Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
lượt xem 9
download
Luận văn làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, hình thức cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình. Đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam; phân tích, làm sáng tỏ những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế. Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình nói chung và phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH THỊ BÍCH UYÊN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH THỊ BÍCH UYÊN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH HÀ NỘI, năm 2019
- LỜI CẢM ƠN Luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Luật hành chính và Luật hiến pháp với đề tài “Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” được thực hiện tại Viện Khoa học xã hội đã hoàn thành đúng thời gian quy định. Cho phép tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô giáo, cán bộ quản lý học viện đã giảng dạy nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được tham gia nghiên cứu và học tập trong hai năm vừa qua. Để đạt được kết quả này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô giáo, Tiến sĩ Đỗ Thị Kim Định, người đã quan tâm, hướng dẫn tận tình cho tôi nghiên cứu khoa học và hoàn thành luận văn một cách nghiêm túc. Chân thành cảm ơn đến Lãnh đạo UBND huyện Phú Ninh tỉnh Quảng Nam đã quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện về thời gian và công việc để tôi tham gia và hoàn thành khóa học. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Sở Thông tin và Truyền thông, Ban giám đốc Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Quảng Nam và các phòng ban chuyên môn và các cơ quan liên quan của Tỉnh đã tạo điều kiện cho tôi trong việc thu thập tài liệu, thống kê số liệu góp phần làm cho luận văn bám sát thực tiễn và sâu sắc hơn. Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn!
- LỜI CAM ĐOAN - Nội dung luận văn là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo TS. Đỗ Thị Kim Định. - Mọi tài liệu tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng và trung thực tên tác giả, tên công trình, thời gian, địa điểm công bố. - Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. - Tôi xin cam đoan và chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài của mình. Tác giả Trịnh Thị Bích Uyên
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH........................................... 11 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình...................................................................................................... 11 1.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với phát thanh, truyền hình ................. 20 1.3. Hình thức quản lý Nhà nước đối với PT-TH .......................................... 27 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình 29 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............................ 33 2.1. Khái quát về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam. .................... 33 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam ................................................................................................................ 41 2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam ............................................................................................. 48 CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH TẠI TỈNH QUẢNG NAM .............................................................................................. 63 3.1. Định hướng tăng cường quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình .. 63 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam ............................................................................. 66 KẾT LUẬN ................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. BTV : Biên tập viên 2. CNXH : Chủ nghĩa xã hội 3. CT : chương trình 4. ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam 5. ĐKTS : Đăng ký tần số 6. HĐND : Hội đồng nhân dân 7. KT-XH : Kinh tế xã hội 8. KTV : Kỹ thuật viên 9. PT-TH : Phát thanh, truyền hình 10. PV : Phóng viên 11. THPT : Trung học phổ thông 12. Tr. : Trang 13. TTĐT : Thông tin điện tử 14. TT- TH : Truyền thanh, truyền hình 15. TT-TT : Thông tin và truyền thông 16. UBND : Ủy ban nhân dân 17. VHTT : Văn hóa thông tin 18. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát thanh, truyền hình với tư cách là một phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại có khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời hơn so với các phương tiện khác; PT-TH phản ánh ngay lập tức các sự kiện khi vừa mới diễn ra, thậm chí đang diễn ra, khán thính giả có thể nghe, quan sát một cách chi tiết, tường tận, trực tiếp và liên tục 24/24h trong ngày; mang đến cho khán, thính giả những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật những tin tức mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của PT-TH so với các loại hình báo chí khác, là phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện. Hiện nay, cả nước có 67 Đài PT-TH bao gồm: 02 đài trực thuộc Trung ương (Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam); 01 Đài thuộc Bộ TTTT (Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC); 64 Đài PT-TH địa phương (62 Đài PT-TH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 02 Đài: Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh). Với 268 kênh được cấp phép, các Đài PT-TH không ngừng nâng cao chất lượng, sản xuất chương trình bằng công nghệ chuẩn HD. Số lượng thuê bao của dịch vụ truyền hình trả tiền tăng nhanh, lên tới 12,5 triệu thuê bao, doanh thu 12.000 tỷ đồng [9]. Có 6 kênh truyền hình hoạt động không có hạ tầng phát sóng truyền hình riêng gồm: Kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV TV), Kênh truyền hình Công an nhân dân (ANTV), Kênh truyền hình Thông tấn (Vnews), Kênh truyền hình Quốc phòng, Kênh truyền hình Quốc hội, Kênh truyền hình Nhân dân. Số lượng kênh chương trình phát thanh trong nước là 78 kênh; trong đó phát thanh tiếng dân tộc là 1 kênh (VOV4), phát thanh đối ngoại 1 kênh (VOV5), số kênh phát thanh qua truyền hình cáp, Internet, vệ 1
- tinh có 9 kênh. Số kênh truyền hình trong nước có 106 kênh; số kênh truyền hình trên cáp truyền hình trả tiền, Internet, vệ tinh là 91 kênh, trong đó có 58 kênh nước ngoài [9]. Thông qua sóng phát thanh, kênh truyền hình đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. PT-TH đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, tạo diễn đàn phản ánh kịp thời những ý kiến sinh động từ thực tiễn cuộc sống để Đảng, Nhà nước có thêm thông tin nhằm tiếp tục ban hành các quyết sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của người dân; nhiều chương trình giải trí thú vị được đầu tư ngày càng phong phú, đa dạng đã góp phần nâng cao giá trị về mặt tinh thần. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm sâu sắc tới sự phát triển của ngành PT-TH trên phạm vi cả nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản. Đến năm 2010 hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình”. Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho mọi vùng nông thôn, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo”. Ngày 16/02/2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng PT-TH đến năm 2020 với mục tiêu “…Đến năm 2020, từng bước triển khai lộ trình số hóa mạng truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất phù hợp với điều kiện thực tế về thiết bị thu truyền hình số của người dân trên từng địa bàn cụ thể. Theo quy định sẽ ngừng phát sóng truyền hình mặt đất công nghệ tương tự để chuyển sang phát sóng truyền hình mặt đất công nghệ số khi 95% số hộ gia đình có máy thu hình thu các kênh chương trình truyền hình bằng những phương thức truyền dẫn, phát sóng số khác nhau. Theo đó, trước năm 2020 sẽ ngừng việc sử dụng công nghệ truyền 2
