vào cấp quản lý, bao gồm: - Đơn vị sự nghiệp có thu do Trung ƣơng quản lý. Các đơn vị này đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền ở Trung quyết định thành lập, họat động ở các lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, Trung tâm chiếu phim quốc gia, Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam… - Đơn vị sự nghiệp có thu do địa phƣơng quản lý, ví dụ các nhà văn hoá quận, thành phố, tỉnh… 1.1.1.3. Phân biệt đơn vị sự nghiệp có thu với một số tổ chức khác: Trƣớc khi có Nghị định 10/CP/2002 của Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc quy định về địa vị pháp lý nhƣ các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc. Để có những quy định pháp luật phù hợp, cần thiết phải xác định rõ sự khác biệt giữa các đơn vị sự nghiệp nói chung và đơn vị sự nghiệp có thu nói riêng với các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc cũng nhƣ với một số tổ chức khác.
  15. 15 Phân biệt đơn vị sự nghiệp có thu với cơ quan hành chính Nhà nước Cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc là một bộ phận cấu thành của bộ máy Nhà nƣớc, có chức năng quản lý Nhà nƣớc. Các cơ quan này có chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nƣớc về các dịch vụ công, hoặc thực hiện cung cấp các dịch vụ hành chính công (cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh thƣ nhân dân, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất...). Các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công, không đòi hỏi ngƣời đƣợc phục vụ phải trả thù lao. Do đó, Nhà nƣớc phải cấp toàn bộ kinh phí để duy trì hoạt động của các cơ quan này. Hiện nay, trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc, các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc đƣợc phép thu một số loại phí, lệ phí và đƣợc coi là nguồn bổ sung kinh phí hoạt động. Tuy nhiên, số thu đó còn hết sức hạn chế. Kinh phí Nhà nƣớc cấp cho các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc bao gồm kinh phí hoạt động và các khoản chi đầu tƣ phát triển (chủ yếu là chi đầu tƣ xây dựng cơ bản). Các khoản kinh phí này thuộc về chi thƣờng xuyên nên mang tính ổn định cao, thể hiện tính chất tiêu dùng. Do đó, nội dung chi, cơ cấu chi, mức độ chi … đƣợc thực hiện theo các quy định chặt chẽ của Nhà nƣớc. Các đơn vị sự nghiệp có thu công lập là những đơn vị trực thuộc cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc, do cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc có thẩm quyền thành lập. Đơn vị sự nghiệp có thu cung cấp dịch vụ công về y tế, giáo dục, văn hóa thông tin, khoa học công nghệ, thể dục thể thao... và không có chức năng quản lý hành chính Nhà nƣớc. Đơn vị sự nghiệp có thu chỉ cung cấp dịch vụ công, chứ không cung cấp dịch vụ hành chính công. Phân biệt đơn vị sự nghiệp có thu với doanh nghiệp
  16. 16 Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đƣợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.[3, Điều 4, khoản 1] Bên cạnh các doanh nghiệp kinh doanh, Nhà nƣớc thành lập các doanh nghiệp thực hiện cung ứng các dịch vụ công ích. Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp này không hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận. Các doanh nghiệp có sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích ngoài các quyền và nghĩa vụ quy định chung cho các doanh nghiệp, đƣợc hạch toán và bù đắp chi phí theo giá thực hiện thầu hoặc thu phí sử dụng dịch vụ theo quy định tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Đƣợc bảo đảm thời hạn sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thích hợp để thu hồi vốn đầu tƣ và có lãi hợp lý. Sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ đủ số lƣợng, đúng chất lƣợng, thời hạn đã cam kết theo giá hoặc phí do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền quy định. Bảo đảm các điều kiện công bằng và thuận lợi nhƣ nhau cho mọi đối tƣợng khách hàng. Chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật và khách hàng về số lƣợng, chất lƣợng, điều kiện cung ứng và giá, phí sản phẩm, dịch vụ cung ứng. [3, Điều 10] Nhà nƣớc đầu tƣ vào sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thông qua hình thức giao kế hoạch, đặt hàng hoặc đấu thầu. Tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đƣợc bình đẳng tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, trừ trƣờng hợp đặc biệt do Chính phủ quy định.