intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền bề mặt theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

89
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam về quyền bề mặt; thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam về quyền bề mặt và từ đó đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền bề mặt theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ MÂY QUYỀN BỀ MẶT THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ MÂY QUYỀN BỀ MẶT THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHÙNG TRUNG TẬP Hà Nội – 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN NGÔ THỊ MÂY i
  4. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BỀ MẶT........................... 8 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM QUYỀN BỀ MẶT ..................................... 8 1.1.1. Khái niệm quyền bề mặt ........................................................................... 8 1.1.2. Đặc điểm của quyền bề mặt ................................................................... 14 1.2. SO SÁNH QUYỀN BỀ MẶT VỚI QUYỀN HƢỞNG DỤNG VÀ QUYỀN THUÊ ĐẤT DÀI HẠN ..................................................................... 21 1.2.1. So Sánh quyền bề mặt với quyền hưởng dụng ....................................... 21 1.2.2. So sánh quyền hưởng dụng với quyền thuê đất dài hạn......................... 25 1.3. PHÁP LUẬT CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN BỀ MẶT ............................................................................................ 27 1.3.1. Quyền bề mặt trong pháp luật Nhật Bản ............................................... 27 1.3.2. Quyền bề mặt trong pháp luật Hoa Kỳ .................................................. 30 1.3.3. Quyền bề mặt trong pháp luật Thái Lan ................................................ 32 1.3.4. Quyền bề mặt theo pháp luật Đài Loan ................................................. 35 1.4. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH QUYỀN BỀ MẶT TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 ............................................................................ 39 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................. 42 CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ QUYỀN BỀ MẶT ...................................................................................... 44 2.1. CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN BỀ MẶT................................................... 44 2.2. HIỆU LỰC CỦA QUYỀN BỀ MẶT VÀ THỜI HẠN QUYỀN BỀ MẶT .......................................................................................................................... 56 2.2.1. Hiệu lực của quyền bề mặt ..................................................................... 56 ii
  5. 2.2.2. Thời hạn của quyền bề mặt .................................................................... 59 2.3. NỘI DUNG CỦA QUYỀN BỀ MẶT ....................................................... 62 2.3.1. Các quyền năng của chủ thể quyền bề mặt ............................................ 62 2.3.2. Nghĩa vụ của chủ thể quyền bề mặt ....................................................... 69 2.4. CHẤM DỨT QUYỀN BỀ MẶT VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC CHẤM DỨT QUYỀN BỀ MẶT ..................................................................... 69 2.4.1. Chấm dứt quyền bề mặt .......................................................................... 70 2.4.2. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt quyền bề mặt ................................ 75 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................. 