- hình cáp tương tự trước để chuyển sang công nghệ số. Hệ thống mạng cáp được ngầm hóa trên các tuyến đường chính tạicác tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương…” Hệ thống PT-TH trong cả nước hiện nay đang phát triển nhanh cả về nội dung, chất lượng chương trình, hạ tầng kỹ thuật và phương thức truyền dẫn, phát sóng, góp phần tích cực vào sự phát triển KT-XH của đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh, mạnh của hệ thống PT-TH đang đặt ra những thách thức trong công tác quản lý nhà nước, nhất là đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. PT-TH là loại hình báo chí mang tính đặc thù, đòi hỏi sự gắn kết giữa nội dung, kỹ thuật và hạ tầng. Vì vậy, quản lý nhà nước về PT-TH đòi hỏi sự thống nhất, mang tính đồng bộ cao cả về nội dung và kỹ thuật, trong khi đó ở nhiều địa phương điều này vẫn chưa đáp ứng được. Để PT-TH phát triển, phát huy tối đa vai trò là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, cần tăng cường vai trò của quản lý nhà nước, nhất là tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực này. Phương tiện bảo đảm cho việc quản lý nhà nước đối với kênh thông tin này đó là pháp luật và được tiến hành một cách đồng bộ trên cơ sở có sự phân công và phối hợp chặt chẽ [11]. Điều 2, Luật Báo chí 2016 quy định cụ thể về hoạt động của báo chí là trong khuôn khổ pháp luật và được nhà nước bảo hộ. Luật này cũng quy định không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động; đồng thời không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân[62]. . Thực hiện chủ trương, đường lối, sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, tỉnh Quảng Nam đã dành nhiều sự quan tâm đến lĩnh vực PT-TH; tạo điều kiện cho hệ thống PT-TH phát triển, góp phần tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh kịp thời những chỉ đạo của các cấp và chính quyền địa phương; góp phần xây dựng KT-XH trên địa bàn tỉnh. 3
- Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống PT-TH trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là: chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật về các quy định về PT-TH (trong đó có Truyền thanh xã); nội dung chương trình PT-TH chưa phong phú; hình thức thể hiện còn đơn điệu; chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chưa xứng tầm, nhất là cán bộ Truyền thanh xã còn bất cập; hệ thống trang thiết bị nhiều nơi kỹ thuật lạc hậu và xuống cấp nghiêm trọng; kinh phí duy trì hoạt động thấp; chính quyền một số địa phương chưa nhận thức rõ tầm quan trọng, nhất là hệ thống Truyền thanh xã nên thiếu sự quan tâm cả về nhân lực và công tác quản lý. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành Luật hiến pháp và luật hành chính, với mục đích nghiên cứu những giải pháp hữu hiệu để tăng cường quản lý nhà nước cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn ở lĩnh vực PT-TH của tỉnh Quảng Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Lịch sử hình thành nền báo chí cách mạng Việt Nam đã có các nghiên cứu cung cấp cho người đọc những tri thức về báo chí, quản lý nhà nước về báo chí nói chung và PT-TH nói riêng. Các nghiên cứu đó đã đưa ra nhiều góc nhìn, trong đó có nhìn nhận theo quan điểm hệ thống, tức là nhìn nhận mọi sự vật hiện tượng trong sự cấu thành của nhiều yếu tố và các yếu tố này có sự chi phối lẫn nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu như sau: - Hồng Chương, Lịch sử báo chí Việt Nam (1985), Nxb. Sự thật, tác giả khái quát lịch sử báo chí từ khi xuất hiện ấn phẩm báo chí đầu tiên ở Việt Nam năm 1865, dưới sự quản lý của chính quyền thực dân Pháp, báo chí chủ yếu là công cụ tuyên truyền của chế độ thực dân. Nhiều đạo luật, sắc lệnh về báo chí cho Đông Dương đã được thực dân Pháp ban hành. Sắc lệnh ngày 30- 12-1898 đã đình chỉ việc thi hành luật tự do báo chí, ngày 29-7-1881, của 4
