intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền công tố trong các vụ án hình sự về ma túy (qua thực tiễn viện kiểm sát tỉnh Thanh Hóa)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

20
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở lý luận về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong chính thể nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trên cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân liên hệ việc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố dưới góc độ hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền công tố trong các vụ án hình sự về ma túy (qua thực tiễn viện kiểm sát tỉnh Thanh Hóa)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Công trình đƣợc hoàn thành KHOA LUẬT tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội LỮ THỊ PHƢƠNG QUÝ Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung QUYỀN CÔNG TỐ Phản biện 1: TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY (QUA THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT TỈNH THANH HÓA) Phản biện 2: Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tƣ liệu - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội HÀ NỘI - 2012 1 2
  2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN 6 KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Những vấn đề lý luận chung cơ quan tư pháp và quyền 6 công tố 1.1.1. Cơ quan tư pháp trong chính thể nhà nước 6 1.1.2. Sự ra đời và phát triển của quyền công tố 8 1.2. Lịch sử hình thành và mô hình hoạt động của viện kiểm sát 16 ở thế giới và Việt Nam 1.2.1. Mô hình hoạt động của cơ quan công tố trên thế giới 16 1.2.1.1. Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm sát) 16 theo hệ thống luật pháp Châu Âu - lục địa và Luật Anh - Mỹ 1.2.1.2. Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm 21 sát) ở châu Á 1.2.2. Sự ra đời và phát triển của chế định Viện kiểm sát trong bộ 29 máy nhà nước Việt Nam Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ THỰC TRẠNG QUYỀN 34 CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY QUA THỰC TIỄN Ở VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY 2.1. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 34 4
  3. 2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội 34 2.1.2. Tội phạm hình sự và ma túy 38 2.2. Quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án ma túy tại 45 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa 2.2.1. Quyền công tố trong tố tụng hình sự 45 2.2.2. Thực trạng về quyền công tố trong điều tra, truy tố, xét xử 54 các vụ án ma túy qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa 2.2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh 54 Thanh Hóa 2.2.2.2 Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án 57 hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa 2.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quyền công tố trong 69 việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy 2.3.1. Đánh giá chung về kết quả và tồn tại trong công tác thực 69 hành quyền công tố trong các vụ án hình sự 2.3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công 73 tố của Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma tuý KẾT LUẬN 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 5
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đề tài luận văn thạc sĩ Luật học: "Quyền công tố trong các vụ án hình sự về ma túy (qua thực tiễn Viện kiểm sát tỉnh Thanh Hóa)" được nghiên cứu bởi những lý do cấp thiết sau: Thứ nhất: Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo về pháp luật trong đó có việc tăng cường chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội và bảo về pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng như Nghị quyết số 08/NQ/2002 ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ: "Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội… giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp" [9]. Bên cạnh đó Nghị quyết còn nhấn mạnh: Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… [9]. Việc thực hành quyền công tố ở Việt Nam do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tích trong việc trừng trị 6
  5. tội phạm và bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên so với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm còn nhiều hạn chế về cả nhận thức và thực tiễn. Thứ hai, vấn nạn về ma túy đang là một vấn đề nhức nhối ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, sinh hoạt của toàn nhân loại. Ma túy đã gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sự trường tồn của toàn dân tộc. Toàn thế giới hiện nay có khoảng 100 triệu người nghiện ma túy, ở Việt Nam trong 5 năm qua có 783.339 người nghiện ma túy. Đáng lo ngại là ma túy đã tràn lan vào cả các trường học từ cấp tiểu học trở lên. Theo thống kê 63/63 tỉnh thành đều có học sinh, sinh viên sử dụng ma túy. Sản xuất và buôn bán ma túy mạng lại siêu lợi nhuận nên đây là nguyên nhân thúc dẩy sự gia tăng số người nghiện ma túy và tội