79 CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN BỀ MẶT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ....................................................................................... 80 3.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƢỚNG MẮC TRONG VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN BỀ MẶT ............................................ 80 3.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VỀ QUYỀN BỀ MẶT ............................... 85 3.2.1. Kiến nghị về lập pháp............................................................................. 85 3.2.2. Kiến nghị về tổ chức thực hiện ............................................................... 91 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................. 95 KẾT LUẬN CHUNG ....................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 98 iii
  6. LỜI MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Từ thời xa xƣa, quyền bề mặt đã đƣợc đề cập trong luật dân sự La Mã cổ đại, ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới vẫn đang ghi nhận chế định này vào luật pháp của mình. Sự tồn tại lâu bền của chế định này không khỏi đặt ra cho các nhà nghiên cứu pháp luật những câu hỏi về tính hợp lý và sự cần thiết của nó trong đời sống dân sự hiện nay. Ở hệ thống pháp luật Việt Nam trƣớc đây, Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 đều chƣa có quy định về quyền bề mặt, quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự, vấn đề xem xét lại cơ cấu các quyền đối với tài sản đã đƣợc đặt ra đối với nhà làm luật. Trong quá trình tiếp cận nghiên cứu cũng nhƣ hoàn thiện dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự, quyền bề mặt chính là một trong số các quyền năng đã đƣợc bàn tán sôi nổi nhất lúc bấy giờ. Trong quy định của pháp luật Việt Nam, quyền sử dụng đất có khá nhiều nét tƣơng đồng với quyền bề mặt đƣợc ghi nhận ở pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, khi nghiên cứu sâu vào phƣơng diện khoa học pháp lý thì cách sử dụng thuật ngữ quyền sử dụng đất còn rất nhiều bất cập. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện chế định pháp luật về quyền bề mặt là điều tất yếu đặt ra đối với các nhà nghiên cứu lập pháp ở Việt Nam. Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, bao gồm 689 Điều, đã có những quy định rất mới tại phần thứ hai “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”. Trong đó Quyền bề mặt là một trong những 1
  7. quyền quan trọng, cần đƣợc nghiên cứu cụ thể về mặt lý luận để đƣa vào thực tiễn áp dụng một cách hiệu quả và tránh đƣợc những vƣớng mắc, bất cập trong việc thực hiện quyền này. Mặt khác, từ khi Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 ra đời cho đến nay, chƣa có văn bản hƣớng dẫn thi hành chi tiết các quy định về quyền về mặt, cũng nhƣ chƣa có sự phổ biến rộng rãi những quy định này để áp dụng một cách thống nhất. Trƣớc tình hình đó, việc nghiên cứu để làm rõ về những vấn đề lý luận, các vấn đề pháp lý về quyền bề mặt, bảo đảm việc hiểu và áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật vào thực tiễn là một trong những yêu cầu cấp thiết. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài Luận văn Thạc sỹ luật học: “Quyền bề mặt theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015” sẽ có giá trị khoa học nhất định. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Thuật ngữ quyền bề mặt đã đƣợc ghi nhận từ rất lâu và phổ biến trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, đã có không ít công trình nghiên cứu khoa học về quyền bề mặt. Tuy nhiên, việc tiếp cận những nghiên cứu đó của tác giả còn khá nhiều hạn chế nhƣ việc tìm hiểu các quy định về quyền bề mặt trên mạng hay sách báo nƣớc ngoài chƣa đảm bảo đƣợc độ tin cậy cao hoặc gặp nhiều hạn chế, bên cạnh đó tác giả còn gặp khó khăn trong vấn đề ngôn ngữ đa quốc gia. Một số bài viết cũng nhƣ công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài có liên quan đến quyền bề mặt hoặc đề cập trực tiếp đến vấn đề quyền bề mặt, tiêu biểu nhƣ: Real Property Law and Procedure in the European Union, LLM. Christian Hertel, General report of European University Institude, 2005; Thomas Lavier (2010), The Creation of Superficies as an Acquisition Method, 2