[4, Điều 69] Nhƣ vậy, đơn vị sự nghiệp có thu chỉ thực hiện cung ứng dịch vụ công, chứ không cung cấp dịch vụ công ích, phi lợi nhuận, có tính chất kinh tế nhƣ cung cấp điện, nƣớc, vệ sinh môi trƣờng, kết cấu hạ tầng... Dịch vụ này do doanh nghiệp thực hiện theo yêu cầu của Nhà nƣớc để phục vụ nhân dân. Phân biệt đơn vị sự nghiệp có thu với các đơn vị dự toán khác
  17. 17 Đảng Cộng sản Việt Nam; các tổ chức chính trị - xã hội nhƣ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt Nam... Tuy rằng, quy chế pháp lý về quản lý tài chính của những đơn vị này đƣợc áp dụng nhƣ các đơn vị sự nghiệp, cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc. Nhƣng, đây là các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, không phải là các tổ chức đƣợc Nhà nƣớc quyết định thành lập. 1.1.2. Lý luận chung về quyền tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu 1.1.2.1. Khái niệm tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu Tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu là một phạm trù khá mới mẻ cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn. Tự chủ là tự quản lý, điều hành mọi công việc của mình, không bị ai chi phối [40, tr 990]. Tự chủ đƣợc đề cập ở nhiều lĩnh vực hoạt động của các chủ thể trong xã hội. Có thể là tự chủ của các doanh nghiệp về tổ chức, bộ máy, nhân sự, tài chính… Trong đó, vấn đề tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu công lập ở Việt Nam đƣợc bàn đến trong thời gian gần đây. [30, tr 867] Tài chính là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển trên cơ sở của nền kinh tế tiền tệ. Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm tài chính. Nhƣng, nhìn chung đều quan niệm tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính, thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. [36, tr 13]. Quan niệm về tài chính đƣợc xác định trƣớc hết từ những biểu hiện bên ngoài của nó. Đó là các hiện tƣợng thu, chi bằng tiền; là sự vận động của các nguồn tài chính thể hiện ở việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ
  18. 18 thể trong xã hội. Chính vì vậy, ngƣời dân thƣờng quan niệm tài chính là “tiền bạc và sự thu chi nói chung”, hay đó là “việc quản lý thu chi tiền bạc trong một tổ chức xã hội hay một nƣớc” [36, tr 14] Mọi hiện tƣợng thu chi bằng tiền của các chủ thể trong xã hội dù là Nhà nƣớc, doanh nghiệp, các tổ chức khác hay dân cƣ đều có đặc điểm chung là sự vận động của vốn tiền tệ. Trên thực tế, tài chính thể hiện sự vận động tƣơng đối của tiền tệ với hai chức năng cơ bản là phƣơng tiện thanh toán và phƣơng tiện cất trữ. Đặc trƣng riêng có của tài chính là luôn gắn với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định trong quá trình phân phối của cải xã hội. Sự phân phối của tài chính diễn ra ngay tại điểm tiếp giáp của lĩnh vực phân phối và trao đổi (hoặc phân phối và tiêu dùng) của quá trình tái sản xuất xã hội. Đó là khi việc thanh toán tiền mua, bán hàng hoá, dịch vụ đƣợc thực hiện, tạo thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Mặt khác, tài chính còn đƣợc xác định bởi nội dung kinh tế bên trong của nó. Đằng sau các quá trình thu chi bằng tiền ở các chủ thể, đã phản ánh các quan hệ kinh tế rất đa dạng trong quá trình phân phối của cải xã hội dƣới hình thức giá trị. Đó là sự thể hiện bản chất của tài chính. Nguồn tài chính là khả năng tài chính của các chủ thể có thể khai thác sử dụng nhằm đạt đƣợc các mục tiêu của mình. Nguồn tài chính của các chủ thể có thể là nguồn tài chính thực tế, đƣợc tồn tại dƣới dạng tiền tệ vận động trong quá trình kinh tế, hoặc có thể là nguồn tài chính tiềm năng, tồn tại dƣới dạng tài nguyên, bất động sản… Ngoài ra, đó có thể là nguồn tài chính vô hình nhƣ quyền sở hữu trí tuệ. Có nhiều quan điểm về tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu. Tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu là việc trao cho các đơn vị sự nghiệp quyền chủ động tổ chức quản lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài chính, chủ động tổ chức thực hiện công việc, tuyển