phạm về ma túy năm trước lớn hơn năm sau. Đối với địa bàn tỉnh Thanh Hóa là một tỉnh rộng, địa hình phức tạp, đường biên giới với nước bạn Lào dài. Dân số đông dẫn đến số người nghiện ma túy cũng nhiều. Do vậy tình hình tội phạm về ma túy đang là một trong những vấn đề nhức nhối. Mặc dù tỉnh Thanh Hóa chỉ là địa điểm trung chuyển ma túy nhưng hàng năm cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn và tội phạm về ma túy vẫn diễn ra đầy cam go và phức tạp, đôi khi nó lấy đi cả tính mạng của cán bộ, chiến sĩ trực tiếp đối mặt với tội phạm ma túy. Hàng năm cơ quan chức năng đã phát hiện bắt giữ, xử lý hàng chục nghìn vụ vi phạm và tội phạm về ma túy, triệt phá nhiều đường dây ma túy lớn hoạt động nhiều năm, xóa nhiều tụ điểm ma túy phức tạp làm thay đổi tình hình ở một số địa bàn. Hàng năm các cơ quan tiến hành tố tụng đã đưa ra xét xử nghiêm minh một số lượng rất lớn các vụ án ma túy, đưa một số lượng lớn các đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện. Thông qua đó góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân đối với cuộc đấu tranh về tội phạm này. Trước sự gia tăng đến mức lo ngại của tội phạm ma túy, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo kiên quyết đấu tranh nhằm từng bước ngăn chặn 7
  6. và đẩy lùi, tiến tới loại trừ loại tội phạm nguy hiểm này ra khỏi đời sống xã hội, tuy nhiên việc giải quyết các vụ án ma túy đang còn gặp nhiều khó khăn cả về lý luận và thực tiễn bởi tội phạm về ma túy diễn biến phức tạp, quá trình giải quyết án chia thành nhiều giai đoạn khác nhau do vậy việc điều tra, truy tố, xét xử gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý chỉ đạo điều hành đối với công tác này còn có những thiếu sót nhất định. Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu này. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, đề ra những giải pháp cơ bản giúp cho việc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa có chất lượng, đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở tỉnh Thanh Hóa. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích: - Làm rõ cơ sở lý luận về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong chính thể nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Trên cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân liên hệ việc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố dưới góc độ hoàn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng. Nhiệm vụ: - Nghiên cứu lịch sử hình thành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân theo các bản Hiến pháp - Việc tổ chức thực hành quyền công tố ở một số nước trên thế giới. - Nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố ở Việt Nam. 8
  7. - Khảo sát thực tiễn việc thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy từ năm 2005 đến nay ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa. - Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về nội dung và hình thức để qua đó nâng cao chức năng thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma tuý ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng. 3. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói chung, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói riêng; quan điểm về đấu tranh phòng chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta. Các học thuyết chính trị, pháp lý về tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp trong nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lý luận chung về nhà nước pháp luật, chủ nghĩa Hiến pháp và các khoa học pháp lý liên quan. Bên cạnh đó luận văn còn nghiên cứu dựa trên những quy định của pháp luật hình sự và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta từ khi thành lập đến nay. Từ những cơ sở lý luận trên, luận văn tiếp cận vấn đề trên cơ sở phương pháp luận của duy vật lịch sử và các phương pháp khác so sánh, phân tích, tổng hợp và khảo sát thực tiễn nhằm làm rõ các nội dung cần nghiên cứu. 4. Ý nghĩa của luận văn Những nội dung nghiên cứu của luận văn là một đóng góp nhỏ trong việc nhìn nhận và đánh giá hoạt động của cơ quan Viện kiểm sát trong đó có chức năng thực hành quyền công tố. Qua đó có cái nhìn đúng đắn về hoạt động này trong thực tiễn để thấy rõ được vai trò của Viện kiểm sát trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng. 9
  8. Ngoài ra luận văn còn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự về ma túy trong tiến trình cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo trong việc nghiên cứu lý luận cũng như áp dụng vào thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về ma túy. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2: Tình hình tội phạm và thực trạng quyền công tố trong các vụ án hình sự về ma túy qua thực tiễn ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa hiện nay. 10