  8. Canada; Luật Tư pháp La Mã, Nxb Maxcova, 1994;… là những công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo đối với tác giả trong quá trình nghiên cứu luận văn. Ở Việt Nam, do tính mới mẻ của chế định quyền bề mặt nên trƣớc khi Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015 ra đời, có rất ít tài liệu, công trình nghiên cứu (sách chuyên khảo, bài viết, bài báo hay các tạp chí…) viết về vấn đề này. Một số tài liệu có thể kể đến nhƣ: Giáo trình Luật La Mã, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003; Hoàng Thị Thúy Hằng, Chế định vật quyền và vấn đề sửa đổi phần tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2015 của Việt Nam, tạp chí luật học số 04/2015; Phạm Công Lạc, Địa dịch theo pháp luật một số nƣớc, Tạp chí Luật học, số 04/2001; Lê Thị Ngọc Mai, Quyền bề mặt – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2014; Quyền bề mặt theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và dự thảo một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực thi quyền này, Lê Đăng Khoa, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2017; Về quyền bề mặt trong dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Châu Thị Khánh Vân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 13/2015; Về quyền hưởng dụng và quyền bề mặt, Phùng Trung Tập, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 15/2016; Nguyễn Ngọc Điện (2011), Lợi ích của việc xây dựng chế định vật quyền đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tài sản, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 2, 3/2011;… Đây là những tài liệu, công trình nghiên cứu có giá trị là nguồn tham khảo cho tác giả trong quá trình hoàn thiện luận văn này. Qua nghiên cứu các tài liệu trên có thể nhận thấy, nhiều vấn đề có tính lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền bề mặt còn chƣa đƣợc đề cập hoặc tuy đã đƣợc đề cập nhƣng chƣa đƣợc thỏa đáng và cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu 3
  9. sâu sắc, toàn diện hơn. Mặt khác hiện nay cũng chƣa có một công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về quyền bề mặt quy định trong Bộ luật Dân sự. Vì vậy, luận văn của tác giả sẽ nghiên cứu theo hƣớng chuyên sâu và có hệ thống về quyền bề mặt trong Bộ luật Dân sự năm 2015. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI * Đối tượng nghiên cứu của đề tài Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật nƣớc ngoài và pháp luật Việt Nam về quyền bề mặt; thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam về quyền bề mặt và từ đó đƣa ra một số kiến nghị để hoàn thiện. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài - Luận văn nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền bề mặt và pháp luật một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới ghi nhận về quyền bề mặt. - Luận văn tập trung làm rõ các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận về quyền bề mặt. Từ đó, luận văn nghiên cứu những ƣu điểm và hạn chế của Bộ luật Dân sự hiện hành về quyền bề mặt. - Luận văn đƣa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với quyền bề mặt. 4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Mục đích nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện quyền bề mặt. Trên cơ sở đó, luận văn đƣa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật về quyền bề mặt. Để đạt đƣợc 4