  19. 19 dụng lao động, cải thiện thu nhập, bảo đảm quan hệ hợp lý giữa thu nhập và chất lƣợng, hiệu quả công tác. [26] Tiến sỹ Vũ Đình Ánh, Viện Khoa học Tài chính cho rằng: Bản chất tự chủ của đơn vị sự nghiệp là quyền tự quyết định mọi vấn đề bên trong đơn vị, mọi quan hệ của đơn vị với bên ngoài trong khuôn khổ pháp luật đã quy định, phù hợp với tiến trình nâng cao dần tính tự chủ mà mức độ cao nhất là tự chủ hoàn toàn. [27] Nghĩa là cơ quan quản lý Nhà nƣớc chỉ giữ lại quyền quyết định thành lập, quyết định giải thể đơn vị sự nghiệp và quyết định bổ nhiệm Thủ trƣởng đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị này, bảo đảm số lƣợng và chất lƣợng các dịch vụ mà đơn vị sự nghiệp cung cấp cho xã hội. Theo chúng tôi, tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu là việc Nhà nước trao cho đơn vị sự nghiệp có thu quyền chủ động trong khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn tài chính nhằm nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp và tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức và người lao động trong đơn vị. Giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu cũng đồng nghĩa với việc giảm sự quản lý, sự can thiệp mang tính hành chính của các cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính đối với đơn vị, tạo điều kiện cho đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động trong thực hiện nhiệm vụ; tổ chức bộ máy, biên chế; tài chính. Nhà nƣớc chỉ quản lý đơn vị sự nghiệp có thu ở tầm vĩ mô. Các đơn vị tự quyết định và tự chịu trách nhiệm trƣớc Nhà nƣớc, trƣớc ngƣời sử dụng dịch vụ do đơn vị cung cấp về các hoạt động của mình. Nhƣ vậy, thực hiện quyền tự chủ tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có thu không có nghĩa là các đơn vị này phải hoàn toàn tự thu, tự chi. Đồng thời, tự chủ tài chính cũng không có nghĩa là tự do về tài chính. Pháp luật cho phép các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động trong việc huy động, tạo lập
  20. 20 nguồn thu và sử dụng có hiệu quả đối với các nguồn thu, từ đó đẩy mạnh sự phát triển của các hoạt động sự nghiệp, phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. 1.1.2.2. Nội dung của quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu Trên thực tế, quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu gắn liền với quyền tự chủ về nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy và biên chế. So với quyền tự chủ trong các hoạt động khác, quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây: Thứ nhất, các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động khai thác các nguồn thu và quyết định các khoản thu, mức thu trên cơ sở quy định của pháp luật. Nhìn chung, nguồn tài chính cơ bản của đa số các đơn vị sự nghiệp có thu là nguồn từ Ngân sách Nhà nƣớc. Thí dụ, các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong các lĩnh vực nhƣ: giáo dục, đào tạo; nghiên cứu khoa học; hoạt động văn hóa, thông tin; bảo vệ sức khỏe nhân dân; bảo vệ tài nguyên thiên nhiên... Ngoài nguồn tài chính do Ngân sách Nhà nƣớc cấp, do sự đặc thù của hoạt động sự nghiệp trong các lĩnh vực, một bộ phận đơn vị sự nghiệp đƣợc Nhà nƣớc cho phép khai thác mọi nguồn thu, bảo đảm cho các đơn vị có thể tự chủ trong hoạt động chi tiêu. Trong hoạt động thu, đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc quyền chủ động đối với các khoản thu thuộc nguồn thu sự nghiệp của đơn vị. Cụ thể: Đối với nguồn thu từ phí, lệ phí, đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền giao thu phí, lệ phí phải thực hiện thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tƣợng thu do Nhà nƣớc quy định. Trƣờng hợp Nhà nƣớc quy định khung mức thu, các đơn vị căn cứ vào nhu cầu chi phục vụ cho hoạt động, khả năng đóng góp của xã hội để quyết định mức thu cụ thể cho phù hợp với từng loại hoạt động sự nghiệp. Các đơn vị phải bảo đảm thu phí, lệ phí không
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2