  9. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CƠ QUAN TƢ PHÁP VÀ QUYỀN CÔNG TỐ 1.1.1. Cơ quan tƣ pháp trong chính thể nhà nƣớc Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của tòa án và những hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, cơ quan tư pháp bao gồm: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức tư pháp bổ trợ như: Luật sư, Công chứng, Giám định, Tư vấn pháp luật... Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Một nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp nhân dân đã từng bước được thiết lập. Gần 60 năm qua, các cơ quan tư pháp đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, đã đóng góp không nhỏ vào thắng lợi chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các cơ quan tư pháp Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo đơn vị hành chính, có sự phân công chỉ đạo từ trung ương đến địa phương và hoạt 11
  10. động theo chế độ thủ trưởng chế. Mặc dù đã trải qua mộ thời gian dài tồn tại và phát triển nhưng cho đến nay các cơ quan tư pháp vẫn còn mang đậm bản chất phong kiến, bao cấp chưa chưa nghiêng hẳn về chức năng bảo vệ công lý của mình. Tòa án không phải là cấp xét xử cuối cùng mà vẫn phải chịu sự giám sát của các cơ quan nhà nước khác. Hoạt động tư pháp là hoạt động có mục đích chung nhằm "bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [24, Điều 126]. Vì vậy, các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát và điều tra đều là những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, là những bộ phận không thể thiếu của bộ máy nhà nước. Với các mục đích như thế, các cơ quan tư pháp chính là cơ quan bảo vệ pháp luật bằng cách áp dụng luật của Quốc hội và các văn bản pháp quy để giải quyết các vi phạm pháp luật, các tội phạm và các tranh chấp xảy ra trong đời sống của bản thân bộ máy nhà nước và xã hội. Có thể xem các cơ quan tư pháp như những bộ phận chuyển tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong pháp luật vào đời sống xã hội qua việc giải quyết các vụ việc liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích thiết thân của những con người cụ thể. Nếu như "lực" thể hiện đầy đủ, đúng đắn và chính xác qua hoạt động lập pháp và lập quy, nhưng hệ thống truyền lực qua hoạt động của các cơ quan tư pháp không tốt, thì lực đó không đi vào cuộc sống và không trở thành hiện thực. Nói cách khác, hoạt động tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật liên quan trực tiếp đến lợi ích thiết thân, quan trọng nhất đối với con người như danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản và cả tính mạng. Bằng cách đó mà pháp luật vì con người, cho con người, đề cao các quyền con người trở thành hiện thực. Hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát quan hệ thiết thân đến con người. Họ đòi hỏi Tòa án và Viện kiểm sát phải là biểu tượng điển hình của 12
  11. việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện trực tiếp tính chất dân chủ và công khai trong hoạt động. Trong tất cả các khâu của quá trình bảo vệ pháp luật, Tòa án và Viện kiểm sát là nơi biểu hiện rõ nhất bản chất của pháp luật. Ở đó, con người tìm thấy lẽ công bằng, tính nhân đạo, "thiện" và "ác" một cách trực tiếp và cụ thể qua các vụ việc cụ thể. Ở đó, còn là "mảnh đất" kích thích sự hoàn thiện và phát triển pháp luật vì con người và cho con người. Thực tiễn xây dựng bộ máy nhà nước cho thấy, hệ thống tư pháp hiện nay ở nước ta chưa đảm đương được đầy đủ vị trí, vai trò nói trên. Có thể nói, ở tất cả các khâu từ điều tra, truy tố, đến xét xử và phòng ngừa, hệ thống tư pháp chưa thực sự là một hệ thống vận dụng và áp dụng thành thạo pháp luật. Trong nhiều trường hợp, quyền lực nhà nước bị biến dạng qua hoạt động cụ thể của Tòa án và Viện kiểm sát. Uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật giảm sút trong dư luận của quần chúng. Vì vậy, tiếp tục đổi mới, cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, đòi hỏi phải nâng cao năng lực áp dụng pháp luật và năng lực đề xuất, kiến nghị sáng kiến đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì con người, cho con người đối với đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán. 1.1.2. Sự ra đời và phát triển của quyền công tố Việc nghiên cứu so sánh lịch sử tư pháp hình sự trên thế giới đã cho thấy, về cơ bản khái niệm quyền công tố - hoạt động tố tụng vì lợi ích công cộng (lợi ích của Nhà nước hay của xã hội) đối với người phạm tội - đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Chẳng hạn, ở nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ V trước công nguyên đã tồn tại hai hình thức tố tụng - công tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) và tư tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án xảy ra do sự vi phạm đến các lợi ích riêng của ai đó); 13