  10. mục đích này, luận văn đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Thứ nhất, làm rõ bản chất của quyền bề mặt trong dân sự, xây dựng đƣợc khái niệm, chỉ ra đƣợc những đặc điểm và khái quát đƣợc ý nghĩa việc quy định quyền bề mặt trong Bộ luật Dân sự. Thứ hai, làm rõ đƣợc một số nội dung của quyền bề mặt trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 đã đƣợc giới hạn trong phạm vi nghiên cứu đề tài. Thứ ba, chỉ ra những ƣu điểm, hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về quyền bề mặt và đƣa ra kiến nghị cụ thể để giải quyết những vấn đề còn bất cập, vƣớng mắc đó. 5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU * Phương pháp luận: Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. * Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn đã sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác nhau. Cụ thể, phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng để nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của khái niệm quyền bề mặt; phƣơng pháp phân tích và bình luận đƣợc sử dụng để đem lại góc nhìn đa chiều và làm rõ các quy định về quyền bề mặt trong Bộ luật Dân sự hiện hành; phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng để chỉ ra những điểm giống nhau và những điểm khác biệt của những nội dung Bộ luật Dân sự Việt Nam và pháp luật dân sự một số quốc gia về quyền bề mặt; làm rõ những điểm tiến bộ và hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về quyền bề mặt trong dân sự, 5
  11. từ đó dùng làm cơ sở vững chắc trong việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật; phƣơng pháp diễn dịch, quy nạp và tổng hợp đƣợc tác giả sử dụng để khái quát các ý chính trong từng vấn đề cụ thể, giúp cho các ý tƣởng trong luận văn đƣợc sáng rõ. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Kết quả nghiên cứu đề tài “Quyền bề mặt theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015” có thể đem lại những điểm mới sau: - Luận văn là công trình làm rõ đƣợc khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định quyền bề mặt trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015. Kết quả nghiên cứu ở phần đặc điểm của luận văn giúp phân biệt rõ quyền bề mặt với quyền hƣởng dụng, quyền thuê đất dài hạn theo hợp đồng có những nét tƣơng đồng và sự khác biệt nhất định. Nội dung này có thể giúp các tác giả khác ngoài chuyên ngành sử dụng để nhận diện quyền bề mặt với quyền hƣởng dụng, quyền thuê đất dài hạn mà họ đang nghiên cứu. Luận văn cũng làm rõ đƣợc giá trị và sức ảnh hƣởng của các quy định về quyền bề mặt trong dân sự với vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. - Luận văn đã tổng hợp, khái quát và tự rút ra đƣợc một số vấn đề lý luận có giá trị về quyền bề mặt. Những nội dung này có thể đƣợc sử dụng nhƣ tiêu chuẩn để đánh giá các quy định Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện hành về quyền bề mặt; hoặc có thể dùng nhƣ một cơ sở lý thuyết tham khảo giúp các tác giả tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về quyền của bề mặt trong Bộ luật Dân sự Việt Nam. - Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách tƣơng đối toàn diện và sâu sắc các quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam về quyền bề mặt và thực tiễn áp dụng pháp luật trong những năm gần đây. Từ những nghiên cứu này, luận 6
  12. văn đã làm sáng rõ những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về quyền bề mặt, và những vƣớng mắc trong quá trình áp dụng các quy định về quyền bề mặt trong thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân. Đồng thời, luận văn đƣa ra những luận giải cụ thể về nguyên nhân của những vƣớng mắc, bất cập đó. - Luận văn đã có những kiến nghị hoàn thiện cụ thể đối với quyền bề mặt đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Những kiến nghị này không chỉ có giá trị để hoàn thiện các quy định về quyền bề mặt mà còn có thể dùng nhƣ tài liệu tham khảo để nghiên cứu hoàn thiện các quy định về quyền hƣởng dụng và một số quyền khác theo quy định của pháp luật. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung cụ thể của luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng và các mục chi tiết (có thể xem cụ thể hơn ở phần mục lục của luận văn). 7