- Chính phủ Pháp ở Đông Dương. Theo Sắc lệnh này, việc thành lập một tờ báo hay xuất bản ấn phẩm định kì bằng bất cứ thứ tiếng nào đều có thể bị đình chỉ bởi nghị định của quan Toàn quyền và không một tờ báo tiếng Việt nào có thể xuất bản nếu không được phép của quan Toàn quyền. Báo chí từ sau Cách mạng tháng Tám được hoạt động tự do để bảo vệ chính quyền Cách mạng non trẻ, phục vụ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; báo chí từ sau năm 1975 nặng về thông tin một chiều. - Hồng Chương, 124 năm báo chí Việt Nam (1985), Nxb. Bộ Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, tác phẩm giới thiệu tóm tắt lịch sử báo chí Việt Nam, nhất là báo chí cách mạng qua các thời kỳ. Qua đó, nói lên chức năng và vai trò của báo chí, hình thức và mức độ quản lý của Nhà nước đối với báo chí qua từng thời kỳ. - Đinh Văn Hường, Báo chí truyền thông Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (http://www.hids.hochiminhcity. gov.vn/c/document library) điểm lại tiến trình lịch sử báo chí Việt Nam từ khi có tờ Gia Định báo (năm 1865). Trong đó, đề cập đến dấu mốc ra đời nền báo chí cách mạng Việt Nam, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập báo Thanh niên. Cuốn sách cũng khẳng định báo chí truyền thông đã có những đóng góp lớn cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước và công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. - Đào Duy Quát, Vũ Duy Thông, Đỗ Quang Hưng, Tổng quan lịch sử báo chí Cách mạng Việt Nam (1925 - 2010) (2010), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tác phẩm khái lược lại hoạt động báo chí cách mạng từ khi ra đời. Trong số 6 chương, cuốn sách đã dành 2 chương cuối khái lược về “Báo chí Cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước (1986 - 2000)” và “Báo chí Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2001 - 2010)”. Đây cũng là thời kỳ hoạt động quản lý nhà nước về báo chí được tăng cường một bước. Bộ VHTT (nay 5
- là Bộ TT-TT) được xác định là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí. Trong khuôn khổ gần 500 trang, cuốn sách đã khái lược được những điểm mốc quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam, tuy nhiên chưa đề cập một cách kỹ lưỡng và sâu sắc đến báo chí từ thời kỳ đổi mới năm 1986. - Cuốn Báo chí trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” (2000), của Vũ Hiền, Nxb. Chính trị Quốc gia cũng khẳng định vai trò của báo chí trước âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới - WTO, bước những bước đầu tiên trên con đường hội nhập và phát triển, đây cũng là thời điểm âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” gây tác động, ảnh hưởng đến đời sống xã hội, tâm lý nhân dân. Trong bối cảnh đó, báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã thực sự trở thành một vũ khí sắc bén, hiệu quả trên mặt trận chống “diễn biến hòa bình”. - Luận án tiến sĩ “Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới” của Nguyễn Vũ Tiến (2003) đã nghiên cứu những tư duy mới, quan điểm mới của Đảng về báo chí và công tác quản lý báo chí trong tình hình đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới. - Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật về báo chí ở Việt Nam hiện nay” (2016) của Phí Thị Thanh Tâm đã khái quát kết quả các công trình nghiên cứu về báo chí và pháp luật báo chí trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm, nội dung, những tiêu chí xác định vai trò của pháp luật báo chí. Đồng thời phân tích thực trạng pháp luật báo chí ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay theo từng giai đoạn lịch sử. Những lập luận và phân tích của tác giả về những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong pháp luật báo chí. Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về báo chí ở Việt Nam hiện nay… - Ngoài ra, còn có những công trình: Tạ Ngọc Tấn “Từ lý luận đến thực 6