  12. còn ở La Mã cổ đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ quân sự và hình thành Nhà nước chiếm hữu nô lệ, thì công tố đã được tiến hành đối với cả các vụ án quan trọng nhất trực tiếp xâm hại (hoặc đe dọa nghiêm trọng) đến trật tự xã hội - các lợi ích công cộng, khác với các vụ án động chạm đến các lợi ích cá nhân. Như vậy "quyền công tố" đã xuất hiện từ thời kỳ xa xưa của xã hội loài người. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước; nó ra đời, tồn tại và mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà nước, quyền công tố chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có những thay đổi: Lợi ích cá nhân liên quan đến lợi ích công, tác động qua lại với nhau; chính vì vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của cá nhân. Từ đó, vai trò công tố càng được đề cao trong xã hội. Tại Việt Nam, khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa học pháp lý nói chung, chế định "quyền công tố" chưa được nghiên cứu một cách toàn diện; chính vì vậy, chưa có khái niệm chính thống về quyền công tố. Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được Viện công tố thực hiện ở nước ta từ năm 1945; từ 1960 đến nay do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Tuy nhiên, hiểu thế nào là "công tố", "quyền công tố", bản chất và nội dung của nó là gì, thì hiện nay vẫn chưa có nhận thức, quan điểm thống nhất chung. Có quan điểm cho rằng, công tố là "hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật". Theo Từ điển tiếng Việt, công tố có nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án". 14
  13. Từ điển Luật học lại ghi: Công tố "là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội". Thuật ngữ "quyền công tố" lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980; sau đó tại Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002... Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính thức nội dung quyền công tố. Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực cũng như phạm vi chủ thể tham gia thực hành quyền công tố. Nhưng về nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền công tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào. Nghiên cứu các tài liệu hiện hành có thể thấy một số quan điểm về quyền công tố như sau: - Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân (trước khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001). Quan điểm này xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân để xem xét quyền công tố; theo đó, tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố. Có nghĩa là ngay cả khi Viện kiểm sát kiến nghị, yêu cầu các cơ quan nhà nước khắc phục, sửa chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội thì đó cũng là hoạt động thực hành quyền công tố. Quan điểm này cho rằng công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 1960 cho đến khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được ban hành. Cơ sở lập luận của quan điểm này chủ yếu dựa vào nội dung các điều luật được quy định trong 15
  14. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992. Mặt khác, quan điểm này cũng chịu ảnh hưởng của các nhà tố tụng hình sự Liên Xô trước đây. - Quan điểm thứ hai cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực hành quyền công tố). Quan điểm này cho rằng việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự. Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung cũng như phạm vi của quyền công tố. Về lý luận cũng như trên thực tế, hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát tại Tòa án chỉ là một bộ phận trong nhiều hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát. - Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Theo quan điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc trưng theo luật định mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp; quyền công tố là một nội dung của hoạt động chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và các lĩnh vực tư pháp khác, nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất. Đây là quan điểm được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong 16
  15. các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề tổng kết trước đây của ngành Kiểm sát. Quan điểm này quá mở rộng quyền công tố, dẫn đến xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác; đồng nhất quyền công tố với các quyền năng khác của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động. Những quan điểm nêu trên về quyền công tố đều có sự hợp lý ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên mỗi quan điểm đều có những nội dung còn bất cập, thể hiện: - Hoặc là đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến mở rộng phạm vi quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, hành chính, kinh tế, lao động. - Hoặc là coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân danh quyền lực công. - Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Mặt khác, các quan điểm đó đều có hạn chế là không phân định rõ ràng khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nhiều quan điểm cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật) vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có những nội dung xâm nhập, đan xen lẫn nhau không thể tách rời; tạo nên sự thống nhất trong chức năng của Viện kiểm sát. Bên cạnh đó, để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố, cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật 17