  13. CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BỀ MẶT 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM QUYỀN BỀ MẶT 1.1.1. Khái niệm quyền bề mặt Một trong những điểm mới nhất trong Bộ luật dân sự năm 2015 đó là việc vận dụng lý thuyết “vật quyền” trong việc sửa đổi chế định tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 thành chế định quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản. Dù cho Bộ luật dân sự năm 2015 không sử dụng thuật ngữ vật quyền thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng các nội dung của chế định quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản chính là những nội dung đƣợc vận dụng từ vật quyền, trong đó tiêu biểu là chế định về “quyền bề mặt”. Do đó, để đƣa ra đƣợc khái niệm về quyền bề mặt, chúng ta phải giải thích đƣợc các thuật ngữ pháp lý nhƣ sau: quyền; vật quyền và quyền bề mặt. “Quyền” là điều mà Nhà nƣớc và pháp luật hoặc xã hội công nhận cho đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi [8]. “Vật quyền” theo một cách hiểu chung nhất khi cắt nghĩa thì đó chính là quyền đối với tài sản. Trong khoa học pháp lý, vật quyền đƣợc hiểu theo hai góc độ khác nhau: Thứ nhất, vật quyền theo định nghĩa trong học thuyết pháp lý ở các nƣớc chịu ảnh hƣởng của luật La Mã là quyền đƣợc thực hiện trực tiếp và ngay lập tức trên một vật. Ngƣời có vật quyền thực hiện các quyền của mình mà không cần sự hợp tác của ngƣời khác [31]. Nói đến khái niệm vật quyền thì phải bắt đầu từ luật La Mã mặc dù luật La Mã không đƣa ra khái niệm vật quyền cũng nhƣ các luật gia La Mã không phân biệt quyền tài sản thành vật quyền và trái quyền, tuy nhiên lý thuyết vật quyền lại đƣợc xây dựng từ kết quả phân tích 8
  14. các đặc điểm của quyền sở hữu trong luật La Mã. Các luật gia La Mã xác định: Một chủ thể có thể tạo ra một tài sản hoặc mua một tài sản, trên cơ sở đó họ là chủ sở hữu đối với tài sản đã tạo ra, đã mua và khi trở thành chủ sở hữu thì họ có toàn quyền đối với tài sản đó, đƣợc thực hiện tất cả các hành vi tác động lên tài sản để thỏa mãn yêu cầu của mình và không phụ thuộc vào ý chí cũng nhƣ hành vi của ngƣời khác. Ngƣời ta nhận thấy các quyền này mang tính chất tuyệt đối và độc nhất, nghĩa là chủ sở hữu có tất cả các quyền đối với tài sản và tập trung các quyền đó trong tay của mình. Dựa trên tính chất đó mà các luật gia sau này đã xây dựng nên khái niệm vật quyền và trái ngƣợc với nó là trái quyền [41]. Thứ hai, vật quyền đƣợc hiểu là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy định về vật với tƣ cách là đối tƣợng của vật quyền, nội dung của các loại vật quyền, căn cứ phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ vật quyền, các hạn chế mà ngƣời có vật quyền phải tuân thủ khi thực hiện các quyền năng của mình. Nói cách khác, theo cách hiểu này thì vật quyền chính là sự quy định của pháp luật về vật, về các quyền của chủ sở hữu và ngƣời không phải là chủ sở hữu đối với vật [25]. Khái niệm vật quyền đã đƣợc sử dụng một cách rộng rãi trong hệ thống pháp luật dân sự của những nƣớc thuộc hệ thống pháp luật Civil Law. Ví dụ nhƣ tại Bộ luật Napoleon (1804) – Bộ luật Dân sự đầu tiên trên thế giới có quy định về vật quyền (quyền trên vật) tại phần thứ hai. Trong Bộ luật dân sự của Nhật Bản cũng quy định về vật quyền tại phần thứ hai. Bộ luật dân sự Cộng hòa Liên Bang Nga năm 1995 cũng có quy định về quyền sở hữu và các loại vật quyền khác trong phần thứ hai, và sau 20 năm tồn tại, dự thảo của Bộ luật dân sự mới nhất của Nga, tên gọi này đã đƣợc dự kiến thay bằng “vật quyền” để đảm bảo tính ngắn gọn, phù hợp với thông lệ quốc tế [11]. 9