- tiễn báo chí” (2000), Nxb. Văn hóa - Thông tin; “Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn” các kỳ xuất bản năm 1994, 1996, 1997, 2001, 2010 do các Nxb. Giáo dục, Nxb. Đại học quốc gia xuất bản; Hà Minh Đức, “Cơ sở lý luận báo chí - Đặc tính chung và phong cách” (2000), Nxb. Đại học quốc gia; Nguyễn Văn Dững, Hồ Bất Khuất, “Báo chí: Những điểm nhìn từ thực tiễn” (2000), Nxb. VHTT đã làm sáng rõ một số phạm trù, khái niệm cơ bản, tìm ra mối quan hệ bên trong, các sự liên hệ trong quá trình vận hành với các tiến trình xã hội; đưa ra các quy luật, phương pháp nguyên tắc, con đường nhằm tăng cường chất lượng hoạt động của báo chí và các cơ quan quản lý báo chí. - “Cơ sở lý luận báo chí” (2005) của nhóm tác giả Tạ Ngọc Tấn, Trịnh Đình Thắng, Đinh Thế Huynh, Lê Mạnh Bỉnh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Nxb. Lý luận chính trị; Tạ Ngọc Tấn, “Truyền thông đại chúng” (2001), Nxb. Chính trị quốc gia; Nguyễn Văn Dững, “Cơ sở lý luận báo chí” (2012), Nxb. Lao động; Dương Xuân Sơn, “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, các kỳ xuất bản năm 1995, 2004, 2005, do các Nxb. VHTT, Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản; Nguyễn Văn Hà, “Cơ sở lý luận báo chí”, các kỳ xuất bản 2011, 2012, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;… đã cho rằng báo chí là một hình thức hoạt động truyền thông đại chúng, là loại hình thông tin chính trị - xã hội. Đồng thời, xác định các chức năng của báo chí, các nguyên tắc hoạt động báo chí; nêu những khái niệm cơ bản về báo chí, các loại hình báo chí truyền thống như báo in, báo nói, báo hình. Đồng thời, đề cập đến một số vấn đề cơ bản về báo chí như: vị trí, vai trò của báo chí trong đời sống xã hội; đưa ra quan niệm chung về báo chí dưới góc độ phân tích tính giai cấp của báo chí, tự do báo chí, luật pháp và báo chí. Hầu hết các công trình nghiên cứu trong thời gian qua đã khái quát quá trình hình thành và phát triển của báo chí Việt Nam, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của báo chí và sự cần thiết phải quản lý nhà nước về báo chí, trong đó có PT-TH. Tuy nhiên, trong nhóm các công trình khoa học đã công bố, hầu 7
- hết chỉ tập trung nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý nhà nước về báo chí còn khá thiếu hụt, hơn nữa các công trình nghiên cứu đều đã được nghiên cứu từ 5 đến 10 năm trước, do vậy, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn chưa được đề cập kịp thời. Chưa có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước về PT-TH. Riêng đối với tỉnh Quảng Nam thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Với mục đích nâng cao vai trò của quản lý nhà nước đối với PT-TH để PT-TH phát triển và có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước, việc lựa chọn đề tài của luận văn là phù hợp và đảm bảo không có sự trùng lặp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về PT-TH nói chung và PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói riêng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về PT-TH; giúp cho các Đài PT-TH tỉnh, Đài TT-TH cấp huyện, thị xã, thành phố (sau đây gọi chung là Đài TT-TH huyện), Đài truyền thanh xã hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích; bám sát thực tiễn đời sống xã hội, định hướng tư tưởng và nhiệm vụ chính trị của tỉnh, của cơ sở; tích cực tuyên truyền, phản ánh nhiều chiều, phong phú, đa dạng mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, hình thức cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về PT-TH. - Đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam; phân tích, làm sáng tỏ những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về PT-TH nói chung và PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói riêng. 8
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam; những quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động PT-TH. Đề tài sẽ không đề cập các nội dung liên quan đến vấn đề nghiệp vụ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Tỉnh Quảng Nam - Thời gian nghiên cứu: từ năm 2013 đến năm 2018 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và cách tiếp cận hệ thống. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đánh giá, phương pháp thống kê, mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp quan sát trực tiếp… Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra các khái niệm về PT-TH, quản lý nhà nước về PT-TH. Trong chương này tác giả còn khái quát nội dung quản lý nhà nước đối với báo chí PT-TH. Chương 2: Sử dụng phương pháp thu thập số liệu, tài liệu, tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp để rút ra những giải pháp nhằm góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về PT-TH nói chung và tại tỉnh Quảng Nam nói riêng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Về lý luận, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về 9