  16. cụ thể. Quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền, không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Tội phạm là vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất; kẻ phạm tội xâm phạm trước hết đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội (an ninh, trật tự xã hội), sau đó mới đến lợi ích của người bị hại. Nhà nước nhân danh xã hội dành cho mình quyền trừng trị kẻ phạm tội. Trong hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản, đó là chức năng buộc tội (kết quả điều tra xác minh hành vi phạm tội), chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử. Với tư cách là một chức năng tố tụng luôn nhằm chống lại một cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, chức năng buộc tội thực chất chính là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội. Trong chức năng buộc tội, hình thức buộc tội nhân danh Nhà nước (nhân danh quyền lực công) giữ vai trò là động lực của hoạt động tố tụng; nó thu hút hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự. Khi đề cập đến vị trí, vai trò của Công tố viên thì các nhà làm luật nước ngoài thường gọi họ là "người buộc tội nhân danh Nhà nước", dịch ra tiếng Việt là "công tố". Cùng với thời gian, quyền công tố đã dần dần được hình thành một cách riêng biệt và đến hôm nay nó là một chế định pháp lý độc lập được thừa nhận chung trong luật tố tụng hình sự của các Nhà nước pháp quyền. Để hiểu rõ "quyền công tố" thực sự như thế nào, chúng ta có thể thấy - Trước hết, về mặt lập pháp: cụm từ "quyền công tố" chính thức được ghi nhận lần đầu tiên về mặt hiến định trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 138) và hiện nay - trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 137), ngoài ra cụm từ này còn được đề cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 23) và trong Luật 18
  17. ngày 8-10-1992 về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (các điều 15-16). Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta (từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao) chính thức giải thích nội dung của quyền công tố. - Về mặt thuật ngữ: theo cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do GS. Hoàng Phê chủ biên, thì công tố có nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước tòa án" [18, tr. 204]. - Về mặt thực tiễn: hoạt động điều tra đúng pháp luật là điều kiện tiên quyết và là tiền đề đảm bảo pháp chế cho việc tiến hành tốt hai chức năng của quyền công tố tương ứng trong hai giai đoạn tiếp theo sau đó - truy tố bị can trước pháp luật và buộc tội bị cáo tại phiên tòa xét xử của Tòa án. Và chính vì vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự của nước ta cho thấy, khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát cũng tiến hành cả chức năng đầu tiên và độc lập của quyền này - kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra (mà điều này trên thực tế cũng được nhà làm luật nước ta giao cho Viện kiểm sát). Hiện nay trong thực tiễn tư pháp hình sự và trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn còn có sự nhận thức chưa đúng hoặc chưa thống nhất về khái niệm "quyền công tố". Chính vì lẽ đó, nhiệm vụ làm sáng tỏ những vấn đề xung quanh khái niệm này là không đơn giản. Tuy vậy, đứng dưới góc độ của pháp luật nói chung và pháp luật về hình sự nói riêng có thể khái quát được định nghĩa của khái niệm quyền công tố như sau: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do luật tố tụng hình sự quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án nhằm góp phần ra được các bản án có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền tự do của công dân, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước trong hoạt động tư pháp hình sự. 19
  18. Trên cơ sở khái niệm khoa học này, có thể làm sáng tỏ về mặt lý luận bản chất pháp lý, nội dung và các đặc điểm cơ bản của từng chức năng của quyền công tố, đồng thời từ đó khẳng định vị trí hợp lý của Viện kiểm sát trong bộ máy quyền lực nhà nước. Việc phân tích các quy định của luật thực định (Điều 137 Hiến pháp năm 1992, các Điều 15-16 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, và các Điều 23, 141-144, 156, 164, 169-170, v.v… Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) và nghiên cứu thực tiễn tư pháp hình sự cho thấy, quyền công tố mà Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước thực hiện có thể được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa hẹp - khi nó được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự các chức năng truy tố và buộc tội trước Tòa án người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm; và nghĩa rộng - khi nó được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự các chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội trước Tòa án người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Từ hai cách hiểu này, chúng ta cần phải lần lượt tìm hiểu xem nội dung của quyền công tố