  15. Trong quá trình xây dựng dự thảo Bộ luật Dân sự năm 2015, đã từng có thời điểm Ban soạn thảo đƣa ra khái niệm “vật quyền” vào trong dự thảo và sửa đổi chế định “Tài sản và quyền sở hữu” quy định ở phần thứ hai của Bộ luật dân sự năm 2005 thành chế định “Quyền sở hữu và các vật quyền khác”. Dự thảo sửa đổi này nhằm hƣớng tới mục tiêu xây dựng hệ thống vật quyền đầy đủ ở Việt Nam thông qua việc thừa nhận sự tồn tại của nhiều loại vật quyền khác nhau bên cạnh quyền sở hữu, đƣa các loại quyền tài sản trở về đúng bản chất của nó, phân định rõ hơn các hình thức sở hữu, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền tài sản của các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên, đến dự thảo cuối cùng đƣợc Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII (đã có hiệu lực từ 1/1/2017) thì khái niệm vật quyền không còn đƣợc sử dụng nữa, phần thứ hai của Bộ luật dân sự năm 2005 đƣợc sửa đổi thành “Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản”. Giải thích về lý do không sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật Dân sự năm 2015, nhà làm luật cho rằng việc sử dụng một thuật ngữ hoàn toàn mới trong luật Việt Nam cần phải đƣợc cân nhắc và có tính thuyết phục, bởi lẽ khi sử dụng một thuật ngữ pháp lý mới khiến chúng ta phải thống nhất cách hiểu, lại dùng từ ngữ Hán Việt nên ngƣời dân khó hiểu, có thể sẽ đi ngƣợc lại với xu hƣớng thay đổi về mặt lập pháp ở Việt Nam. Bởi lẽ khi xây dựng một chế định pháp luật hay một thuật ngữ pháp lý, dù là nhỏ hay lớn thì tiêu chí đặt ra đó là phải dễ hiểu, dễ tiếp cận đối với mọi chủ thể trong xã hội [17]. “Quyền bề mặt” là khái niệm mới đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam, nhƣng đối với các nƣớc trên thế giới thì đây là khái niệm không hề mới, thậm chí đã đƣợc quy định từ rất lâu trong luật dân sự La Mã. Dựa trên những tƣ liệu lịch sử của nhân loại, các nhà nghiên cứu cho rằng thuật ngữ “Quyền bề mặt” (Superficies) đã đƣợc hình thành từ rất sớm khoảng 10
  16. năm 439 Trƣớc Công nguyên, khi luật 12 Bảng của nhà nƣớc La Mã ra đời. Cụ thể, thuật ngữ quyền bề mặt đã xuất hiện trong Bộ tập hợp Corpus Juris Civilis – BLDS đồ sộ nhất của Luật La Mã vào thời kỳ hoàng đế Justinian (năm 529 Sau Công nguyên) [38]. Quan điểm của một số nƣớc trên thế giới cho rằng quyền bề mặt là quyền gắn với bề mặt đất để xây dựng công trình, là một trong số quyền thuộc quyền sở hữu. Đây cũng là quy định theo luật La Mã. Theo đó, quyền bề mặt chỉ là quyền đối với phần mặt đất và không có quyền đối với các khoáng chất dƣới lòng đất, không gian trên mặt đất, mặt nƣớc hay bầu trời. Mà các quyền này độc lập với nhau và có thể chuyển nhƣợng nhƣ với các tài sản thông thƣờng. Theo đó thì quyền bề mặt là quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và không bao gồm quyền đối với khoáng sản trong lòng đất. Ở luật La Mã, các quyền đối vật (vật quyền) bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền địa dịch, quyền dụng ích cá nhân, quyền bề mặt và quyền cầm cố. Quyền bề mặt có hai dạng đặc biệt là: quyền của ngƣời thuê trƣờng kỳ đất canh tác và quyền xây dựng các công trình trên đất của ngƣời khác. Các vật quyền này đƣợc chia thành hai loại: vật quyền chính yếu và vật quyền phụ thuộc. Trong đó, quyền bề mặt là vật quyền phụ thuộc, là vật quyền đƣợc xác lập đối với tài sản của ngƣời khác, là quyền của chủ thể không phải là chủ sở hữu của tài sản nhƣng có quyền sử dụng và hƣởng những lợi ích mà tài sản đó đem lại. Vật quyền phụ phải phát sinh trên cơ sở vật quyền chính (vật quyền chính luôn có trƣớc), tác động hạn chế lên vật, không xâm phạm lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu vật, nên vật quyền phụ còn đƣợc gọi là vật quyền hạn chế. Quyền bề mặt đƣợc pháp luật các quốc gia quy định là vật quyền phụ thuộc hay vật quyền hạn chế. 11