- PT-TH nói chung và quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Về thực tiễn, đề tài có giá trị tham khảo, giúp cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các nhà quản lý nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của PT-TH trong công tác tuyên truyền, thông tin và phản ánh kịp thời, sâu rộng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, KT-XH, quốc phòng an ninh, công tác xây dựng Đảng, các vấn đề đặt ra trong đời sống của nhân dân, nêu các gương tốt, các cá nhân và điển hình tiên tiến trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời phản ánh những việc làm sai trái, vi phạm... hướng đến thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam. 10
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình 1.1.1. Khái niệm về phát thanh, truyền hình 1.1.1.1. Khái niệm về phát thanh Phát thanh là một thể loại báo chí, thông báo về một sự kiện mới, tuyên bố mới, tình hình mới về sự việc, hiện tượng con người đã, đang và sẽ xảy ra, được truyền đạt trực tiếp, dễ hiểu đến đối tượng thính giả bằng phương tiện radio. Như thế, phát thanh tác động đến thính giả bằng âm thanh, lời nói, tiếng động, âm nhạc. Hay nói cách khác, thông qua kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh, phát thanh truyền đi âm thanh, tác động trực tiếp vào thính giác của người tiếp nhận. Là một loại hình truyền thông độc đáo, hấp dẫn, có khả năng tạo được sức hút và thiện cảm đối với đông đảo công chúng [51]. Phát thanh có 2 loại hình: phát thanh qua sóng điện từ, phát thanh truyền qua hệ thống dây dẫn. Phát thanh được coi là một trong những loại hình truyền thông hiện đại, có được một lượng công chúng rộng rãi và có sức ảnh hưởng lớn tới dư luận xã hội. Phát thanh có những đặc điểm cơ bản: Tỏa sóng rộng khắp: trong cùng một khoảng thời gian, hàng triệu người có thể nghe được thông tin. Như vậy phát thanh có tính xã hội hóa cao. Kỹ thuật đơn giản, tiện lợi: Chỉ cần một thiết bị thu tín hiệu nhỏ ở bất cứ nơi nào dù là miền núi hay hải đảo, công chúng đã có thể hưởng thụ các chương trình phát thanh. Chỉ với một chiếc radio nhỏ nhẹ có thể vừa nghe 11
- chương trình phát thanh vừa làm mọi công việc, kể cả đang làm việc ngoài đồng, trong công trường hay đang lái xe ô tô … Khả năng thông tin thời sự nhanh nhạy: Ưu thế nổi bật đầu tiên của phát thanh là sự nhanh nhạy trong thông tin. Thông qua kênh phát thanh sẽ cung cấp cho bạn nghe Đài những nội dung quan trọng, những thông tin mới, và kịp thời khi mới xảy ra, đang xảy ra, hoặc sẽ xảy ra. Về ưu thế này, hiện nay chỉ có báo mạng, điện tử mới có thể cạnh tranh được với báo phát thanh. Tuy nhiên, do đặc điểm của báo mạng là phụ thuộc vào đường truyền và phương tiện cồng kềnh, kỹ thuật phức tạp nên sự tiện lợi của chiếc radio vẫn có những ưu thế do luôn đồng hành cùng với mỗi cá nhân trong mọi địa hình, mọi hoàn cảnh. Gần gũi công chúng, hiệu quả tác động cao: Ưu thế của báo phát thanh là cách tôn trọng người nghe và tác động nhanh, hiệu quả đến công chúng và được thính giả đánh giá cao đối với những người làm báo phát thanh. Và sự thân mật, gần gũi với công chúng chính là sức hấp dẫn của báo phát thanh. Với mục tiêu thu hút thính giả, tạo ra sức sống cho làn sóng phát thanh, những người làm báo phát thanh hiện đại không chỉ quan tâm đến việc đem lại cho công chúng những thông tin nóng hổi, bổ ích, gần gũi với cuộc sống thường nhật mà còn ở cách thể hiện những thông tin đó một cách thân tình, gần gũi “như nói với một người bạn”. Người làm báo phát thanh ngày nay rất quan tâm đến những thói quen và sở thích của từng nhóm công chúng nghe Đài, không ngừng cải tiến về hình thức, chất lượng để các chương trình phát thanh ngày càng gần gũi hơn với thính giả, phù hợp với từng đối tượng nghe đài, đáp ứng thị hiếu ở từng độ tuổi... 1.1.1.2. Khái niệm về truyền hình Truyền hình (Television) có xuất xứ từ tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ở xa, “videra” có nghĩa là thấy được, còn theo tiếng Latinh có nghĩa là thấy được từ xa, ghép hai từ đó lại là 12