mà Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) nào của quá trình tố tụng hình sự và tương ứng với việc thực hiện các chức năng nào. Trước hết, nếu như chỉ hiểu theo nghĩa hẹp, thì nội dung của quyền công tố chỉ được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ sau khi kết thúc việc điều tra tội phạm và vụ án hình sự được chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án và chấm dứt sau khi Tòa án xét xử xong với việc tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật đối với người đó, tức là trong hai giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự - truy tố bị can và buộc tội bị cáo của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử của Tòa án. Hai giai đoạn này tương ứng với việc thực hiện hai chức năng của Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước - 20
  19. chức năng truy tố và chức năng buộc tội. Các chức năng của quyền công tố trong luật tố tụng hình sự mà Viện kiểm sát nhân danh Nhà nước thực hiện luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ và hữu cơ, thống nhất và biện chứng với nhau, mà nếu không thực hiện tốt bất kỳ một chức năng nào, thì sẽ dẫn đến tình trạng không đồng bộ, thiếu sự nhất quán và do đó, quyền công tố sẽ không thể đạt được hiệu quả và mục đích cao cả của nó. 1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT Ở THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.2.1. Mô hình hoạt động của cơ quan công tố trên thế giới 1.2.1.1. Một số mô hình hoạt động của cơ quan công tố (Viện kiểm sát) theo hệ thống luật pháp Châu Âu - lục địa và Luật Anh - Mỹ Mô hình Nhà nước quân chủ Anh quốc, được coi là xuất phát điểm của mọi mô hình tổ chức nhà nước hiện nay. Có thể nói rằng, mọi thể chế dân chủ đương đại đều có gốc tích từ Anh quốc. Anh quốc có thể được xem như là quê hương của các thiết chế dân chủ cổ điển. Điều kỳ lạ là ở chỗ, các thiết chế của nhà nước Anh quốc được hình thành và tồn tại cho mãi đến hiện nay, là kết quả của một sự vận động dần dần từng bước một của lịch sử thực tế, như "một bức tường gạch được xây nên, theo một nguyên tắc hết viên gạch thứ nhất, rồi mới được viên gạch thứ hai, không có điều ngược lại", không theo một lý thuyết nào cho trước. Nước Anh không có một bản hiến pháp thành văn giống như nhiều nước khác. Hiến pháp Anh là một kiểu hiến pháp bất thành văn, mà nguồn của nó là các thông lệ truyền thống, các đạo luật của nghị viện Anh và pháp luật của Liên minh Châu Âu. Sự độc đáo và linh hoạt này lý giải một phần việc áp dụng cơ chế phân quyền "mềm" giữa các cơ quan của bộ máy nhà nước, thiên về xu hướng hợp nhất quyền lực hơn là phân chia quyền lực rạch ròi. Viện công tố Hoàng gia Anh và Tòa án tối cao của Anh là cơ quan tư pháp của Anh. Viện công tố Hoàng gia Anh do Viện trưởng Viện công tố 21
  20. đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và hoạt động dưới sự giám sát của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Tuy nhiên đây là sự giám sát chung mang tính chất chính trị chứ không phải là sự giám sát thường xuyên mang tính pháp lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp là nghị sĩ Quốc hội và do Nữ hoàng anh bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng. Theo quy định của pháp luật, Chính phủ không kiểm tra Công tố Hoàng gia mà nhiệm vụ này được giao cho Bộ Tư pháp. Hệ thống công tố hoàng gia Anh là cơ quan truy tố được phân chia theo khu vực địa lý. Mỗi khu vực do một Công tố viên trưởng Hoàng gia đứng đầu và ông này có quyền bổ nhiệm Công tố viên qua thi cử. Các Công tố viên thực thi nhiệm vụ công tố dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng. Việc khởi tố, điều tra tội phạm ở Anh thuộc thẩm quyền của cơ quan Cảnh sát. Công tố Hoàng gia không thực thi chức năng giám sát việc điều tra hoặc chỉ đạo việc điều tra của cảnh sát hay chỉ thị cho cảnh sát trong việc thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, Công tố Hoàng gia Anh có nhịêm vụ theo luật định thậphỉ dẫn cho cảnh sát về mối liên quan, khối lượng cần và đủ cũng như khả năng có thể chấp nhận được của các bằng chứng đã thu thập được, nhưng đây không phải là mệnh lệnh buộc cảnh sát phải tuân theo. việc quyết định làm thế nào để đáp ứng được các chỉ dẫn đó hoàn toàn là việc của cảnh sát. nhiệm vụ chủ yếu của Công tố hoàng gia là truy tố tội phạm, ngoài ra cơ quan này có quyền khởi tố đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Trong quá trình điều tra, Công tố viên chỉ đóng vai trò như Luật sư tư vấn cho cơ quan cảnh sát nhưng lại có quyền quyết định một số vấn đề như: có cần thiết phải khởi tố bị can hay không hoặc nếu vụ việc đã được khởi tố thì tiếp tục tiến hành tố tụng hay đình chỉ. Tất cả các Công tố viên phải chịu trách nhiệm cá nhân và phải cân nhắc đầy đủ các vấn đề chứng cứ trên tinh thần bộ luật truy tố tội phạm. Trong giai đoạn xét xử, Công tố viên Hoàng gia không có quyền đề nghị mức án mà trình bày nội dung vụ án, còn quyết định tội danh và mức án là do Hội 22
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1