  17. Quyền bề mặt (Superficies) là quyền sử dụng bề mặt đất để tạo lập các tài sản gắn liền với đất. Trƣờng hợp phổ biến nhất của quyền bề mặt là các công trình đƣợc xây dựng trên đất của ngƣời khác. Mỗi công trình xây dựng đều đƣợc coi là một phần của đất mà nó đƣợc đặt trên. Ngƣời có quyền bề mặt có quyền đƣợc hƣởng bề mặt, có thể chuyển nhƣợng, thế chấp, cầm cố trong thời gian anh ta hƣởng quyền của mình, có thể để thừa kế theo di chúc và có thể bảo vệ quyền của mình theo phƣơng thức kiện vật quyền. Một ngƣời có thể có quyền bề mặt bằng cách thỏa thuận với chủ sở hữu đất cho phép xây dựng công trình trên đó, phải thanh toán chi phí hợp lý theo thỏa thuận. Quyền bề mặt giống nhƣ là quyền canh tác, là vô thời hạn hoặc trong một thời gian dài. Quyền bề mặt đƣợc xác lập, chuyển dịch và chấm dứt giống nhƣ quyền canh tác. Quyền bề mặt cũng có thể chấm dứt khi hết thời hạn thuê, hoặc không trả tiền thuê trong một thời gian nhất định. Liên quan đến quyền bề mặt cần đề cập đến nguyên tắc của sở hữu đất, đó là những gì có trên đất đều thuộc về đất (Superficies solo cedit), nguyên tắc này vẫn đƣợc nhiều quốc gia ngày nay ghi nhận. Nó đƣợc hiểu là những tài sản có trên đất đều đƣợc coi là một phần của đất và thuộc về chủ sở hữu của mảnh đất đó [21]. Quan điểm khác cho rằng Quyền bề mặt bao gồm cả quyền đối với phần không gian trên đất và cả phần không gian dƣới lòng đất. Đây là quan niệm đƣợc hầu hết các nƣớc Châu Âu sử dụng nhƣ trong pháp luật của Đức, Nga, Hà Lan và một số nƣớc khác. Để xác lập quyền bề mặt, chủ thể có tài sản thuộc sở hữu quyền bề mặt có quyền đối với những bất động sản hữu hình, những tài sản này phục vụ cho việc khai thác công dung của đất. Ở đây, bề mặt bao gồm phạm vi trên mặt đất và trong lòng đất. Khi ngƣời nào đó có quyền sở hữu bề mặt thì cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ mặc nhiên có quyền sử dụng khoảng không trên mặt đất 12
  18. và trong lòng đất đó. Tài sản thuộc sở hữu bề mặt có thể là những vật hiện hữu (nhƣ nhà, công trình xây dựng khác, cây lâu năm và nói chung, các tài sản gắn liền với đất), nhƣng cũng có thể đƣợc phi vật chất hoá thành các quyền tài sản (quyền xây dựng, quyền trồng cây). Nhƣ vậy, từ những quan điểm sơ khai nhất về quyền bề mặt, hiện nay quyền bề mặt đã đƣợc mở rộng hơn về phạm vi thực hiện quyền. Nếu nhƣ ở pháp luật La Mã, quyền bề mặt chỉ là xây dựng công trình trên thì đến nay, quyền bề mặt đƣợc mở rộng hơn về phạm vi, không chỉ đƣợc sử dụng mặt đất mà còn đƣợc sử dụng cả phần không gian trên mặt đất và phần lòng đất. Trong pháp luật Việt Nam, tại Điều 267 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đƣa ra định nghĩa về quyền bề mặt nhƣ sau: Quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về chủ thể khác. Để chứng minh cho định nghĩa trên, chúng ta có thể lấy ví dụ nhƣ sau: anh A ký kết hợp đồng thuê đất của bà B. Thực tế anh A là ngƣời đang sử dụng đất một cách hợp pháp nhƣng anh A lại không đƣợc Luật Đất đai thừa nhận với tƣ cách là “ngƣời sử dụng đất” mà phải là bà B, ngƣời đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, anh A chỉ có thể thuê để sử dụng đất, xây dựng, khai thác, thế chấp các tài sản trên đất chứ không thể giao kết các hợp đồng khác nhƣ chuyển nhƣợng, tặng cho, để lại thừa kế quyền sử dụng đất, bởi những quyền năng này thuộc về bà B. Theo tác giả đánh giá rằng, định nghĩa về quyền về mặt đƣợc nêu tại Điều 267 Bộ luật Dân sự năm 2015 là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với thực tiễn ở nƣớc ta hiện nay, phù hợp với xu thế chung đƣợc nhiều quốc gia hiện nay thừa nhận. Đây là một định nghĩa đƣợc nhìn nhận một cách rộng về phạm 13
  19. vi của quyền bề mặt, không chỉ là trên mặt đất, mặt nƣớc mà còn cả khoảng không gian trên mặt đất, mặt nƣớc và lòng đất nữa. 1.1.2. Đặc điểm của quyền bề mặt Quyền bề mặt đƣợc xác định là một loại vật quyền, vì vậy, nó sẽ mang những đặc điểm chung cơ bản của vật quyền [18]. Một là, quyền bề mặt là quyền mang tính đối vật (hay còn gọi là quyền chi phối trực tiếp tới vật). Quyền bề mặt là quyền chi phối trực tiếp của chủ thể quyền bề mặt lên tài sản. Chủ thể quyền bề mặt có thể thực hiện quyền của mình đối với tài sản là đối tƣợng của quyền bề mặt bằng những hành vi tác động trực tiếp lên tài sản nhƣ nắm giữ, khai thác công dụng, bảo quản, gìn giữ tài sản,…Tính đối vật trong vật quyền thể hiện mối liên hệ trực tiếp giữa ngƣời với vật (tài sản) mà không cần có vai trò của bất kỳ ngƣời thứ ba nào khác can thiệp vào. Vật quyền là quyền tuyệt đối, áp dụng đối với tất cả mọi ngƣời. Vật quyền có nguồn gốc từ luật học La Mã và đƣợc chia thành 2 loại là quyền sở hữu và các loại vật quyền khác (mà các nƣớc gọi là vật quyền hạn chế). Quyền sở hữu là quyền đối với vật của mình, còn các vật quyền khác là quyền đối với vật của ngƣời khác. Một ngƣời có thể cùng một lúc là chủ thể của nhiều vật quyền khác nhau. Quyền bề mặt mang đầy đủ những đặc điểm của vật quyền. Theo quy định của pháp luật các nƣớc Pháp, Đức, Nga,… chế độ sở hữu đất đai là chế độ tƣ nhân, đất đai là một đối tƣợng có thể tự do chuyển giao, cũng vì thế mà quyền bề mặt ở những nƣớc này mang đầy đủ những đặc điểm của vật quyền. Khác với vật quyền mà điển hình là quyền bề mặt thì quyền đối nhân đòi hỏi ngƣời có quyền phải yêu cầu ngƣời có tài sản thực hiện nghĩa vụ giao tài sản hoặc lợi ích vật chất gắn liền với tài sản cho mình. 14
  20. Hai là, quyền bề mặt có tính phái sinh. Quyền bề mặt là quyền phái sinh từ quyền sử dụng đất thuộc sở hữu của ngƣời khác. Bởi lẽ, quyền bề mặt không đƣợc tồn tại một cách tự nhiên nhƣ quyền sử dụng đất mà nó đƣợc xác lập sau khi có quyền sử dụng đất. Chủ thể có quyền sử dụng đất sẽ chuyển giao lại quyền bề mặt cho chủ thể khác theo sự thỏa thuận của các bên. Theo đó, chủ thể quyền bề mặt sẽ có các quyền năng của mình đối với phần mặt đất, không gian trong lòng và phần không gian trên mặt đất của mảnh đất đó. Chủ thể quyền bề mặt có thể tạo dựng và khai thác lợi ích của tài sản đó trong một khoảng thời hạn do hai bên chủ thể thỏa thuận. Ba là, tính tuyệt đối (có hiệu lực với tất cả mọi người). Tính tuyệt đối là một trong những biểu hiện của nguyên tắc tuyệt đối của vật quyền. Vật quyền đƣợc coi là quyền có tính chất tuyệt đối. Vật quyền có hiệu lực đối với tất cả mọi ngƣời và mọi ngƣời phải tôn trọng [20]. Về góc nhìn chung, cũng giống nhƣ vật quyền, quyền bề mặt đƣợc tôn trọng bởi tất cả các chủ thể khác, kể cả chủ sở hữu đất đai. Chủ thể quyền bề mặt có quyền bảo vệ lợi ích của mình một cách tuyệt đối. Tất cả những ai đang nắm giữ tài sản đƣợc quyền yêu cầu của ngƣời nắm giữ tài sản mà không, dù có tƣ cách nào đều phải tôn trọng quyền năng của ngƣời có vật quyền, một cách không điều kiện. Theo đó, ngƣời có quyền sở hữu tài sản đƣợc quyền yêu cầu ngƣời nắm giữ tài sản phải giao tài sản cho mình và ngƣời này phải giao nếu không muốn bị coi là ngƣời chiếm giữ tài sản trái phép. Khi có hành vi chiếm giữ tài sản trái phép hoặc có bất kỳ hành vi xâm phạm đến quyền của mình, pháp luật dân sự quy định cho ngƣời có quyền bề mặt đƣợc quyền tự mình sử dụng mọi biện pháp không trái với các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ, ngăn chặn 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0