- “Televidera”. Tiếng Anh là Television, Tiếng Pháp cũng là “Television” [52]. Như vậy dù bất cứ quốc gia nào thì tên gọi truyền hình vẫn có chung một nghĩa. Với khả năng thu nhận tín hiệu sóng vô tuyến cũng như truyền dẫn các tín hiệu điện, truyền hình mang hình ảnh và âm thanh được mã hóa. Truyền hình được phát dưới dạng sóng vô tuyến, qua hệ thống cáp quang, hoặc cáp đồng trục. Truyền hình đáp ứng bạn xem đài cả hình ảnh lẫn âm thanh cùng một lúc [52]. Truyền hình có 02 loại là truyền hình sóng và truyền hình cáp. - Truyền hình sóng: Truyền hình sóng là truyền hình được thực hiện theo nguyên tắc kỹ thuật như sau: hình ảnh và âm thanh được mã hóa dưới dạng các tín hiệu sóng và phát vào không trung. Các tín hiệu được các máy thu tiếp nhận rồi giải mã nhằm tạo ra các hình ảnh và âm thanh. Sóng truyền hình là sóng phẳng vì thế ăngten thu bắt buộc phải “nhìn thấy” được ăngten phát và phải nằm trong vùng phủ sóng thì mới bắt được tín hiệu tốt. -Truyền hình cáp: Truyền hình cáp (hữu tuyến) (CATV: Community Antenna Television) là những tín hiệu được truyền thông qua cáp nối từ đầu máy phát đến từng máy thu hình. Ưu điểm của truyền hình cáp là có thể chuyển đi trong cùng một lúc theo nhu cầu của người sử dụng. Đồng thời truyền hình cáp còn phục vụ nhiều dịch vụ khác, chức năng này không thể có được từ truyền hình sóng. So với các loại hình báo chí khác, truyền hình có những đặc điểm riêng biệt mang tính đặc trưng. Tính thời sự: Truyền hình mang tính thời sự và có khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời trên cũng một lúc cả 2 phương diện nghe và nhìn. Người xem có thể quan sát một cách chi tiết, tường tận qua truyền hình trực 13
- tiếp và cầu truyền hình những sự kiện vừa mới diễn ra thậm chí khi đang diễn ra trong thời gian 24/24h trong ngày. Đây là ưu thế đặc biệt của truyền hình so với các loại hình báo chí khác. Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh: Một ưu thế của truyền hình chính là truyền tải cả hình ảnh và âm thanh cùng một lúc. Điều đó có nghĩa người xem truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác (70%) và thính giác (30%). Chính vì vậy, truyền hình được xem là kênh thông tin có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức, suy nghĩ và hành động của con người thông qua một sự kiện, một vấn đề nào đó. Tính phổ cập và quảng bá: Thông tin, sự kiện trên các kênh truyền hình có khả năng thu hút đông đảo người xem cùng một lúc, kể các vùng sâu , vùng xa nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ, đó là ưu thế của truyền hình về tính phổ cập. Tính quảng bá của truyền hình thể hiện ở chỗ khắp nơi trên thế giới có thể tiếp nhận thông tin, sự kiện xảy ra ở bất kì đâu khi được đưa lên vệ tinh. Khả năng thuyết phục công chúng: Với độ tin cậy cao nhờ 2 phương diện nghe và nhìn thông qua âm thanh và hình ảnh nên truyền hình có khả năng tác động mạnh mẽ vào suy nghĩ, nhận thức và hành động của con người. Khả năng thuyết phục công chúng của truyền hình là công chúng có thể chứng kiến tận mắt những hình ảnh chân thực của sự kiện dù nó xảy ra bất cứ ở đâu. Đây là lợi thế lớn của truyền hình so với các loại hình chí khác. Khả năng tác động dư luận xã hội nên truyền hình trở thành diễn đàn của nhân dân: Các chương trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, nóng hổi, hấp dẫn người xem bằng cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho người xem thấy được thực tế của vấn đề, vừa tác động vào nhận thức của công chúng. 1.1.1.3. Vai trò, chức năng của phát thanh, truyền hình trong đời sống xã hội 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn